Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.51 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NINH BÁ VINH

VAI TR CỦA NHÂN T CHỦ QUAN TRONG
QU TR NH XÂ
NG N N KINH T TH TRƯỜNG
Đ NH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGH A Ở VIỆT NA

U N VĂN THẠC S TRI T HỌC

THÀNH PH

HỒ CHÍ

INH - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NINH BÁ VINH

VAI TR CỦA NHÂN T CHỦ QUAN TRONG
QU TR NH XÂ
NG N N KINH T TH TRƯỜNG
Đ NH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGH A Ở VIỆT NA


Chuyên ngành: TRI T HỌC
ã số: 60.22.80

U N VĂN THẠC S TRI T HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGU ỄN TH NGH A

THÀNH PH

HỒ CHÍ

INH - 2013


ỜI CA

ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tơi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa. Cơng trình này chưa
được cơng bố trên bất cứ tạp chí, sách, báo nào.
Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trong luận văn là hồn tồn trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả


Ninh Bá Vinh

năm 2013


ỤC ỤC
Trang
PHẦN

Ở ĐẦU ..................................................................... 1

Chương 1:
KINH T

U N V

NHÂN T

CHỦ QUAN VÀ N N

TH TRƯỜNG Đ NH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGH A Ở

VIỆT NA
1.1.

Ý

.............................................................................................. .. 9
Lý luận về nhân tố chủ quan .................................................... .. 9


1.1.1. Khái niệm chủ thể và khách thể; chủ quan và khách quan ...... .. 9
1.1.2. Khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan ............... 12
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan .... 18
1.2. Lý luận chung về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ........................................................................................ 24
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ........................................................... 24
1.2.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ........................................................................................ 33
1.3. Nội dung của vai trị nhân tố chủ quan trong q trình xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt

Nam ............................................................................................................. 39
Kết luận chương 1 .............................................................................. 48
Chương 2: TH C TRẠNG VÀ GIẢI PH P PH T HU
TR

CỦA NHÂN T

CHỦ QUAN TRONG QU TR NH XÂ

VAI
NG

N N KINH T TH TRƯỜNG Đ NH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGH A
Ở VIỆT NA

........................................................................................... 50



2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam .................................................................................................... 50
2.1.1. Nhân tố chủ quan thúc đẩy sự hình thành các điều kiện, tiền đề
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ................................... 50
2.1.2. Nhân tố chủ quan phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ

nghĩa ............................................................................................................ 55
2.1.3. Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc thiết lập và giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta ............ 60
2.2. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của nhân tố chủ quan
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam .................................................................................................. 71
2.2.1. Phương hướng nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ................................................................................................... 71
2.2.2. Các giải pháp phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong

quá

trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ............................................................................................................ 75
Kết luận chương 2 ............................................................................ 110
K T LU N CHUNG .................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................... 116



1

PHẦN

Ở ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (tháng 12 năm 2986) đến nay đã
đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn phát triển đất
nước và những bài học kinh nghiệm được rút ra trong thời kỳ đổi mới của
Đảng cho thấy, đường lối đổi mới dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hồn tồn đúng đắn và sáng tạo. Nó
chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
hoàn cảnh thực tế Việt Nam xu thế của thời đại.
Công cuộc đổi mới ở nước ta được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong đó, trước hết đổi mới về tư duy lý luận và trọng tâm
của công cuộc đổi mới là trên lĩnh vực kinh tế. Nhận thức được xu thế khách
quan của nền kinh tế để hoạch định đường lối, chính sách phát triển thích
hợp. Xu thế khách quan ấy là sự phát triển dựa trên cơ sở kinh tế thị trường
hiện đại, mở cửa. Do đó, thực chất của sự đổi mới kinh tế là hình thành một
“chủ thuyết kinh tế mới” và về mặt thực tiễn là sự chuyển đổi mơ hình phát
triển. Từ mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là một quá trình xây dựng mơ hình phát triển mới, chưa có tiền lệ trong lịch
sử. Đó là kết quả của tư duy sáng tạo của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân
dân Việt Nam dựa trên thực tiễn đổi mới và tình hình thế giới trong thời kỳ

mới. Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước cùng toàn thể nhân dân biết
khai thác những điều kiện khách quan thuận lợi, hạn chế những tác động
tiêu cực cả ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, việc đảm bảo vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước và phát huy sức mạnh của


2

nhân dân – với tư cách là nhân tố chủ quan trong q trình phát triển kinh tế
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trải qua 26 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
phải nhập khẩu lương thực, với thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp
nhất trên thế giới. Năm 2009, Việt Nam đã có tên trong danh sách những
nước có mức thu nhập trung bình của thế giới (trên 1000 USD/ 1 người/ 1
năm), đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Bên
cạnh đó, so với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đất nước vẫn còn tồn tại những
mặt bất cập. Cho đến nay, nền kinh tế thị trường nước ta vẫn đang trong quá
trình xây dựng, năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý và điều hành
kinh tế của Nhà nước tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển.
Vì vậy, việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan đối với quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
việc hết sức quan trọng và cấp thiết. Để làm sáng tỏ nội dung trên, chúng tơi
cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu về “Vai trị của nhân tố chủ quan trong q
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”. Từ đó nêu ra những phương hướng , giải pháp cơ bản góp phần nâng
cao vai trò của nhân tố chủ quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không phải là vấn đề mới, nó đã được V.I. Lênin đề cập tới cách nay gần
một thế kỷ trong chính sách kinh tế mới. Sau chính sách cộng sản thời chiến,
V.I. Lênin đã bỏ chế độ trưng mua lương thực thừa, sử dụng quan hệ buôn
bán trao đổi giữa công nghiệp và nông nghiệp, hạch toán kinh tế và khuyến


3

khích kinh tế, sử dụng quan hệ tiền tệ. Những vấn đề này được V.I. Lênin
bàn cụ thể trong những tác phẩm: Bàn về thuế lương thực, Bàn về chế độ
hợp tác xã…
Nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là
vấn đề lớn của ngành lý luận trong nước, nhằm định hướng cho sự phát triển
đất nước. Vì vậy, trong thời kỳ đổi mới, đã có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu, những hội thảo khoa học, sách, tạp chí, bài viết của những nhà khoa
học hàng đầu trong nước đề cập đến như: Đề án 59 Trung ương về Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
hội nhập quốc tế - năm 2007; Một số vấn đề về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – tác giả Vũ Đình Bách chủ biên, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – tác giả Từ
Điển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; Những vấn đề lý luận và thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và
Lào – tác giả Lê Hữu Nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: lý luận và thực tiễn – nhiều tác giả,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; Phát triển các loại thị trường trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – tác giả
Nguyễn Đình Hương, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006; Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – tác giả Hà Duy Thành,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; 20 năm đổi mới và sự hình thành thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – tác giả Nguyễn Cúc,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – tác giả Vũ Quốc Tuấn (chủ biên), Nxb.
Thống Kê, Hà Nội, 2003; và những cơng trình khác.


4

Mặc dù nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu , song tìm hiểu về vấn đề Vai trị
của nhân tố chủ quan trong q trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì chưa có nhiều. Một số cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến nội dung luận văn như: Tác động của điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – tác giả Dương Thị Liễu,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Quan hệ biện chứng giữa khách
quan và chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta – tác giả Chế Công
Tâm, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1993.
Bên cạnh những cơng trình chun khảo nêu trên liên quan mật thiết
đến nội dung luận văn thì có một số các đề tài, bài báo khoa học cũng đề cập
đến những cặp phạm trù chủ thể - khách thể; chủ quan – khách quan; nhân
tố chủ quan – nhân tố khách quan như: Nhân tố chủ quan và nhân tố khách
quan: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay – tác giả Phạm
Ngọc Minh, luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1999; Vai trị của nhân tố chủ
quan trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa – tác giả Nguyễn Thị
Bích Thủy, luận án tiến sĩ triết học, thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người mới ở Việt
Nam – tác giả Nguyễn Thế Kiệt, luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội, 1988; Phát huy

vai trò nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
nước ta – tác giả Dương Phú Hiệp, tạp chí Triết học số 2 năm 1973; Vị trí và
vai trị của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của quy luật xã hội – tác
giả Phạm Văn Đức, tạp chí Triết học số 3 năm 1989; Bàn về những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội – tác giả
Trần Bảo, tạp chí Triết học số 3 năm 1989;…


5

Kết quả nghiên cứu các cơng trình nêu trên rất giá trị, các tác giả
nghiên cứu đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của nhân tố khách quan
và nhân tố chủ quan trong quá trình phát triển xã hội nói chung và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Qua việc tìm
hiểu các cơng trình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy đề tài: Tác động của
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của tác giả
Dương Thị Liễu là công trình có ý nghĩa lớn về vấn đề này. Thơng qua tác
phẩm, tác giả đã phân tích khá rõ những khái niệm triết học phức tạp như:
chủ thể - khách thể, khách quan – chủ quan, điều kiện khách quan – nhân tố
chủ quan. Đồng thời, tác giả Dương Thị Liễu đã làm nổi bật sự tác động của
điều kiện khách quan và phát huy nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác giả đã rút ra
một số phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan
nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Cơng trình này là tài liệu tham khảo chính định hướng cho người thực
hiện luận văn.
Ngoài tài liệu được phân tích trên, trong q trình tìm nguồn tài liệu
tham khảo phục vụ cho việc làm luận văn, người thực hiện luận văn nhận
thấy một số tài liệu có giá trị rất lớn cho phần lý luận chung về nhân tố chủ

quan như: Luận án tiến sĩ triết học năm 1999 của Phạm Ngọc Minh về vấn
đề: Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: một số vấn đề lý luận và
thực tiễn ở nước ta hiện nay. Trong luận án tiến sĩ này, tác giả Phạm Ngọc
Minh đã phân tích khá chi tiết khái niệm “nhân tố chủ quan” và “nhân tố
khách quan” cũng như mối quan hệ giữa chúng. Đồng thời tác giả cũng chỉ
ra nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan thời kỳ trước đổi mới và trong
thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả Phạm Ngọc Minh cũng


6

đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan ở nước
ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học năm 2005 của Nguyễn Thị Bích Thủy về vấn
đề: Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa ở Việt Nam cũng đề cập đến những khái niệm triết học “nhân tố chủ
quan”, “điều kiện khách quan” và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, một số đề tài có liên quan đến đề tài luận văn đã được nhiều
nhà khoa học đề cập đến trong những cơng trình nghiên cứu khoa học
nghiêm túc. Tuy nhiên, vấn đề nhân tố chủ quan và nâng cao vai trị của nhân
tố chủ quan ln là vấn đề nghiên cứu vừa mang tính chất truyền thống, vừa
mang tính thời sự. Vì vậy, những vấn đề xung quanh nhân tố chủ quan và vai
trò của nhân tố chủ quan khơng thể nói là đã được giải quyết đầy đủ. Hơn
nữa, trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam đang
diễn ra mạnh mẽ, giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện
nay đang được đặt ra cấp bách, nên việc nghiên cứu Vai trò của nhân tố chủ
quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam cần phải được tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn nữa, nhằm tìm

ra những giải pháp phát huy những mặt thuận lợi, tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của nền kinh tế thị trường, hướng tới mục tiêu to lớn của cả nước là: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3.

ục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
ục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ khái niệm nhân tố chủ quan, lý luận chung về nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực trạng của nhân tố
chủ quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, luận


7

văn đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong
quá trình phát tsriển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ các cặp pham trù: chủ thể - khách thể, chủ
quan – khách quan, nhân tố chủ quan – nhân tố khách quan.
Thứ hai, phân tích và trình bày khái quát quá trình hình thành, phát
triển và những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Thứ ba, phân tích thực trạng và nội dung của vai trị nhân tố chủ quan
trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ tư, đề xuất những giải pháp phát huy vai trị của nhân tố chủ quan
trong q trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay nhưng tập trung
chủ yếu vào vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở của thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi
ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích –


8

tổng hợp, phương pháp quy nạp – diễn dịch, phương pháp logic – lịch sử,
phương pháp so sánh, đối chiếu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần làm rõ khái niệm “nhân tố chủ quan – nhân tố khách
quan” và nội dung của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần đề ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy về quá trình phát triển xã hội, về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong đổi mới
và hội nhập quốc tế.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
còn hai chương và năm tiết.


9

Chương 1
Ý U N V NHÂN T

CHỦ QUAN VÀ N N KINH T

TH TRƯỜNG Đ NH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGH A Ở VIỆT NA
1.1.

ý luận về nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan là khái niệm vừa đối lập vừa

thống nhất, chúng phản ánh khái quát, tổng hợp những mặt cơ bản nhất
trong hoạt động của con người. Việc nghiên cứu tìm hiểu nội dung, vai trò
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan và vận dụng nó trong các hoạt động
phát triển xã hội là vấn đề hết sức quan trọng. Nhưng để hiểu rõ hơn về cặp
phạm trù triết học nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan thì trước hết
chúng ta phải hiểu và làm sáng tỏ các cặp phạm trù có liên quan như: chủ
thể – khách thể, chủ quan – khách quan
1.1.1. Khái niệm chủ thể và khách thể; chủ quan và khách quan
Khái niệm chủ thể và khách thể được dùng trước hết với ý nghĩa nhận
thức luận, theo đó, chủ thể là con người (cá nhân hoặc tập thể) tiến hành hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn. Khách thể là đối tượng của
hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể. Khách thể

khơng phải là tồn bộ thế giới hiện thực, mà chỉ là một bộ phận nhất định của
thế giới đó - bộ phận đang tác động qua lại với chủ thể.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm giải quyết khác nhau về mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Chủ nghĩa duy vật trước Mác coi khách
thể là cái tồn tại khơng phụ thuộc vào chủ thể và hiểu nó là thế giới khách
quan, còn theo nghĩa hẹp là đối tượng của nhận thức. Chủ nghĩa duy tâm coi
tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể và bản thân sự tồn tại của khách
thể là bắt nguồn từ hoạt động của chủ thể.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Xuất phát từ chỗ thừa nhận khách
thể tồn tại không phụ thuộc vào chủ thể, song đồng thời cũng xem xét chúng


10

trong sự thống nhất. Khách thể không phải là mặt đối lập trừu tượng của chủ
thể vì chủ thể tích cực cải tạo khách thể, và cơ sở của sự tác động qua lại
giữa chúng là thực tiễn lịch sử xã hội của lồi người” [65, tr. 93]. Trong q
trình đó, các mặt và các đặc tính của hiện thực khách quan trở thành khách
thể của hoạt động thực tiễn, và chủ thể hình thành, biến đổi trong q trình
tích cực cải tạo thế giới bên ngồi. Chính trên cơ sở đó mà nảy sinh sự cần
thiết là chủ thể phải nhận thức các quy luật của khách thể để làm cho hoạt
động của chủ thể phù hợp với các quy luật đó, bởi vì mục đích của nó là phù
hợp với lôgic phát triển của thế giới, do những nhu cầu của chủ thể và trình
độ phát triển của sản xuất bị quyết định một cách khách quan.
Vậy, chủ thể - đó là con người nhận thức và cải tạo thế giới xung
quanh cũng như cải tạo chính bản thân mình. Chỉ có tác động vào thế giới
xung quanh (vào giới tự nhiên và đời sống xã hội), chỉ có thơng qua hoạt
động, con người mới bộc lộ mình như là chủ thể. Tùy thuộc vào cấp độ rộng
hay hẹp khi tác động vào khách thể mà chủ thể có thể là cá nhân, một nhóm
người, một dân tộc, một đảng phái, một giai cấp hay tất cả xã hội lồi người.

Khách thể - đó là đối tượng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của chủ thể. Khách thể khơng phải là tồn bộ thế giới hiện thực, nó chỉ
bao quát một bộ phận nhất định của hiện thực, đã và đang tác động qua lại
với chủ thể, tham gia vào mối quan hệ với chủ thể, được đưa vào hoạt động
của chủ thể. Và có thể khẳng định: “Khách thể và chủ thể có mối quan hệ
biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể
khi lấy nhau làm tiền đề, khách thể tồn tại không lệ thuộc vào chủ thể, song
khách thể không phải là mặt đối lập trừu tượng của chủ thể, vì chủ thể ln
hướng vào cải tạo khách thể bằng hoạt động của mình” [38, tr. 13].
Quan niệm về khách thể và chủ thể là cơ sở, xuất phát điểm cho việc
làm sáng tỏ cặp phạm trù khách quan và chủ quan. Cặp phạm trù khách quan


11

và chủ quan gắn liền với đặc trưng của chủ thể và khách thể, thuộc về chủ
thể và khách thể. Khách quan và chủ quan được thể hiện như những đặc
trưng của hoạt động của con người. Chủ thể và khách thể, chủ quan và
khách quan chỉ xuất hiện khi xem xét trong mối quan hệ với hoạt động của
con người.
Chủ quan là cái thuộc về chủ thể - những phẩm chất, thuộc tính của
chủ thể. Trước hết đó là ý thức của chủ thể, bao gồm: tri thức, tư tưởng, tình
cảm, lịng tin và những phẩm chất chính trị, đạo đức khác. Bên cạnh đó, “cái
chủ quan khơng chỉ là ý thức, mà còn là sức mạnh thể chất của chủ thể. Nói
tới sức mạnh của chủ thể là nói tới cả sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh
thần của chủ thể. Sức mạnh thể chất của chủ thể cũng đóng vai trị rất quan
trọng trong q trình chủ thể tương tác với khách thể” [41, tr. 14].
Về khái niệm khách quan, trước hết, về mặt nguyên tắc, khi xem xét cái
gì là khách quan chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ với chủ thể. Do đó,
khơng thể đồng nhất cái khách quan với thế giới vật chất nói chung. Thế

giới vật chất tồn tại khách quan và vô cùng vô tận. Nhiều bộ phận của thế
giới ấy hiện nay con người vẫn chưa nhận thức được về nó, vì vậy khơng thể
nói quan hệ của con người với chúng. Những đối tượng ấy chưa trở thành
đối tượng hoạt động của con người.
Vì vậy, khi nói đến khách quan, chúng ta phải hiểu ở hai cấp độ: đó là
thế giới vật chất nói chung và cái khách quan trong mối quan hệ với chủ thể.
Cái khách quan được đề cập trong luận văn này là cái khách quan hiểu ở cấp
độ thứ hai, cái khách quan nằm trong mối quan hệ với chủ thể.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể định nghĩa:
Khách quan là tất cả những gì tồn tại bên ngồi chủ thể, không phụ
thuộc vào chủ thể và tham gia vào hoạt động của chủ thể. Theo đó, những
cái thuộc về khách quan trước hết là điều kiện địa lý, phương thức sản xuất


12

ra của cải vật chất, những quy luật của tự nhiên và những quy luật của xã
hội. Tất cả các đối tượng này tham gia vào hoạt động của con người, là mặt
cần thiết, tất yếu của hoạt động con người.
Chủ quan và khách quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn gốc
của chủ quan nằm trong khách quan và chủ quan được quy định và thúc đẩy
bởi khách quan. Như vậy, chủ quan và khách quan thống nhất một cách biện
chứng trong hoạt động của con người, nhưng là sự thống nhất của các mặt
đối lập, vì vậy, giữa chúng có sự khác nhau và có giới hạn nhất định. Chính
vì thế, V.I. Lênin đã từng nhắc nhở và yêu cầu những người cộng sản phải
học “cách phân biệt giữa cái chủ quan và cái khách quan”. Có thể nói trong
thực tiễn xã hội, có bao nhiêu chủ thể và khách thể ở những trình độ khác
nhau thì cũng có bấy nhiêu giới hạn của cái chủ quan và cái khách quan.
1.1.2. Khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
Từ sự phân tích cặp phạm trù chủ thể – khách thể, chủ quan – khách

quan là cơ sở để chúng ta nghiên cứu, làm rõ cặp phạm trù nhân tố chủ quan
và nhân tố khách quan.
Muốn hiểu rõ về khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan,
trước hết, chúng ta cần phải làm rõ khái niệm “nhân tố” và phân biệt sự khác
nhau, sự không đồng nhất giữa khái niệm “nhân tố” và khái niệm “yếu tố”.
Khái niệm “yếu tố” dùng để chỉ cái bộ phận, cái cấu thành các sự vật, hiện
tượng, q trình; cịn khái niệm “nhân tố” nói lên cái trực tiếp gây ra biến
đổi. Nó vừa là nguyên nhân, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động của con
người, đồng thời còn định hướng cho hoạt động đó. Bất kỳ ở đâu có sự tác
động qua lại giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan cũng đều diễn ra
những biến đổi nhất định. Cho nên, khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan được dùng không phải để lý giải cấu trúc của cái chủ quan và cái
khách quan, mà là để phản ánh quá trình vận động, biến đổi, tác động của


13

nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
Về khái niệm nhân tố chủ quan, trước hết, cần phân biệt “chủ quan” với
“nhân tố chủ quan”. Như đã định nghĩa ở trên, chủ quan – là cái thuộc về
chủ thể hoặc được sản sinh ra từ hoạt động của chủ thể. Rõ ràng, trong hoạt
động của con người, không phải tất cả những gì thuộc về chủ thể hoặc được
sản sinh từ hoạt động của chủ thể đều được huy động, đều được sử dụng
trong quá trình tương tác với khách thể. Như việc chúng ta bố trí sai ngành
nghề đào tạo là một minh chứng rõ ràng về điều này. Kiến thức mà con
người được đào tạo là một phẩm chất của chủ thể, nó thuộc về cái chủ quan.
Kiến thức đó khơng được huy động, khơng được sử dụng trực tiếp trong
hoạt động thì khơng thể trở thành nhân tố được. Do vậy, theo chúng tôi,
nhân tố chủ quan chỉ là những gì thuộc về chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể
nhưng tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể.

Như vậy, nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những yếu tố nào của cái chủ
quan đáp ứng được các yêu cầu sau đây: thứ nhất, trực tiếp tham gia vào
hoạt động của chủ thể; thứ hai, chỉ đạo, điều chỉnh, định hướng hoạt động
của chủ thể; thứ ba, thúc đẩy hoạt động của chủ thể để gây ra sự biến đổi ở
khách thể.
Ý thức của chủ thể là một nhân tố cấu thành nội dung của khái niệm
nhân tố chủ quan. Song, đó khơng phải là ý thức của chủ thể nói chung, mà
chỉ là những bộ phận ý thức trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động của
chủ thể. Nội dung của ý thức ấy bao gồm: “Tri thức – tức là sự hiểu biết của
chủ thể về tự nhiên và xã hội được hình thành từ cuộc sống, từ quá trình học
tập và nghiên cứu. Cùng với tri thức là những quan điểm, tư tưởng tạo thành
niềm tin của chủ thể trong hành động, là ý chí quyết tâm của chủ thể đó
trong hoạt động cải tạo thế giới. Tất cả những phẩm chất này luôn ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động của chủ thể theo những chiều hướng


14

khác nhau. Nếu là những tri thức đúng, tri thức khoa học, những tư tưởng,
quan điểm phù hợp với tiến bộ xã hội, niềm tin và ý chí quyết tâm được hình
thành trên những quan điểm, tư tưởng và những tri thức khoa học thì chủ thể
sẽ năng động, sáng tạo và đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình.
Ngược lại, quan điểm, tư tưởng sai lầm, tri thức phản khoa học sẽ tạo ra
niềm tin và sự quyết tâm mù quáng, mang đến hậu quả tai hại trong hoạt
động của chủ thể [41, tr. 20, 21]. Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy những
yếu tố như; tri thức, quan điểm, tư tưởng, niềm tin và ý chí của chủ thể hòa
quyện, thống nhất biện chứng với nhau tạo thành nhân tố chủ quan. Bỏ qua
hoặc tách rời bất kỳ yếu tố nào cũng sẽ dẫn tới siêu hình trong cách xem xét,
đánh giá vai trị của nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan không chỉ bao gồm ý thức tham gia vào hoạt động,

định hướng cho hoạt động, mà cịn là bản thân sự hoạt động đó. Như trên đã
phân tích, nhân tố vời tư cách là những nguyên nhân và điều kiện gây ra sự
biến đổi; nhưng ý thức, tư tưởng tách khỏi hoạt động của con người thì
khơng thể trở thành ngun nhân làm thay đổi tự nhiên và xã hội. Như C.
Mác đã viết: “Tư tưởng căn bản khơng thực hiện được gì hết. muốn thực
hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [60,
tr. 268]. Nếu chỉ thấy vai trò của ý thức, tư tưởng trong nhân tố chủ quan thì
cùng lắm chỉ khẳng định được mặt „giải thích thế giới” của vai trị nhân tố
chủ quan, chưa thấy được vai trò cải biến hiện thực của các nhân tố ấy, chưa
thấy được mặt thực tiễn của chúng.
Bên cạnh đó, nhân tố chủ quan cịn là những phẩm chất, trạng thái
thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Sức mạnh của con người không chỉ
là sức mạnh tinh thần, mà còn là sức mạnh thể chất. Chúng ta thấy, người
Việt Nam thua kém người của các dân tộc khác trên một số lĩnh vực, như là
lĩnh vực thể dục thể thao thành tích cao, khơng phải hồn tồn do trí lực mà


15

chính là do thể lực: sức cơ bắp, sự dẻo dai…
Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động của chủ thể, cần được hiểu không phải như những
bộ phận hợp thành chủ thể, mà là sự kích thích, thúc đẩy tạo ra những năng
lực hoạt động của chủ thể làm biến đổi khách thể; nghĩa là phải xem xét
những gì thuộc về chủ thể đặt trong mối quan hệ tương tác với nhân tố
khách quan, trong hoạt động của con người.
Từ đó chúng ta có thể định nghĩa: Nhân tố chủ quan là tổng hợp các
phẩm chất khoa học, lý luận, tư tưởng, chính trị, văn hóa, đạo đức, tâm lý,
tính tổ chức,… của chủ thể, tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể và
trở thành động lực cải biến đời sống xã hội.

Có thể khái quát những phương diện cơ bản của nhân tố chủ quan như sau:
Thứ nhất, vai trò của khoa học, lý luận, tư tưởng trong hoạt động của
chủ thể.
Thứ hai, vai trò của tâm lý, đạo đức trong hoạt động của chủ thể;
Thứ ba, vai trị của tính tổ chức của chủ thể hoạt động.
Tất cả những phương diện này được bộc lộ và tham gia vào hoạt động của
chủ thể và trở thành lực lượng vật chất thúc đẩy đời sống xã hội. C. Mác viết:
“Vũ khí phê phán khơng thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất; nhưng lý luận sẽ trở thành
lực lượng vật chất khi nó được tham nhập vào quần chúng” [60, tr. 580].
Tìm hiểu về phạm trù nhân tố khách quan cũng được xuất phát từ sự
phân tích các cặp phạm trù chủ thể và khách thể, chủ quan và khách quan.
Nhân tố khách quan không đồng nhất với cái khách quan nói chung, mà chỉ
là một bộ phận của cái khách quan tham gia vào hoạt động của chủ thể. Mỗi
chủ thể lịch sử trong hoạt động của mình bao giờ cũng tương tác với những
khách thể cụ thể, có ảnh hưởng nhất định tới kết quả hoạt động của chủ thể.


16

Một số tác giả có sự phân biệt khái niệm nhân tố khách quan với điều
kiện khách quan. Thực ra, sự phân biệt “điều kiện” và “nhân tố” chỉ là
tương đối, trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của hoạt động,
chúng đều được hiểu theo một nghĩa giống nhau – đó là những hồn cảnh
quy định hoạt động của con người. Do đó, việc sử dụng khái niệm điều
kiện khách quan ngang bằng với khái niệm nhân tố khách quan và đặt nó
trong sự đối lập biện chứng với khái niệm nhân tố chủ quan có sự hợp lý
nhất định. Theo A.K. Uleđốp trong tác phẩm Những quy luật xã hội học:
“Điều kiện khách quan trở thành nhân tố khách quan trong quá trình tác
động qua lại giữa chủ thể và khách thể bằng cách đóng vai trò những đặc

trưng căn bản của chúng”[59, tr. 72].
Thuộc về nhân tố khách quan, trước hết là các hiện tượng, điều kiện,
đối tượng vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực độc lập với chủ thể và
quy định hoạt động của chủ thể. Đó là các yếu tố vật thể của lực lượng sản
xuất, là trình độ sản xuất đã đạt được, biểu hiện ra thông qua công cụ, trình
độ phát triển kinh tế, những điều kiện tự nhiên… ảnh hưởng đến con người
với tư cách là chủ thể sản xuất.
Những điều kiện vật chất là nội dung chính trong nhân tố khách quan.
Bên cạnh đó, trong nhân tố khách quan cịn có cả những điều kiện, hiện
tượng tinh thần như trình độ đã đạt được của của sự phát triển khoa học,
nghệ thuật, văn hóa tinh thần; những dấu ấn của tư tưởng, tâm lý, truyền
thống tập quán của thế hệ trước; những nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi.
Để lý giải vấn đề này có thể đưa ra một ví dụ thực tế: chúng ta đang
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ thể hoạt động là con người, dân
tộc Việt Nam. Trong đời sống xã hội, bên cạnh những mặt tích cực vẫn cịn
một số tồn tại như: truyền thống, phong tục tập quán cũ, tâm lý phong kiến
lạc hậu, những chuẩn mực đạo đức lỗi thời,… những truyền thống, phong


17

tục tập quán cũ, lạc hậu này đang là một lực cản, ngăn trở công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Để cải tạo chúng, cả là một quá trình
lâu dài và phức tạp. Như vậy, những hiện tượng tinh thần cũng có thể đóng
vai trị là những nhân tố khách quan trong chừng mực chúng là khách quan
độc lập với chủ thể hoạt động nhất định và tác động đến hoạt động của chủ
thể đó. Ở đây cũng không loại trừ ý thức riêng của từng người trong chừng
mực ý thức đó đóng vai trị là khách thể.
Từ đó, một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về
nhân tố khách quan như sau. Theo Từ điển triết học thì: “Nhân tố khách

quan là những điều kiện không phụ thuộc vào con người và quyết định
phương hướng, quy mô hoạt động của họ”[65, tr. 407].
Theo tác giả Phạm Ngọc Minh: “Nhân tố khách quan là tất cả những gì
tồn tại bên ngồi chủ thể, khơng phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và
tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể”[41, tr. 23]. Trong luận án tiến
sĩ triết học của tác giả Nguyễn Thị Bích Thủy: “Nhân tố khách quan là tổng
hợp những điều kiện và những quan hệ vật chất, kinh tế, chính trị, xã hội…
tất cả những điều kiện và quan hệ này đều tồn tại ở bên ngồi, khơng phụ
thuộc vào ý thức và ý muốn của con người, được bộc lộ trong hoạt động con
người và trở thành động lực cải biến đời sống xã hội”[57, tr. 28].
Từ sự phân tích trên và kế thừa các định nghĩa của các tác giả đi trước,
chúng ta có thể định nghĩa: Nhân tố khách quan là tổng hợp những mặt,
điều kiện, hoàn cảnh hiện thực đang tồn tại bên ngồi chủ thể, khơng phụ
thuộc vào ý thức của chủ thể và tham gia vào hoạt động của chủ thể và trở
thành động lực cải biến đời sống xã hội.
Như vậy, nhân tố khách quan bao gồm: những điều kiện vật chất tồn tại
một cách khách quan và tham gia vào hoạt động của chủ thể; những hiện
tượng tinh thần tồn tại với tư cách là đối tượng của hoạt động; những quy


18

luật, những khả năng khách quan trong sự vận động và phát triển của khách
thể… Tất cả những yếu tố này đều tồn tại khách quan, không chỉ không phụ
thuộc vào ý thức của chủ thể, mà còn quyết định phương hướng hoạt động
của chủ thể và trở thành động lực cải biến đời sống xã hội.
Vai trò quan trọng, quyết định của các nhân tố này thể hiện ở chỗ, con
người trong hoạt động của mình, khi đề ra những mục đích, những dự định
phải lấy điều kiện khách quan, những quy luật khách quan làm căn cứ, nếu
không sẽ mắc phải căn bệnh chủ quan duy ý chí. Hơn nữa, khi đã có những

mục đích, những dự định đúng đắn, con người cũng phải sử dụng những lực
lượng vật chất khách quan, những biện pháp phù hợp với hiện thực khách
quan thì hoạt động mới thành cơng. Ngược lại, con người sẽ bị trả giá bằng
những thất bại khó lường.
1.1.3.

ối quan hệ giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
Trong hoạt động của con người, nhân tố chủ quan và nhân tố khách

quan luôn thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, việc nhận thức
đúng đắn mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan sẽ giúp
chúng ta làm sáng tỏ bản chất của quá trình phát triển trong lịch sử xã hội
lồi người. Q trình phát triển xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trong mối quan hệ đó, nhân tố
khách quan bao giờ cũng giữ vai trị cơ sở, quy định nhân tố chủ quan. Nhân
tố chủ quan có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nhân tố khách quan,
khi đã có những điều kiện, nhân tố khách quan cần thiết và những điều kiện
này đã chín muồi thì nhân tố chủ quan đóng vai trị quyết định sự chuyển
hóa khả năng thành hiện thực.
Vai trò quyết định của nhân tố khách quan đối với nhân tố chủ quan
được thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây:


19

Thứ nhất, nhân tố khách quan một mặt quy định nhiệm vụ lịch sử
của nhân tố chủ quan, mặt khác nó tạo ra những tiền đề, những khả năng
hiện thực để giải quyết chúng. Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố chủ quan
cải tạo thế giới khách quan, quá trình cải tạo đó lấy nhân tố khách quan
làm tiền đề. Những nhiệm vụ mà nhân tố chủ quan phải giải quyết là những

nhiệm vụ do lịch sử đề ra và đồng thời quy định nội dung cũng như biện
pháp giải quyết.
Nhân tố chủ quan khơng thể đề ra cho mình nhiệm vụ một cách tùy
hứng, một cách ảo tưởng và tùy tiện. Khi tiến hành giải quyết một nhiệm vụ
thực tiễn nào đó, nhân tố chủ quan phải xem những điều kiện vật chất khách
quan cho việc giải quyết nhiệm vụ đó đã có hay chưa, khơng thể giải quyết
ngay nhiệm vụ đó khi những điều kiện khách quan cần thiết chưa có. Nắm
được quy luật này, với tư duy đổi mới, đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã nêu ra bài học vô cùng quan trọng: “Đảng phải luôn luôn xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng”[12, tr. 30].
Nhân tố khách quan quy định tính chất, nội dung hoạt động, sự trưởng
thành và tiến hóa của các nhân tố chủ quan tương ứng. Nhân tố chủ quan
phải lấy nhân tố khách quan làm tiền đề cải tạo. Vai trị tích cực của nhân tố
chủ quan chỉ biểu hiện khi nó dựa vào những quy luật khách quan và xuất
phát từ quy luật ấy, khi nó được củng cố bằng những điều kiện vật chất tất
yếu đã chín muồi trong đời sống xã hội, và khi nó thể hiện những hoạt động
cần thiết của mình một cách đúng lúc, hợp thời điểm. Nhân tố khách quan
đưa ra trước chủ thể xã hội những nhiệm vụ cần giải quyết và chính bản thân
nó lại tạo ra những tiền đề, những khả năng hiện thực để giải quyết chúng.
Điều đó giải thích vì sao C. Mác khẳng định: “Nhân loại bao giờ cũng chỉ


20

đặt ra cho mình nhũng nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ
hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi
những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng
đang ở trong quá trình hình thành” [61, tr. 16]

Thứ hai, nhân tố khách quan quy định mục đích của nhân tố chủ quan,
là cơ sở để con người định ra mục đích của mình: “Mục đích của con người
là do thế giới khách quan sản sinh ra, và lấy thế giới khách quan làm tiền
đề” [62; tr. 201]. Thoát ly khỏi các nhân tố khách quan thì chủ thể sẽ rơi vào
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Thứ ba, nhân tố khách quan quy định phương pháp, phương thức tác
động của nhân tố chủ quan đối với điều kiện khách quan. Phương pháp ngay
từ đầu đã lệ thuộc vào lôgic khách quan của sự vật mà ta tác động, nghĩa là
phải phù hợp với tính chất và các quan hệ, các quy luật của chúng.
Thứ tư, nhân tố khách quan quy định phương tiện tác động của nhân
tố chủ quan với nhân tố khách quan. Bản thân nhân tố chủ quan không tác
động trực tiếp vào nhân tố khách quan, mà phải thông qua những lực lượng
vật chất khách quan được kết hợp bằng những hình thức khác nhau trong
hoạt động của chủ thể. Nhân tố chủ quan phải vận dụng những điều kiện của
nhân tố khách quan để tác động, không thể dùng chủ quan tùy tiện. Chỉ với
những phương tiện đó mà điều kiện của nhân tố khách quan mới thực sự
được biến đổi.
Tóm lại, nhân tố khách quan là cơ sở, là tiền đề của nhân tố chủ quan.
Trong quá trình hoạt động của con người, chỉ khi nào có những điều kiện
khách quan, những quan hệ vật chất cần thiết đã phát triển chín muồi, hay
đang hình thành thì mới có cơ sở khách quan để giải quyết vấn đề. Vì thế,
mọi hoạt động của con người phải dựa vào nhân tố khách quan nhất định. Sự
quy định của nhân tố khách quan đối với nhân tố chủ quan chính là q trình


×