ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG MAI
TÍN NGƢỠNG THIÊN HẬU CỦA NGƢỜI HOA
Ở SÀI GỊN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
DƢỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HĨA HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG MAI
TÍN NGƢỠNG THIÊN HẬU CỦA NGƢỜI HOA
Ở SÀI GỊN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
DƢỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 60.31.70
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS PHAN AN
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trước hết, tôi xin chân
thành cám ơn GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm, PGS.TS Phan Thu Hiền,
TS. Nguyễn Văn Hiệu cùng các q thầy cơ ở Khoa Văn hóa học đã
ln động viên và truyền đạt những kiến thức vô cùng quý báu cho tôi
trong suốt thời gian theo học ở Khoa. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết
ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Phan An, người thầy đã luôn chia sẻ
những khó khăn với tơi và hướng dẫn tận tình trong suốt q trình hồn
thành luận văn. Tiếp đến, tơi xin cám ơn phòng Sau Đại học trường Đại
học KHXH & NV đã giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi học tập. Sau cùng,
tôi xin cám ơn Ban quản lý các Hội quán, đền, miếu của người Hoa ở
Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi tham dự cũng
như cung cấp tư liệu để tơi hồn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2013
Nguyễn Thị Phương Mai
3
MỤC LỤC
Lời cám ơn.......................................................................................................... 3
MỤC LỤC .......................................................................................................... 4
DẪN LUẬN ......................................................................................................... 7
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 7
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu .................................................. 11
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................... 12
7. Bố cục luận văn ............................................................................................ 13
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................... 14
1.1
Cơ sở lý luận ........................................................................................... 14
1.1.1 Văn hóa ................................................................................................ 14
1.1.2 Tơn giáo và tín ngưỡng........................................................................ 17
1.2
Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 20
1.2.1. Tên gọi và khái niệm người Hoa......................................................... 20
–
............ 20
1.2.3 Một số hình thức tín ngưỡng và tơn giáo của người Hoa ở Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 28
Tiểu kết ............................................................................................................. 35
4
CHƢƠNG 2: THỜ CÖNG THIÊN HẬU THÁNH MẪU CỦA NGƢỜI
HOA Ở SÀI GÕN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................... 37
2.1. Nguồn gốc tín ngƣỡng Thiên Hậu ............................................................. 37
2.1.1 Truyền thuyết tín ngưỡng Thiên Hậu................................................. 37
2.1.2 Q trình hình thành tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa ở Sài Gịn
– Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................... 40
2.1.3 Đặc điểm tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa ở Sài Gòn – Thành
phố Hồ Chí Minh ............................................................................................. 43
2.2 Một số hình thức thờ cúng Thiên Hậu của ngƣời Hoa ở Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh .............................................................................................. 47
2.2.1 Bà Thiên Hậu là vị thần chủ thể trong các cơ sở thờ tự của cộng đồng
người Hoa ......................................................................................................... 48
2.2.2 Bà Thiên Hậu là vị thần phối tự trong các cơ sở thờ tự của cộng đồng
người Hoa ......................................................................................................... 53
2.2.3 Thờ cúng Bà Thiên Hậu trong gia đình ............................................ 57
2.3 Một số cơ sở tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Thành Phố Hồ Chí
Minh.................................................................................................................. 58
Tiểu kết ............................................................................................................. 74
CHƢƠNG 3: TÍN NGƢỠNG THIÊN HẬU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA NGƢỜI HOA Ở SÀI GÕN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH76
3.1 Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống ......................................................... 77
3.1.1 Tín ngưỡng Thiên Hậu – phản ánh bản sắc văn hóa người Hoa ..... 78
3.1.2 Tín ngưỡng Thiên Hậu - phản ánh tinh thần cố kết cộng đồng của
người Hoa ......................................................................................................... 81
5
3.1.3 Tín ngưỡng Thiên Hậu – góp phần giáo dục nhân cách, đạo đức và
ước vọng sống cao đẹp của người Hoa ............................................................ 83
3.2 Tín ngƣỡng Thiên Hậu – góp phần giao lƣu và hội nhập với văn hóa Việt
Nam và cộng đồng các dân tộc ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh ........... 86
3.2.1 Giao lưu văn hố trên lĩnh vực tín ngưỡng - tơn giáo........................ 88
3.2.2 Giao lưu văn hóa trên lĩnh vực kiến trúc ........................................... 93
3.2.3 Giao lưu văn hóa trên lĩnh vực đời sống xã hội ............................... 101
Tiểu kết ........................................................................................................... 106
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 112
DANH MỤC HÌNH ẢNH ............................................................................... 122
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 131
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ .................................................................... 132
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ CƠ SỞ TÍN NGƢỠNG THỜ THIÊN HẬU THÁNH
MẪU Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................................... 136
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ VỊ THẦN ĐƢỢC PHỐI TỰ Ở CÁC CƠ SỞ TÍN
NGƢỠNG THỜ THIÊN HẬU THÁNH MẪU ................................................ 139
PHỤ LỤC 4: KIẾN TRÚC TẠI MỘT SỐ CƠ SỞ TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI
HOA
............................................................................................ 142
PHỤ LỤC 5: MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGÀY VÍA THIÊN HẬU THÁNH MẪU
Ở CÁC NƠI .................................................................................................... 145
6
DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - văn hóa lớn
của cả nước, là nơi hội tụ, giao lưu với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ngày
nay, trong q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, kinh tế - xã hội và văn
hóa nơi đây cũng không ngừng biến đổi và phát triển. Hơn 300 năm qua Sài
Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh vốn là vùng “đất lành chim đậu”, là nơi hội tụ
của các dân tộc anh em trên khắp mọi miền tổ quốc. Trong đó, người Hoa
đóng một vai trị khá quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của
vùng đất phương Nam này.
Người Hoa tại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn là những di
dân từ vùng duyên hải phía Nam Trung Hoa, vượt biển đến định cư. Công
cuộc định cư của người Hoa ở Nam Bộ nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng đã khởi đầu từ hơn ba thế kỉ trước. Trong quá trình sinh sống tại
vùng đất mới, cộng đồng người Hoa vẫn giữ được các yếu tố văn hóa truyền
thống của mình, đặc biệt là tín ngưỡng. Tín ngưỡng đóng vai trị đặc biệt quan
trọng trong đời sống văn hóa của người Hoa, là cầu nối liên kết cộng đồng
người Hoa ở vùng đất mới. Bên cạnh đó, tín ngưỡng chính là một phần văn
hóa của người Hoa.
Tín ngưỡng Thiên Hậu, một tín ngưỡng quen thuộc của người Hoa vốn
đã có từ Trung Quốc được tái lập trên vùng đất mới ở miền Nam Việt Nam.
Trải qua một cuộc hành trình dài trên biển, đến miền Nam Việt Nam bình
yên, chọn được vùng đất phù hợp, những di dân người Hoa tin vào sự màu
nhiệm của Thiên Hậu Thánh Mẫu và họ đã chọn Bà là một trong những vị
thần linh đầu tiên được sùng bái nơi vùng đất mới này. Từ đó, tín ngưỡng
7
Thiên Hậu trở nên phổ biến trong cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ nói chung
và Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Trong hệ thống tín ngưỡng phong phú của cộng đồng người Hoa chúng
tôi chọn nghiên cứu về tín ngưỡng Thiên Hậu vì:
- Bà là một vị thần quan trọng, được xem như vị thần bảo trợ của ngư
phủ hoạt động trên biển rất được người Hoa tơn kính và sau này khi định cư ở
Nam Bộ, Bà chính là vị thần bảo trợ cho cuộc sống của người Hoa nơi vùng
đất mới.
- Trong quá trình di dân và định cư, tín ngưỡng Thiên Hậu của người
Hoa ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh có những đặc trưng riêng biệt với
tín ngưỡng tại q nhà và vùng khác.
- Từ việc hiểu biết về tín ngưỡng Thiên Hậu, sẽ góp phần hiểu hơn về
văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ và người Hoa ở Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu về tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa ở Sài Gịn Thành phố Hồ Chí Minh chúng tơi nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa, qua đó
sẽ giúp chúng tơi hiểu biết sâu sắc và sống động hơn về đời sống tinh thần
phong phú và nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Hoa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tín ngưỡng Thiên Hậu của
người Hoa ở Sài Gịn - TP. Hồ Chí Minh. Với đề tài này, người viết xin giới
hạn phạm vi nghiên cứu trong hệ tọa độ sau:
8
Về chủ thể: Cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn - TP.HCM với 5 nhóm
ngơn ngữ chính là: Quảng Đơng, Phúc Kiến, Hải Nam, Triều Châu và người
Hẹ (Hakka).
Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh là một địa bàn rộng lớn với
24 quận, huyện. Do đó, chúng tơi sẽ nghiên cứu tục thờ Thiên Hậu của người
Hoa ở khu vực có đơng người Hoa sinh sống đó là Quận 5, Quận 6, Quận 1,
Quận Gò Vấp... cũng là những nơi có miếu thờ Bà Thiên Hậu.
Về thời gian: Chủ yếu từ khi người Hoa đến vùng đất Nam Bộ, Sài
Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh... (từ cuối thế kỷ XVII) đến nay.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, cộng đồng người Hoa đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, nghệ
thuật... Hiện nay, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa người
Hoa tại Nam Bộ nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng. Một số cơng trình
tiêu biểu về văn hóa người Hoa ở Nam Bộ và TP. Hồ Chí Minh có thể kể đến
như:
Các cơng trình nghiên cứu về ngƣời Hoa và văn hóa ngƣời Hoa:
Châu Hải: Nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Việt Nam, Lâm Tâm: Ngƣời Hoa An
Giang, Mạc Đường (1994): Xã hội ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh sau
1975 – tiềm năng và phát triển, Phan An – Võ Thị Hiệp (1994): Vấn đề xây
dựng gia đình văn hóa của ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Phan An
(1999): Ngƣời Hoa ở Quận 6, Nguyễn Cẩm Thúy (2000): Định cƣ ngƣời Hoa
trên đất Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến năm 1945, Phan An (2005): Ngƣời Hoa ở
Nam Bộ, Trần Hồng Liên (2007): Văn hóa ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Phan Thị Thu Thảo (2008): Văn hóa hội quán của ngƣời Hoa tại Thành
phố Hồ Chí Minh – Luận văn Thạc sĩ...
9
Các cơng trình nghiên cứu về tín ngƣỡng ngƣời Hoa: Trần Quý Thiện
(1987 – 1991): Bƣớc đầu khảo sát việc thờ cúng trong gia đình của ngƣời
Hoa gốc Quảng Đơng ở Tp. Hồ Chí Minh, Lê Anh Dũng (1995): Quan Thánh
xƣa và nay, Võ Thanh Bằng (1997): Tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Hoa ở
Q.6 – TP. Hồ Chí Minh - luận văn Thạc sĩ, Nguyễn Thị Hoa Xinh (1997): Tín
ngƣỡng và tơn giáo của ngƣời Hoa Quảng Đơng ở TP. Hồ Chí Minh – Luận
án Phó Tiến sĩ, Trần Hồng Liên (2005): Văn hóa ngƣời Hoa ở Nam Bộ: Tín
ngƣỡng và tơn giáo, Trần Đăng Kim Trang (2008): Tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở
Q.5 – TP. Hồ Chí Minh – Luận văn Thạc sĩ...
Các cơng trình nghiên cứu về các cơ sở tín ngƣỡng của ngƣời Hoa:
Phan An (1992): Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Hồng Liên (1998):
Góp phần tìm hiểu quá trình thành lập miếu cổ của ngƣời Hoa ở Chợ Lớn, Li
Tana và Nguyễn Cẩm Thúy (cb) (1999): Bia chữ Hán trong Hội quán ngƣời
Hoa tại TP. Hồ Chí Minh, Lê Văn Cảnh (2000): Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành
Huệ Qn…
Phần lớn các cơng trình nghiên cứu kể trên đều có nhắc đến văn hóa
người Hoa, tín ngưỡng và tôn giáo của họ. Các nhà nghiên cứu trước đây như
Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xƣa), Huỳnh Minh (Gia Định xƣa và nay),
Sơn Nam (Bến Nghé xƣa, Đất Gia Định xƣa..) đều có đề cập đến tín ngưỡng
người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh một cách sơ lược.
Vấn đề tín ngƣỡng Thiên Hậu chỉ được đề cập khá ít trong các cơng
trình nghiên cứu về người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành
phố ở Nam Bộ trong phần văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của người Hoa:
Ngƣời Hoa ở Nam Bộ, Ngƣời Hoa ở Q.6 – TPHCM, Chùa Hoa TP. Hồ Chí
Minh (Phan An), Văn hóa ngƣời Hoa ở Tp. Hồ Chí Minh, Văn hóa ngƣời Hoa
ở Nam Bộ: Tín ngƣỡng và tôn giáo (Trần Hồng Liên), Ngƣời Hoa ở An Giang
10
(Lâm Tâm), Tín ngƣỡng ngƣời Hoa Q.6 - TP. Hồ Chí Minh (Võ Thanh
Bằng)...
Đáng chú ý nhất là bài viết của tác giả Phan An (2002) “Tục thờ cúng
Bà Thiên Hậu của ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh” đăng trên tạp chí
Nghiên cứu tơn giáo có đề cập đến ba hình thức thờ cúng Bà Thiên Hậu của
người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh, bài viết “Tục thờ cúng và lễ hội truyền thống
của Bà Thiên Hậu ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” - Trần Hồng
Liên (2005) in trong (Giá trị và tính đa dạng của folkore Châu Á trong quá
trình hội nhập) đề cập đến tín ngưỡng Thiên Hậu tại Việt Nam trong q trình
hội nhập quốc tế, bài viết Tín ngƣỡng Thiên Hậu trong văn hóa Tây Nam Bộ Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Phúc Ánh (2010) - Hội thảo khoa học Văn hóa
phi vật thể ngƣời Việt miền Tây Nam Bộ, bài viết Văn hóa tâm linh và phát
triển: Tín ngƣỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam - Nguyễn Ngọc Thơ
(2012) đăng trên Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, bài viết “Góp
phần tìm hiểu tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Hoa ở Q.5 – Tp. Hồ Chí Minh
qua khảo sát hai chùa Bà Thiên Hậu và chùa Ông Bổn” (Đỗ Thị Tuyết
Lan)… là các bài báo đề cập tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa một cách
khái quát, sơ lược và chưa đầy đủ.
Hiện chưa có cơng trình nghiên cứu nào dành riêng cho việc nghiên
cứu tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy, tơi
thấy đây là vấn đề cịn khá mới mẻ để nghiên cứu cho đề tài của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Đây là một luận văn tiếp cận nghiên cứu tín ngưỡng Thiên Hậu của
người Hoa dưới góc nhìn văn hóa học, vì vậy chúng tôi sẽ sử dụng các
phương pháp sau:
11
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Để phân tích những đặc điểm của
tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa ở Sài Gịn - TP. Hồ Chí Minh trong một
số thành tố văn hóa cụ thể.
- Cách tiếp cận liên ngành: Sử dụng kiến thức và phương pháp của
nhiều ngành khoa học khác: Lịch sử, địa lí… nhằm làm rõ quá trình di dân và
định cư của người Hoa ở Sài Gịn - TP. Hồ Chí Minh
- Phương pháp so sánh: So sánh với tín ngưỡng Thiên Hậu ở một số
vùng để làm nổi bật những nét đặc trưng của tín ngưỡng Thiên Hậu của người
Hoa ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn tư liệu là những tư liệu thành văn đã được công bố thành sách,
bài báo, internet... Ngồi ra, chúng tơi sẽ tham dự, quan sát tại các cơ sở tín
ngưỡng của người Hoa để lấy tư liệu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về phƣơng diện khoa học, chúng tôi mong muốn thơng qua việc tìm
hiểu tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa sẽ góp phần làm rõ hơn về một
mảng tín ngưỡng quan trọng của người Hoa ở Sài Gịn - TP. Hồ Chí Minh nói
riêng và Nam Bộ nói chung. Từ đó, luận văn sẽ góp thêm tư liệu mới về tín
ngưỡng của người Hoa.
Về phƣơng diện thực tiễn, những nghiên cứu ban đầu của luận văn về
tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa sẽ giúp cho người dân Thành phố Hồ
Chí Minh hiểu hơn về tín ngưỡng của người Hoa cũng như giúp các cơ quan
nhà nước hiểu hơn về đời sống tinh thần của cộng đồng người Hoa từ đó góp
phần vào việc thực hiện chính sách tôn giáo và dân tộc của cộng đồng người
Hoa ở Nam Bộ.
12
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn luận và kết luận, nội dung chính của luận văn sẽ được
chúng tơi triển khai thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1 Cơ sở lý luận
1.2 Cơ sở thực tiễn
Chƣơng 2: Thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu của ngƣời Hoa ở Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh
2.1 Nguồn gốc tín ngưỡng Thiên Hậu
2.2 Một số hình thức thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa ở
Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
2.3 Một số cơ sở tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Thành phố
Hồ Chí Minh
Chƣơng 3: Tín ngƣỡng Thiên Hậu trong đời sống văn hóa của ngƣời Hoa
ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh
3.1 Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
3.2 Tín ngưỡng Thiên Hậu góp phần giao lưu và hội nhập với văn hóa
Việt Nam và cộng đồng các dân tộc ở Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí
Minh
Ở phần cuối của luận văn là phần Tài liệu tham khảo, Danh mục hình
trong luận văn và phụ lục.
Phần phụ lục gồm: các bản đồ và hình ảnh về tín ngưỡng Thiên Hậu ở
Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi.
13
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Văn hóa
Về khái niệm văn hóa, từ trước đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau
về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác
nhau.
Định nghĩa được nhiều tác giả trích dẫn để tham khảo là của F.B. Tylor
trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy: "Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về Dân tộc học, là toàn bộ phức thể bao gồm những tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác
nhau, mà con người có được với tư cách là thành viên của một xã hội" 1. Định
nghĩa này được đưa ra rất sớm trong một tác phẩm kinh điển xuất bản lần đầu
tiên vào năm 1871, được tái bản nhiều lần bằng nhiều thứ tiếng. Theo định
nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực
liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật…
Từ đó, đối tượng văn hóa được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc
độ của nhiều ngành khoa học và có quy mơ rộng hẹp khác nhau. Vì thế, có
đến hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các cơng trình nổi tiếng
thế giới, lần đầu tiên được hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và
Clyde Khuckohn tổng hợp lại trong tác phẩm Culture: A critical review of
1
E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch từ tiếng Nga, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, Hà Nội, tr, 13.
14
concepts and definitions (năm 1952). Trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160
định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau và
được phân thành 6 loại cơ bản: định nghĩa mô tả (liệt kê những gì mà khái
niệm văn hóa bao hàm), định nghĩa lịch sử (nhấn mạnh tính truyền thống, quá
trình thừa kế xã hội), định nghĩa chuẩn mực (định hướng vào lối sống, các
quan niệm về lý tưởng và giá trị), định nghĩa tâm lý học (chú trọng đến q
trình thích nghi với mơi trường, q trình học hỏi, hình thành thói quen, lối
ứng xử của con người), định nghĩa cấu trúc (chú trọng đến cấu trúc của văn
hóa) và định nghĩa phát sinh (văn hóa được xác định từ góc độ nguồn gốc của
nó). Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.
Tại Việt Nam, quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi sự sinh
tồn”. [Hồ Chí Minh 1995: 431]
Từ cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về văn hóa chúng ta có thể thấy, Hồ
Chí Minh hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, tức văn hóa là tồn bộ (global
culture), phương diện tinh thần nhưng lại có mặt ở tất cả các hoạt động của
con người, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì
“Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng
xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng” [Ngơ
Văn Lệ 2004: 314]
15
Đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Tuy nhiên, trong luận
văn này chúng tơi sử định nghĩa của Trần Ngọc Thêm “Văn hóa là một thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy qua
q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với mơi
trƣờng tự nhiên và xã hội của mình”. [Trần Ngọc Thêm 2004: 25]. Như vậy,
định nghĩa này đã phân biệt văn hóa dựa trên bốn đặc tính cơ bản: hệ thống,
giá trị, nhân sinh và lịch sử. Đối tượng nào bao gồm cả bốn đặc trưng này thì
có thể khẳng định là văn hóa. Xét về mặt cấu trúc, văn hóa bao gồm ba thành
tố chính: Văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử. Trong đó,
văn hóa nhận thức được chia thành nhận thức về tự nhiên và nhận thức về con
người, văn hóa tổ chức được chia thành tổ chức đời sống tập thể và tổ chức
đời sống cá nhân, văn hóa ứng xử được chia thành ứng xử với môi trường tự
nhiên và ứng xử với mơi trường xã hội.
Như vậy, có thể hiểu rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo
ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được
chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của
từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các
loài động vật khác; và do được chi phối bởi mơi trường xung quanh và tính
cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.
Trên thực tế, văn hóa là một khái niệm rộng hơn nhiều, đó chính là những
phương thức mà con người tiến hành trong các hoạt động sống của mình. Văn
hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người. Tương ứng với hệ thống
các nhu cầu của con người là các hoạt động để thỏa mãn các nhu cầu đó và
cách thức mà con người tiến hành các hoạt động đó lại tạo ra một kiểu văn
hóa. Vì vậy, người nghiên cứu hồn tồn có thể tiếp cận văn hóa với tư cách
là một hệ thống gồm những yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau và có vai trị
nhất định trong hệ thống.
16
1.1.2 Tơn giáo và tín ngƣỡng
Có thể nói rằng, tơn giáo ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của xã
hội lồi người. Bình minh của lịch sử nhân loại, tôn giáo chưa được hiểu theo
khái niệm tôn giáo như bây giờ mà tồn tại dưới dạng tín ngưỡng tâm linh, tin
vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, có quyền lực siêu phàm và có thể
tác động đến đời sống con người. Trước khi tin tưởng vào sức mạnh, trí tuệ
của chính mình, con người phải tìm đến một niềm tin nào đó để có thể sống,
từ xa xưa, một trong những niềm tin đó chính là sức mạnh siêu nhiên.
Trải qua hàng chục ngàn năm biến động, tôn giáo đã phát triển xen kẽ,
lồng ghép vào nhau với nhiều cấp độ, với những hình dạng và trình độ khác
nhau để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người. Đã có khơng ít những nhà
nghiên cứu thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau đã lý giải bản chất của tôn
giáo: Theo định nghĩa của E. Tylor, tôn giáo là niềm tin vào các thực thể vơ
hình như thần thánh, ma quỷ vong hồn...; cịn theo định nghĩa của Jame
Wach: Tôn giáo là kinh nghiệm về cái thiêng, Cái thiêng ở đây phải được hiểu
là cái thiêng tôn giáo; Khái niệm sinh học của Sigmund Freud, ông cho rằng
tôn giáo là gạt bỏ những bản năng bằng những phương tiện cấm đốn tìm thấy
trong mọi văn hóa tơn giáo tạo nên một kho tàng gồm các ý tưởng sinh ra từ
nhu cầu xoa dịu những đau khổ của con người, khiến có thể kham chịu
được…; Khái niệm nhân chủng học của Jame G. Frazer cho rằng tôn giáo thật
sự cải tiến phép thuật và đánh dấu một sự tiến bộ về tri thức hiểu biết đối với
loài người…; Khái niệm xã hội học của Emile Durkheim cho rằng tôn giáo là
niềm tin vào các thực thể được nhân cách hoá, mà người ta gọi là thần thánh,
ma quỷ... Tuy nhiên, nhiều người đồng tình với phân tích của Friedrich Engel
khi ơng nói đặc điểm chính của tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại của một
đấng siêu nhiên. Mác cũng viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện
của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn
17
hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
của thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự
khơng có tinh thần, tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [C.Mác và
Ph.Ăngghen 1995: 437-570], trong các tác phẩm của mình Mác cũng đã
khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra
con người”. Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất,
chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Quan điểm này không
những chỉ ra bản chất của tôn giáo, mà cịn khái qt được con đường hình
thành của ý thức niềm tin tôn giáo, khẳng định tôn giáo là sản phẩm của con
người, do con người sáng tạo trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ở Việt Nam Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: Tôn giáo là niềm tin vào các
lực lượng siêu nhiên, vơ hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một
cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề
trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác
nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tơn giáo, được vận hành bằng những nghi
lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội, tơn giáo
khác nhau. Như vậy, có thể thấy rõ rằng khi nói đến tơn giáo là nói đến mối
quan hệ giữa hai thế giới thực và hư, giữa hai tính thiêng và tục và giữa chúng
khơng có sự tách bạch rõ ràng 2.
Tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ đối với một đối tượng siêu
nhiên nào đó có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống sinh hoạt của con người,
mong muốn mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Niềm tin vào lực
lượng siêu nhiên thuộc về bản chất con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên
đời sống tâm linh của con người, tồn tại bên cạnh đời sống vật chất, đời sống
2
Theo Tôn giáo là gì? - />
18
tinh thần, đời sống tình cảm… Như vậy, tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá
do con người quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành.
Tín ngưỡng là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí,
vĩ đại mà con người chỉ cảm nhận được.
Lịch sử cho thấy rằng các loại tín ngưỡng khác nhau có sức sống dai
dẳng và ảnh hưởng lâu dài. Hiện tại, đang có nhiều ý kiến khác nhau khi sử
dụng khái niệm “tơn giáo” và “tín ngưỡng”. Theo quan điểm truyền thống,
người ta có ý thức phân biệt tơn giáo và tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng là
sản phẩm của xã hội ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan
điểm khác lại đồng nhất giữa tơn giáo và tín ngưỡng và đều gọi chung là tơn
giáo, tuy có phân biệt tơn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa
phương, tôn giáo thế giới (phổ quát).
Ngô Đức Thịnh cho rằng, sử dụng khái niệm tín ngưỡng với tư cách
như một hình thức thể hiện niềm tin vào cái thiêng liêng của con người, của
một cộng đồng nào đó ở một trình độ phát triển phát triển xã hội cụ thể.
Như vậy, điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tơn giáo ở chỗ, tín ngưỡng
mang tính dân tộc nhiều hơn tơn giáo, tín ngưỡng có tổ chức khơng chặt chẽ
như tơn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của
một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung cịn tơn giáo thì
khơng mang tính dân tộc. Tín ngưỡng khơng có một hệ thống điều hành và tổ
chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và đơn giản. Tín ngưỡng
nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tơn giáo.
19
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tên gọi và khái niệm ngƣời Hoa
Theo Chỉ thị của Ban bí thư Số 62-CT/TW, ngày 8 tháng 11 năm 1995
“Về tăng cƣờng công tác ngƣời Hoa” trong tình hình mới thì khái niệm về
người Hoa và Hoa kiều như sau:
- Người Hoa bao gồm những người gốc Hán và những người thuộc dân
tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hoá di cư sang Việt Nam và con cháu của
họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn
cịn giữ những đặc trưng văn hố, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán
của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa.
- Hoa kiều là những người có cùng nguồn gốc dân tộc với người Hoa,
nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam.
1.2.2 Vài nét về n
–
Người Hoa đến Sài Gòn - Gia Định (nay là TP. Hồ Chí Minh) và các tỉnh
thành Nam Bộ bắt đầu từ thế kỷ XVII, gắn liền với sự kiện Mãn Thanh lật đổ
triều Minh ở Trung Quốc. Vào giai đoạn này người Hoa đến vùng Nam Bộ
(trong đó có Sài Gòn - Gia Định) với thân phận "vong quốc" tìm kiếm vùng
đất mới để sinh sống và lập nghiệp.
Trong khoảng thời gian gần 40 năm sau khi quân Thanh chiếm được
Nam Kinh, cơ bản cai trị Trung Hoa, vùng Hoa Nam là bãi chiến trường giữa
Mãn Thanh và các lực lượng chống đối theo xu hướng chính trị khác nhau.
Trong đó, nổi bật là cuộc kháng chiến của lực lượng “Phản Thanh phục
Minh”. Trong khoảng thời gian 40 năm đó, đã có các đợt di cư của người Hoa
ra nước ngoài, xa lánh ách thống trị của Mãn Thanh. Một trong những đợt di
20
cư đông đảo là đợt di cư của Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và của
nhóm Mạc Cửu.
Theo Lê Xuân Diệm: “Từ thế kỷ XVII về sau, Nam Bộ hoang sơ dần
trở thành vùng đất hứa cho nhiều cộng đồng dân cư ngoại nhập. Đầu tiên là
người Việt đã mở đầu công cuộc khai phá đất hoang, thực hiện một cuộc
“cách mạng nông nghiệp” ở đây (vùng châu thổ sông Cửu Long). Tiếp đến,
những dân tộc người Hoa (Quảng Đông – Phúc Kiến – Hải Nam…), lần lượt
nhập cư, tập trung chủ yếu vào hoạt động thương mãi (đường dài), mở ra cuộc
cách mạng đô thị “tiền công nghiệp”[ Lê Xuân Diệm 2002: 25].
Vào cuối thế kỷ XVII, trên vùng đất Nam Bộ Việt Nam đã hình thành
ba trung tâm tụ cư của người Hoa đó là vùng Biên Hịa - Sài Gịn, với nịng
cốt là nhóm di dân của Trần Thượng Xuyên.
Trung tâm thứ hai là vùng nằm từ bờ Bắc sông Tiền và sông Hậu mà
tập trung là ở Mỹ Tho và hướng về phía Tây Bắc với các tỉnh Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Cần Thơ... Khởi đầu trung tâm này là nhóm của Dương Ngạn
Địch và Hồng Tiến chỉ huy tách ra từ đoàn di dân 3.000 người cùng Trần
Thượng Xuyên đến Việt Nam vào năm 1679.
Trung tâm tụ cư thứ ba của người Hoa là khu vực Hà Tiên và phía Tây
sơng Hậu do Mạc Cửu, một thương nhân Quảng Đông dẫn đầu. Từ ba trung
tâm ban đầu đó, người Hoa tiếp tục nhập cư và mở rộng khu vực cư trú ra hầu
hết các vùng đất Nam Bộ. Có thể xem Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn
Địch, Mạc Cửu và những lớp di dân người Hoa đến Nam Bộ trong khoảng
cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII - là những thế hệ người Hoa đầu tiên trên
đất Nam Bộ. Những thế hệ di dân người Hoa đầu tiên này rõ ràng là những
người tiên phong, dũng cảm và ít nhiều mạo hiểm khi lựa chọn vùng đất định
cư ở Nam Bộ vào thời điểm lịch sử lúc đương thời. Hơn ba thế kỷ về trước,
21
vùng đất Nam Bộ vẫn còn bạt ngàn là rừng rậm và đầm lầy, sơng ngịi chằng
chịt. Đây là một vùng đất đầy tiềm năng, nhưng cũng nhiều nguy hiểm đối với
những người tiên phong khai phá bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên hoang
dã. Trần Thượng Xuyên và những thế hệ di dân người Hoa tìm đến đất Nam
Bộ đã phải đối diện và khắc phục biết bao gian nan, vất vả để có thể kiến tạo
một cuộc sống ổn định, lâu dài3.
Trung Hoa.
Nam
–
–
–
–
Lúc bấy giờ, nhà Nguyễn đã cho phép người Hoa
được lập nên những Bang hội truyền thống của họ. Tổ chức đồng hương
(Bang) của người Hoa đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1787.
Vào năm 1814, dưới thời vua Gia Long (1802 – 1819), tổ chức Bang được
chính thức hóa về mặt pháp lý. Bang được thành lập dựa trên cơ sở đồng
hương, đồng phương ngữ, nhằm mục đích bảo vệ sự an tồn tính mạng và của
cải vật chất của người Trung Hoa di cư trên đất khách quê người. Mặt khác,
thông qua các Bang, nhà Nguyễn có thể quản lý việc làm ăn, sinh hoạt và đi
lại của người Hoa một cách dễ dàng hơn.
Những chính sách của triều Nguyễn đối với người Hoa trong thế kỉ
XVII – XIX cũng ảnh hưởng sâu sắc đến sự nhập cư của người Hoa vào vùng
3
Phan An - Trần Thƣợng Xuyên và những thế hệ ngƣời Hoa đầu tiên trên đất Nam Bộ
/>
22
Nam Bộ. Lúc bấy giờ, chúa Nguyễn đã sử dụng dân tị nạn chính trị Trung
Hoa để khai khẩn vùng đất mới Nam Kỳ, cho họ sinh cơ lập nghiệp ở đó. Từ
đầu thế kỉ XIX trở đi, nhà Nguyễn trở nên thực tế hơn trong quan hệ với kiều
dân Trung Hoa. Biểu hiện trong chính sách này là chúa Nguyễn đã dành cho
họ nhiều ưu đãi đặc biệt mà các kiều dân khác khơng được hưởng. Ví dụ như
các tàu thuyền buôn của người Trung Hoa cập bến tại Việt Nam chỉ phải nộp
2000 - 3000 quan tiền thuế nhập cảng, trong khi đó tàu thuyền của các nước
Âu Châu phải đóng tới 8000 quan. Thêm vào đó, nhà Nguyễn không cản trở
đối với việc buôn bán các mặt hàng khác nhau của người Hoa trên đất Việt
Nam, mà còn cung cấp thẻ bài, đặc biệt là trong kinh doanh lúa gạo. Chính
những yếu tố này đã tạo ra thuận lợi cho người Hoa ở Nam Kỳ thiết lập vị thế
kiểm soát trong lĩnh vực kinh doanh lúa gạo của Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc4.
Ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác như khai thác mỏ, kinh doanh
đồn điền… người Hoa cũng được nhận sự ưu đãi từ phía nhà Nguyễn. Theo
luật pháp được ban hành ở nửa đầu thế kỷ XIX, người Trung Hoa đến Việt
Nam định cư, sinh sống được nhà chức trách cho miễn tất cả các loại thuế
trong ba năm đầu. Họ được tham gia tất cả các hoạt động kinh tế trong đó có
khai thác mỏ quặng và kinh doanh đồn điền. Nếu họ khơng có điều kiện mua
nhà và khai khẩn đất đai thì nhà nước cho họ vay vốn. Nếu như họ kinh doanh
trong ngành khai thác mỏ thì được phép tuyển chọn và th nhân cơng. Chính
vì vậy, khơng những khuyến khích thêm nhiều người Hoa nhập cư vào Việt
Nam, mà cịn thúc đẩy q trình tích lũy vốn, kinh nghiệm và các mối quan hệ
bạn hàng cho sự ra đời tầng lớp nhà bn, nhà thầu khốn Hoa Kiều và sau đó
người Hoa ở giai đoạn tiếp theo của lịch sử Việt Nam.
4
Trần Khánh, Chính sách của nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đối với dân Trung Hoa di
cƣ, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 6, 2000, tr.70
23
Một số
–
-
đến năm
–
–
[Trần Nhu 2011: 12].
Thị trấn Chợ Lớn cách Sài Gịn 5 km về phía Tây Nam do người Hoa
lập ra năm 1778, Chợ Lớn thường được gọi là chợ người Hoa, hay còn gọi là
Chợ Sài Gòn. Lê Văn Duyệt sau khi được bổ nhiệm làm Tổng trấn Gia Định
đặt tên cho chợ người Hoa này là Chợ Lớn. Năm 1782, thị tứ này bị quân Tây
Sơn tàn phá nặng nề.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long (1802 – 1820),
đóng
Nam. Hoa thương ở đây ngồi việc bn bán lúa gạo và các nông sản khác, đã
làm chủ việc phân phối các mặt hàng nhu yếu phẩm tiêu dùng hàng ngày do
các nhà buôn từ Trung Quốc, các nước trong khu vực Đông Nam Á và từ
châu Âu chuyển tới. Để quản lý người Hoa, ngay khi Nguyễn Hữu Cảnh vào
Nam kinh lược, lập phủ Gia Định với hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, chúa
Nguyễn cho tất cả người Hoa đều được nhập tịch để thực hiện chính sách
đồng hóa, buộc họ phải tuân theo pháp luật của Việt Nam. Người Hoa ở Trấn
Biên phải kê khai lý lịch, nơi cư trú, nghề nghiệp… ghi vào sổ bộ để lập xã
24
Thanh Hà, cịn người ở Phiên Trấn thì thành lập xã Minh Hương. Điều đáng
lưu ý là hai xã này chỉ con người, khơng có đất đai, con người được quản lý
căn cứ trên sổ bộ, để nộp thuế.
Đặc biệt, từ cuối thế kỉ XVIII, nhiều người Hoa bỏ đất Biên Hòa về
Chợ Lớn sinh sống, làm cho dân cư khu vực này đông đúc hơn và phố thị
ngày càng sầm uất. Chợ Lớn trở thành đầu mối cung cấp hàng hóa cho cả khu
vực mà hầu hết những nhà buôn lớn là người Hoa. Như vậy, xã Thanh Hà đã
bị giải thể, chỉ cịn có xã Minh Hương. Xã Minh Hương được thành lập từ
năm 1698, cùng với nhiều thôn, xã khác của tổng Tân Long. Xã Minh Hương
là một trong những cộng đồng dân cư người Hoa đầu tiên ở Sài Gòn. Xã Minh
Hương nằm trong cơ cấu hành chính chung của nhà nước phong kiến Việt
Nam xứ Đàng Trong và nhà Nguyễn về sau. Dấu vết của xã Minh Hương xưa,
nay là đình Minh Hương Gia Thạnh nằm trên đường Trần Hưng Đạo, Quận 5.
Những người Minh Hương ở đây chủ yếu làm dịch vụ xay xát, xuất
cảng lúa gạo và các loại nông phẩm khác, đồng thời cung cấp nhu yếu phẩm
cho vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang trên đà phát triển mạnh.
Ngoài việc làm ăn, buôn bán những lớp cư dân đầu tiên của người Hoa này đã
cố gắng giữ gìn truyền thống văn hóa, cũng như tạo dựng một cuộc sống mới
trên vùng đất Sài Gịn. Đó là nếp sống đồn kết, thương yêu lẫn nhau giữa
cộng đồng người Hoa, giữa bà con người Hoa với người Việt. Chính nếp sống
văn hóa có tơn ti, trật tự, giữ được tình làng xóm đó, nên vào năm 1863 vua
Tự Đức đã có lời khen ngợi nếp sống của làng Minh Hương và ban tặng một
bức hoành phi sơn son thiếp vàng với bốn chữ: “Thiện tục khả phong” (phong
tục tốt đẹp đáng khen). Tấm biển này ngày nay vẫn còn lưu giữ ở Đình Minh
Hương Gia Thạnh (xem hình 4.9). Làng Minh Hương cũng chính là minh
chứng cho sự hội nhập của người Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ
rất sớm.
25