Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đảm bảo quyền con người trong thi hành án hình sự ở huyện An Dương thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.26 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-----------------------

BỘ NỘI VỤ
-------------

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN VĂN THỌ

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI TRONG THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở HUYỆN AN DƢƠNG
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-----------------------

BỘ NỘI VỤ
-------------

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN VĂN THỌ

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI TRONG THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở HUYỆN AN DƢƠNG


THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

Chun ngành: Luật Hành chính – Hiến pháp
Mã số: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Thanh Thúy

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Văn Thọ


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Ban
giám đốc học viện, các thầy, cô giáo bộ môn; các thầy, cô giáo Hội đồng bảo
vệ luận văn; các thầy, cô khoa Đào tạo sau đại học của Học viện Hành chính
Quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu, hƣớng dẫn các
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học bổ ích, góp ý sửa chữa và giúp đỡ em hồn
thành luận văn này.

Trong quá trình thực hiện luận văn, em đặc biệt cảm ơn cô giáo, Tiến sĩ
Bùi Thị Thanh Thúy – Giảng viên trƣờng Học viện Hành chính Quốc gia, sự
hƣớng dẫn tận tình, trách nhiệm của cơ khơng những giúp em hiểu thấu đáo
và trình bày dễ hiểu hơn đề tài của luận văn, mà còn giúp em có kỹ năng làm
việc theo trình tự khoa học, logic, rất có ích cho thực tiễn cơng tác sau này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhƣng luận văn vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận đƣợc sự chỉ bảo, hƣớng dẫn của các
thầy, cô giáo để luận văn đƣợc hoàn thiện.
Tác giả cũng rất mong nhận đƣợc sự góp ý hữu ích của các bạn đồng
nghiệp và những ngƣời quan tâm để luận văn thêm phong phú.
Tác giả luận văn

Trần Văn Thọ


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NNPQ

: Nhà nƣớc pháp quyền

QCN

: Quyền con ngƣời

THAHS

: Thi hành án hình sự

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ ................................................................ 9
1.1. Quyền con ngƣời và đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án hình
sự. ..................................................................................................................... 9
1.2. Nội dung, yêu cầu, vai trò đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án
hình sự. ........................................................................................................... 23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI TRONG THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN AN DƢƠNG, THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG ........................................................................................................... 43
2.1. Khái quát về tình hình thi hành án hình sự ở huyện An Dƣơng, thành phố
Hải Phòng ....................................................................................................... 44
2.2. Kết quả đảm bảo quyền con ngƣời con ngƣời trong thi hành án hình sự tại
huyện An Dƣơng và nguyên nhân .................................................................. 49
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở HUYỆN AN DƢƠNG
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .......................................................................... 62
3.1. Quan điểm đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án hình sự ở huyện
An Dƣơng, thành phố Hải Phòng ................................................................... 62
3.2. Giải pháp đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án hình sự tại huyện
An Dƣơng, thành phố Hải Phòng ................................................................... 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... `84



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quyền con ngƣời (QCN) mang tính phổ quát, thuộc về bản chất, gắn liền
với các hoạt động xã hội, các mối quan hệ xã hội và các phƣơng thức sống
của cá nhân. QCN là biểu hiện của các tiêu chí tác động qua lại, củng cố các
mối liên hệ, phối hợp hành động và hoạt động giữa con ngƣời và con ngƣời,
ngăn ngừa các mâu thuẫn đối đầu và xung đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự
do cá nhân với tự do của những ngƣời khác, với hoạt động bình thƣờng của
Nhà nƣớc và xã hội. Những quyền nhƣ quyền đƣợc sống, quyền đƣợc tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, đƣợc bất khả xâm phạm về thân thể, đƣợc tự do
ngơn luận, tự do chính kiến, tự do tín ngƣỡng, đƣợc tham gia vào các q
trình chính trị là những điều kiện cần thiết để con ngƣời tổ chức đời sống
trong xã hội văn minh và cần phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ một
cách vô điều kiện.
Ở Việt Nam, đảm bảo QCN là vấn đề quan trọng, luôn đƣợc Đảng, Nhà
nƣớc và nhân dân quan tâm, bảo vệ bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau
nhƣ Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Luật THAHS
v.v... Nhà nƣớc ta đã chính thức ghi nhận và đảm bảo QCN, quyền cơng dân,
coi đó là những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế độ. Các
Bộ luật, Luật của nƣớc ta đã ghi nhận, bảo vệ QCN, quyền công dân qua
nhiều chế định khác nhau. Các quy định về THAHS là một trong các quy định
nhằm bảo vệ QCN, quyền công dân của nhân dân và của cả ngƣời bị kết án.
Những quy định của Hiến pháp và Luật THAHS đều nhằm góp phần phát huy
dân chủ, tăng cƣờng hơn nữa hiệu lực của Nhà nƣớc trong việc đảm bảo
QCN, quyền công dân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
và giàu mạnh. Để đảm bảo QCN, quyền cơng dân trong THAHS cần nâng cao
trình độ chun môn nghiệp vụ cho thi hành án viên, kiểm sát viên, phải

1



không ngừng bồi dƣỡng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị và đạo
đức cơng vụ cho những cán bộ này; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ
quan có thẩm quyền; đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của thẩm quyền và
nhân dân. Mục đích của biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan
THAHS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế.
Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, hội nhập kinh
tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền (NNPQ) Xã hội
chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, đảm bảo QCN trong THAHS đã
bộc lộ những yếu kém, bất cập; việc nhận thức khơng đầy đủ về tính chất, vai
trị và tầm quan trọng của THAHS cũng nhƣ các quy định của pháp luật về
trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc làm cho q trình vận dụng thiếu chính xác
dễ dẫn đế tùy tiện, trái pháp luật, xâm hại đến QCN, lợi ích hợp pháp của
cơng dân. Khơng ít trƣờng hợp các cơ quan và ngƣời tiến hành thi hành bản
án chƣa nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục THAHS, vi phạm các quy
định pháp luật về đảm bảo QCN, quyền công dân khi thực thi công vụ.
THAHS oan sai tuy chƣa phải là hiện tƣợng phổ biến nhƣng đã xảy ra ở nhiều
địa phƣơng, gây nên sự bất bình trong dƣ luận xã hội, có trƣờng hợp gây ra
hậu quả nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tƣợng
THAHS khơng đúng trình tự thủ tục là do trình độ, năng lực của một bộ phận
cán bộ trong các cơ quan thực hiện còn hạn chế, ý thức pháp luật chƣa đƣợc đề
cao. Hơn nữa, khi áp dụng các biện pháp thi hành án nhƣ án treo, cải tạo không
giam giữ, quản chế... nhằm bảo vệ các QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân rất dễ tạo ra những ảnh hƣởng tiêu cực đến QCN, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân. Trong bối cảnh chung của cả nƣớc nhƣ vậy, huyện
An Dƣơng, thành phố Hải Phịng cũng có những hạn chế tƣơng tự trong việc
bảo đảm QCN trong THAHS trong những năm vừa qua.

2



. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
đảm bảo quyền con ngƣời trong THAHS gắn với một địa bàn cụ thể là huyện
An Dƣơng, thành phố Hải Phòng là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết
cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Đảm bảo QCN,
quyền công dân trong THAHS ở huyện An Dƣơng, thành phố Hải Phịng”, đã
có những cơng trình nghiên cứu tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ
khác nhau:
Từ góc độ nghiên cứu về đảm bảo QCN nói chung trong NNPQ có các
cơng trình của các tác giả sau: Trần Ngọc Đƣờng, "QCN, quyền công dân trong
NNPQ XHCN Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004; Đinh Văn
Mậu, "Quyền lực Nhà nƣớc và QCN", Nhà xuất bản Tƣ pháp, 2003; Tƣờng
Duy Kiên, "NNPQ XHCN Việt Nam với việc đảm bảo QCN", Tạp chí Nghề
luật, 2004;… Trong các cơng trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và
các đặc điểm NNNPQ nói chung, NNPQXHCN nói riêng; nghiên cứu về mối
quan hệ giữa QCN và quyền công dân; nghiên cứu vấn đề đảm bảo QCN từ
góc độ triết học, xã hội học hoặc lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật. Tuy
có cách nhìn khơng hồn tồn giống nhau và nghiên cứu ở các mức độ khác
nhau nhƣng các tác giả đều đƣa ra các cơ chế đảm bảo QCN trong NNPQ.
“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”: do Trung
tâm Nghiên cứu Quyền con ngƣời – Quyền công dân và Trung tâm Nghiên
cứu Tội phạm học và Tƣ pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội phát hành. Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan
đến một bộ phận quan trọng của nhóm ngƣời bị tƣớc quyền tự do. Đó là
những ngƣời bị tậm giữ, tạm giam hay đang phải chấp hành hình phạt tù. Tài
liệu đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về quyền con ngƣời trong các hoạt
động tố tụng hình sự. Từ đó hƣớng dẫn, cung cấp những cơng cụ hữu hiệu


3


cho việc bào chữa tại tịa án hình sự địa phƣơng. Cuốn sách đề cập đến khả
năng áp dụng luật quốc tế nhƣ lập luận riêng biệt, và nếu có thể nhƣ một ý bổ
sung nhằm củng cố, thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một
trong những quyền quan trọng của những ngƣời đang bị giam giữ, thi hành
án. Bởi lẽ nó đảm bảo cho các vụ án đƣợc xét xử công bằng và quyền của
những ngƣời này đƣợc đảm bảo tốt nhất. Vì vậy cuốn sách đã góp phần quan
trọng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt hơn quyền của nhóm ngƣời bị
giam giữ, thi hành án nói chung và nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng nói riêng
trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự [41].
“Hỏi đáp về quyền con người” của trung tâm nghiên cứu Quyền con
ngƣời – Quyền công dân thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội phát
hành nhằm giúp ngƣời đọc dễ dàng tiếp cận với những nội dung cốt lõi của
vấn đề nhân quyền. Những thông tin ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu đƣợc chia
thành mục chuyên biệt với cả vấn đề lý luận, pháp lý về nhân quyền ở tầm
quốc tế và Việt Nam. Sách đã cung cấp cho ngƣời đọc tự hiểu biết hệ thống
nhƣng dễ hiểu và tiếp thu về quyền con ngƣời [41].
“ Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” Chủ biên PGS.TS Nguyễn
Ngọc Chí – Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2014 trong đó với tinh thần
đổi mới theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tue pháp,
cũng nhƣ sự phát triển của khoa học pháp lý tố tụng hình sự những năm gần
đây, nhất là vấn đề đảm bảo quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự. Các tác
giả đã nhận thức rõ tàm quan trọng của việc đảm bảo quyền con ngƣời và đƣa
vấn đề này vào từng chƣơng và dành một chƣơng đề cập đến những vấn đề có
tính khái qt về quyền con ngƣời, đảm bảo quyền con ngƣời trong tố tụng
hình sự. Giáo trình có phạm vi rộng, phong phú, kết cấu hợp lý hơn các giáo
trình trƣớc đó [11].

Cuốn sách về “Bảo vệ và thúc đẩy QCN trong khu vực Asean " do Trung
tâm Nghiên cứu Quyền con ngƣời - Quyền công dân thuộc Khoa Luật - Đại

4


học quốc gia Hà Nội phát hành đã đề cập tới quyền của con ngƣời dƣới góc
nhìn của khu vực; giới thiệu và phân tích khái quát thực tiễn nhân quyền tại
các quốc gia trong khu vực, sự hình thành chuẩn mực, các cơ chế khu vực bảo
vệ và thúc đẩy nhân quyền, cũng nhƣ vai trò chủ thể khác nhau ở Asean (nhà
nƣớc, tổ chức phi chính phủ, cơ sở giáo dục, nghiên cứu...) [41].
Cuốn sách “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự" do
Trung tâm nghiên cứu QCN - quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội
phạm học và Tƣ pháp hình sự thuộc Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội
phát hành. Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến một bộ
phận quan trọng của nhóm ngƣời bị hạn chế một số quyền tự do. Đó là những
ngƣời bị kết án. Tài liệu này đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về QCN
trong các hoạt động tố tụng hình sự. Qua đó nhằm hƣớng dẫn, cung cấp
những thơng tin cụ thể, chính xác cho việc bào chữa tại các tịa án hình sự địa
phƣơng. Đặc biệt, giúp cho luật sƣ biện hộ các vụ án hình sự nâng cao kiến
thức và hiểu biết nhằm áp dụng hiệu quả luật quốc tế tại các tòa án địa
phƣơng. Từ góc độ đó, cuốn sách đề cập đến những khả năng áp dụng luật
quốc tế nhƣ là một lập luận riêng biệt, nhƣ là một ý bổ sung nhằm củng cố
sức thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một trong số các quyền
quan trọng của những ngƣời đang bị giam, giữ, bị kết án; góp phần đảm bảo
cho các vụ án đƣợc xét xử công bằng và quyền của những ngƣời liên quan sẽ
đƣợc đảm bảo tốt nhất. Vì vậy, cuốn sách đã góp một phần quan trọng trong
những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt hơn quyền của nhóm ngƣời bị bị giam, giữ
nói chung và nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng nói riêng trong lĩnh vực tƣ pháp
hình sự nói riêng [41].

“ Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề
tài nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở
Việt Nam những năm qua đạt đƣợc nhiều kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn

5


nhiều bất cập và hạn chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên
cứu tiếp thu những quan điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con ngƣời trong
tố tungj hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền; Đánh giá thực trạng
hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự đồng
thời chỉ ra các ƣu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ quyền con ngƣời
trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đƣa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền con ngƣời bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía cạnh mà đề
tài này đề cập đến là quyền con ngƣời nói chung trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con ngƣời đƣợc đề cập đến
phần lớn là các quyền của những ngƣời bị tƣớc tự do trong lĩnh vực tƣ pháp
hình sự. Bên cạnh những ngƣời bị tƣớc tự do, đề tài này cũng phản ánh đến
quyền của những ngƣời tham gia tố tụng mà không bị tƣớc quyền tự do nhƣ
các bị can, bị cáo đang đƣợc tại ngoại trong một số trƣờng hợp[12].
Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các cơng trình khoa học, các bài
báo, luận văn, luân án, sách chuyên khảo trong chừng mực nhất định đã góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về QCN bị kết
án. Tuy vậy, cho đến nay chƣa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn
diện, chun biệt về QCN trong THAHS ở Huyện An Dƣơng, luận văn là cơng
trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu một cách tồn diện và chun biệt về
“QCN, quyền cơng dân trong THAHS ở huyện An Dƣơng, thành phố Hải
Phịng”, dƣới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên
cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nêu trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án
hình sự ở huyện An Dƣơng, thành phố Hải Phòng.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về đảm bảo QCN trong THAHS thông
qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm, yêu cầu, nội dung; vai trò của đảm bảo
QCN trong THAHS.
Thứ hai, phân tích thực trạng đảm bảo QCN trong THAHS ở huyện An
Dƣơng, TP Hải Phòng trong thời gian từ 2013 đến nay, qua đó đánh giá về
những kết quả đạt đƣợc; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những
hạn chế, yếu kém này.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp toàn diện, có hệ thống và tính khả
thi nhằm đảm bảo QCN trong THAHS ở huyện An Dƣơng, thành phố Hải Phòng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là đảm bảo QCN trong THAHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về không gian: luận văn nghiên cứu QCN trong THAHS ở huyện An
Dƣơng, TP Hải Phòng
Về thời gian: từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận của luận văn
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin

về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, chủ trƣơng của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
QCN và đảm bảo QCN trong THAHS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ:

7


- Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng ở chƣơng 1 của luận văn nhằm
đƣa ra những luận giải, đánh giá về các quan điểm của các tác giả về quyền
con ngƣời trong THAHS, cũng nhƣ hoạt động phân tích đánh giá quy định
của pháp luật về đảm bảo QCN trong hoạt động THAHS;
- Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp đƣợc sử dụng trong việc nghiên cứu
thực trạng đảm bảo QCN trong THAHS;
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc tác giả đƣa ra để so sánh giữa hoạt động
đảm bảo QCN trong THAHS với một số lĩnh vực khác cũng nhƣ so sánh các
quan điểm, về vấn đề này với nhau.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan
trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần hoàn
thiện hệ thống lý luận về QCN và đảm bảo QCN trong THAHS- một nhóm chủ
thể dễ bị tổn thƣơng bị tƣớc bỏ quyền tự do đi lại và một số quyền khác.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tƣ
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về QCN; về hoạt động THAHS.
Những giải pháp đƣợc luận giải thuyết phục từ cơ sở để xuất đến nội dung
giải pháp và các điều kiện đảm bảo thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ
giúp các nhà quản lý trong tham mƣu, đề xuất hồn thiện chính sách, pháp
luật về đảm bảo QCN trong THAHS.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đảm bảo QCN trong THAHS;
Chương 2: Thực trạng đảm bảo QCN THAHS ở huyện An Dƣơng, TP
Hải Phòng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo QCN trong THAHS ở
huyện An Dƣơng, TP Hải Phòng

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ

1.1. Quyền con ngƣời và đảm bảo quyền con ngƣời trong thi hành án
hình sự.
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con ngƣời là một phạm trù rộng, đa dạng. Tùy từng mục đích và
phạm vi nghiên cứu mà hình thành nên những định nghĩa khác nhau về QCN.
Mặc dù số lƣợng các định nghĩa về QCN rất lớn và mỗi định nghĩa đều mang
trong mình ít nhiều khía cạnh đúng đắn nhƣng cho đến nay, trên thế giới vẫn
chƣa có một khái niệm chính thống nào về QCN để làm chuẩn mực chung.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, quyền là "điều mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc địi hỏi" [40]. Theo đó, QCN
có thể đƣợc hiểu là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi
con ngƣời đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý:
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về

QCN thƣờng đƣợc trích dẫn khi nghiên cứu về QCN. Theo đó, QCN là những
đảm bảo pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự
đƣợc phép và tự do cơ bản của con ngƣời [27, tr.35].
Ở Việt Nam, một số luật gia trong quá trình nghiên cứu về QCN cũng
đƣa ra một số quan điểm cá nhân về khái niệm QCN nhƣ:
Theo TS. Trần Quang Tiệp: "QCN là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà
chỉ con ngƣời mới đƣợc hƣởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nhất định" [38, tr.14].

9


Quan điểm của PGS.TS Nguyễn Văn Động cho rằng: QCN là những giá
trị quý báu đƣợc thừa nhận chung bởi tồn thế giới, đồng thời gắn bó chặt chẽ
với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả
cộng đồng quốc tế; QCN trực tiếp liên quan đến cá lĩnh vực sinh hoạt vật chất
và tinh thần của con ngƣời và góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát
triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con ngƣời; các QCN tạo thành
một hệ thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng
thời vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là hệ quả của nhau [42, tr.134].
Trên cơ sở tìm hiểu về vấn đề QCN, tổng hợp các khái niệm về QCN
trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam, tác giả luận văn hồn tồn đồng tình với quan
điềm của TSKH.GS Lê Cảm khi xây dựng khái niệm QCN. Theo đó, "QCN là
một phạm trù lịch sử-cụ thể, là giá trị xã hội cao quý nhất đƣợc thừa nhận chung
của nền văn minh nhân loại và là đặc trƣng tự nhiên vốn có cần đƣợc tôn trọng
và không thể bị tƣớc đoạt của bất kỳ cá nhân con ngƣời nào sinh ra trên trái đất,
đồng thời phải đƣợc bảo vệ bằng pháp luật bởi các thành viên Liên hợp quốc
cũng nhƣ bởi cộng đồng quốc tế" [6, tr.224].
Khi xem xét nghiên cứu khái niệm QCN có một số vấn đề cần lƣu ý sau

đây:
Một là, việc sử dụng thuật ngữ "QCN" và "nhân quyền". Có ý kiến cho
rằng hai khái niệm này mang ý nghĩa khác nhau. Điều này thể hiện ở chỗ,
"QCN" đƣợc hiểu là những tƣ tƣởng, quan điểm, nhận thức "của ta" còn
"nhân quyền" đƣợc nhắc đến với nghĩa là luận điệu, âm mƣu, thủ đoạn "của
địch". Tuy nhiên, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng thì nhân quyền có nghĩa
là QCN. Trong đó, nhân quyền là một từ Hán Việt còn QCN là một từ thuần
Việt. Nhƣ vậy, về mặt ngôn ngữ học, hai thuật ngữ này là từ đồng nghĩa nên
hồn tồn có thể sử dụng thay thế nhau.
Hai là, phân biệt giữa khái niệm QCN và quyền cơng dân. Hai khái niệm
này khơng hồn tồn đồng nhất với nhau. Bởi lẽ, quyền công dân là khái

10


niệm gắn liền với Nhà nƣớc, thể hiện mối quan hệ giữa nhà nƣớc và công dân
(tức là những ngƣời mang quốc tịch của nƣớc đó). Quyền cơng dân là những
QCN đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo hộ cho công dân của nƣớc họ. Điều này
quy định nguồn gốc pháp định của quyền cơng dân. Trong khi đó QCN khơng
bị bó hẹp trong quan hệ giữa nhà nƣớc và công dân mà thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng. Chủ thể của QCN là tất cả các thành
viên của xã hội chứ khơng bó hẹp trong phạm vi những ngƣời mang quốc tịch
của quốc gia nhất định. Tuy nhiên để QCN mang giá trị hiện thực thì nó cũng
cần đƣợc ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc tế và quốc gia.
Các quyền của con ngƣời là những giá trị xã hội đƣợc con ngƣời nhận
thức, thừa nhận và dần đƣợc thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về QCN
và đƣợc các quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Các quyền cơng dân là
hình thức pháp lý, biểu hiện cụ thể của QCN đƣợc pháp luật của quốc gia ghi
nhận. Tuy vậy, không đồng nhất giữa QCN và quyền công dân, không đồng
nhất giữa các giá trị. QCN là những giá trị mà cộng đồng quốc tế nhận thức,

thừa nhận, cịn quyền cơng dân chỉ là nhận thức và thừa nhận của một quốc
gia cụ thể. Vì vậy, khơng ít những trƣờng hợp giữa QCN và quyền cơng dân
vẫn có những khoảng cách nhất định.
1.1.2. Khái niệm quyền con người trong thi hành án hình sự
Trƣớc khi tìm hiểu về QCN trong THAHS chúng ta cần xác định khái niệm
và phạm vi, đối tƣợng của hoạt động THAHS.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định các bản án, quyết định của TAND có
hiệu lực pháp luật phải đƣợc cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Yêu cầu mang tính
nguyên tắc hiến định này đã khẳng định tính hiệu lực của các phán quyết của
Tòa án, đồng thời khẳng định ý nghĩa rất quan trọng của thi hành án nói
chung và THAHS nói riêng. THAHS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải
quyết vụ án, vì nếu vụ án sau khi đƣợc xét xử mà không mang ra thi hành thì

11


công lý không đƣợc thực thi, quyền tƣ pháp, quyền uy của Tồ án và hệ thống
tƣ pháp khơng đƣợc đảm bảo, ý nghĩa trừng trị hay giáo dục của pháp luật
hình sự khơng cịn nữa. THAHS khơng chỉ trừng trị ngƣời phạm tội mà còn
cải tạo, giáo dục họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội, khi họ tái hịa nhập với
xã hội khơng tiếp tục phạm tội mới. Dù có những tranh luận về việc THAHS
có phải là một giai đoạn của tố tụng hình sự hay khơng, nhƣng THAHS có
nhiệm vụ hiện thực hóa bản án kết tội của Tòa án vào trong thực tế và bản án
chính là căn cứ để tiến hành hoạt động THAHS. Trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, nếu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử - tất cả đều hƣớng đến một
phán quyết đúng đắn của Tòa án thì THAHS lại nhằm mục đích thực hiện nội
dung các phán quyết đó của Tịa án. THAHS có mối quan hệ biện chứng giữa
quá trình tố tụng hình sự, khơng có tố tụng thì khơng có thi hành án và ngƣợc
lại khơng có thi hành án thì tố tụng trở nên vô nghĩa [50, tr.24-26].

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [51, tr.1497]. Nhƣ vậy, thi hành án có thể đƣợc hiểu là thực hiện
bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn THAHS là thực hiện các bản
án, quyết định hình sự của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế [38,
tr.5]. THAHS là một hoạt động mang tính hành chính - tƣ pháp hình sự vì nó
có những đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự [49, tr.22].
THAHS là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành theo đặc trƣng của
quản lý hành chính. THAHS cịn sử dụng phƣơng pháp thuyết phục giáo dục
và kết hợp mệnh lệnh hành chính. Việc thi hành án có liên hệ với chính quyền
địa phƣơng, theo thủ tục hành chính nhƣ trƣờng hợp thi hành án treo, cải tạo
khơng giam giữ thì ngƣời chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ đƣợc
giao về Ủy ban nhân dân phƣờng, xã nơi ngƣời chấp hành án cƣ trú để theo
dõi, giám sát, giáo dục.
Phạm vi của THAHS bao gồm thi hành bản án, quyết định về hình phạt
tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cƣ trú, quản chế, trục xuất,

12


tƣớc một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định, án treo, biện pháp tƣ pháp. Theo đó, khoản 3, 5, 6
Điều 3 Luật THAHS năm 2010 giải thích: Thi hành án phạt tù là việc cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự
quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội. Thi
hành án treo là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo quy định của Luật này
giám sát, giáo dục ngƣời bị phạt tù đƣợc hƣởng án treo trong thời gian thử
thách. Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục ngƣời chấp hành
án tại xã, phƣờng, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nƣớc theo bản
án đã có hiệu lực pháp luật [34].

Các bản án hoặc quyết định đƣợc thi hành bao gồm: bản án hoặc phần bản
án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc
thẩm; bản án của Tịa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm của Tòa án; bản án hoặc quyết định của Tòa án đƣợc thi hành ngay theo
quy định của BLTTHS; quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận ngƣời đang
chấp hành án phạt tù ở nƣớc ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết
định thi hành; quyết định chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù tại Việt
Nam cho nƣớc ngoài; bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc
chữa bệnh, giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn, đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng.
Nhƣ vậy, qua sự phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm: THAHS là
việc đưa ra thi hành bản án, quyết định hình sự của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật do cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhằm hiện thực hóa bản án của
Tịa án, góp phần lập lại trật tự xã hội, công bằng, trừng trị đồng thời cải tạo,
giáo dục người phạm tội cũng như phịng ngừa tội phạm.
THAHS là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nƣớc nhằm thực hiện bản
án, quyết định đã có hiệu lực của Tịa án trong thực tiễn. Tòa án nhân danh
nhà nƣớc tuyên án với bị cáo tại phiên tịa, áp dụng mức và loại hình phạt phù

13


hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra, bản án, quyết
định của Tòa án đƣợc thi hành chính là lúc cơng lý đƣợc thực hiện trong cuộc
sống. THAHS thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc,
nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hóa tƣ tƣởng, giáo dục nhân
cách, văn hóa, kỹ năng sống, kỹ năng lao động… giúp ngƣời phải thi hành án
trở thành một cơng dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa
chung [1]. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết trọn
vẹn vấn đề trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội, thi hành án có mối
quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích

của thi hành án khơng đạt đƣợc thì tồn bộ hoạt động của CQĐT, truy tố, xét
xử trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tịa
án có hiệu lực pháp luật khơng đƣợc thi hành hoặc thi hành khơng nghiêm thì
trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng. Chính
vì vậy, việc đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một
yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nƣớc. Trật tự xã hội chỉ có
thể đƣợc duy trì, quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc chỉ đƣợc thực hiện trọn vẹn,
công lý đƣợc bảo vệ và thực thi, công bằng xã hội đƣợc đảm bảo và khi phán
quyết của tồ phải đƣợc thực thi nhanh chóng, đầy đủ, chính xác trên thực tế.
Những nhận thức trên là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm QCN
trong THAHS. Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm nhƣ sau:
Quyền con người trong thi hành án hình sự là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên vốn có và khách quan cần phải bảo đảm của người chấp hành án trong
tổ chức thực hiện thi hành án hình sự, thể hiện ở các quyền của người chấp
hành án, được quy định trong hệ thống pháp luật. Nói cách khác, QCN trong
THAHS thực chất là những QCN được thể hiện ở một lĩnh vực hoạt động của
Nhà nước là THAHS. Trong đó, người chấp hành án là đối tượng được quan
tâm bảo vệ QCN. Các QCN đó được ghi nhận trong hệ thống pháp luật, thể
hiện thành các quyền cụ thể của người chấp hành án.

14


Từ khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm sau:
- Trƣớc hết quyền con ngƣời trong thi hành án hình sự chính là quyền
của phạm nhân. Vì thế khi trở thành phạm nhân, họ bị tạm thời tƣớc một số
quyền trong lĩnh vực hành chính chính trị, một số quyền tƣ do nhƣ: quyền tự
do đi lại, quyền tự do kinh doanh, quyền kết hơn…Cịn lại về cơ bản với tƣ vị
trí con ngƣời, phạm nhân vẫn có những quyền cơ bản nhƣ: quyền sống (với
những phạm nhân khơng phải thi hành án hình sự tử hình)l quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm” (điều 20); quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác (ĐIều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tƣ, bí mật các nhân (Điều 21); quyền tự do tín ngƣỡng, tơn giáo
(Điều 22) quyền đƣợc bồi thƣờng: “Những ngƣời bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền đƣợc bồi
thƣờng thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Ngƣời vi phạm
pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án gây thiệt hại cho ngƣời khác phải bị xử lý theo pháp luật” (Điều 31); quyền
đƣớc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, quyền đƣợc học tâp.
- Quyền con người trong THAHS là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn
có và khách quan của con người, là một lĩnh vực cụ thể của QCN nói chung.
Những nhu cầu, lợi ích của con ngƣời là những quyền họ đƣơng nhiên có
với tƣ cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, bởi vì họ là con ngƣời nên họ
đƣợc hƣởng các quyền đó. Vì vậy, QCN trong THAHS có tính chất tự nhiên,
khách quan. Biểu hiện của các nhu cầu, lợi ích đó là các quyền của con ngƣời
nhƣ quyền sống, quyền tự do cá nhân, quyền đƣợc giáo dục, chăm sóc y tế...
Các quyền đó có thể đƣợc thực hiện ngay hoặc thực hiện dần dần từng bƣớc,
có tính chủ động hoặc thụ động, gồm các quyền có thể bị hạn chế hoặc không
thể bị hạn chế.

15


Đây là một lĩnh vực cụ thể của QCN nói chung, xuất phát từ quan niệm
thực tế rằng ngƣời chấp hành án cũng là con ngƣời. Trong khi đó, QCN là của
con ngƣời và cho tất cả mọi ngƣời. Chính vì thế, QCN trong THAHS mang
những đặc điểm của QCN nói chung, đó là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên
vốn có và khách quan của con ngƣời, đƣợc bảo đảm bằng pháp luật và nhà

nƣớc là chủ thể có trách nhiệm chính trong bảo đảm QCN.
Nói cách khác, những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của
PN với tƣ cách là một con ngƣời chính là cơ sở để khẳng định quyền con
ngƣời trong THAHS chính là một lĩnh vực cụ thể trong THAHS nói chung.
Những khác biệt liên quan tới QCN trong THAHS chủ yếu thể hiện ở nội
dung cụ thể của pháp luật về QCN trong THAHS và các biện pháp bảo đảm
thực hiện QCN trong THAHS.
- Người chấp hành án là đối tượng cần được quan tâm bảo vệ QCN
trong THAHS.
Ngƣời chấp hành án trong ngôn ngữ đời thƣờng đƣợc gọi là "tù nhân". ở
góc độ pháp lý, điều 3 Luật THAHS năm 2010 quy định ngƣời đang chấp
hành bản án là đối tƣợng đặc biệt trong thi hành án hình sự. Ngƣời chấp hành
án là ngƣời bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp
luật. Một ngƣời bị kết án khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ xuất hiện các
biện pháp cƣỡng chế, thi hành án đối với họ.
- Quyền con người trong THAHS được ghi nhận bởi hệ thống pháp luật.
Trong hoạt động của mình, nhà nƣớc có trách nhiệm bảo vệ QCN trong
THAHS. Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất đƣợc nhà nƣớc dùng để thực hiện
điều này, bởi pháp luật khơng chỉ là phƣơng tiện chính thức hố, pháp lý hoá
giá trị xã hội của quyền tự nhiên mà còn bảo đảm giá trị thực tế QCN trong
THAHS. Chỉ khi đƣợc quy định trong pháp luật, việc thực hiện QCN trong
THAHS mới mang tính cƣỡng chế, bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Ở
phƣơng diện này, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nƣớc bảo đảm thực

16


hiện QCN trong THAHS mà còn là phƣơng tiện để PN bảo vệ QCN của mình
thơng qua việc vận dụng các quy phạm pháp luật. Khi đề cập vấn đề này,
Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định ở nƣớc ta "Các quyền con ngƣời về

chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội đƣợc tơn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và đƣợc quy định trong Hiến pháp và Luật". Theo tinh thần
của Hiến pháp, các QCN trong THAHS phải đƣợc thể hiện rõ ràng, ghi nhận
chủ yếu trong Hiến pháp, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật THAPT, thể
hiện trực tiếp ở các quyền cụ thể của ngƣời chấp hành án kể từ khi họ bắt đầu
THAPT tới khi chấp hành án xong nhƣ quyền đƣợc quản lý, giam giữ đúng
pháp luật và bảo đảm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm trong quá
trình giam giữ cho tới khi đƣợc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, giảm thời
hạn chấp hành án phạt tù, miễn chấp hành án phạt tù và đƣợc đặc xá v.v. Ghi
nhận đầy đủ các quyền của PN chính là cơ sở quan trọng để QCN trong
THAHS đƣợc thực hiện trên thực tế.
1.1.3. Khái niệm đảm bảo quyền con người trong thi hành án hình sự
Đảm bảo các QCN, quyền công dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện
về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ
chức của công dân thực hiện đƣợc các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ
đã đƣợc pháp luật ghi nhận. Từ góc nhìn của khoa học luật học, trong điều kiện
xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nƣớc ta,
các đảm bảo pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là
cốt lõi, là sự thể chế hóa các đảm bảo chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành
các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nƣớc, các cơ quan nhà nƣớc và xã hội
phải thực hiện để đảm bảo các QCN, quyền công dân. Các đảm bảo pháp lý rất
đa dạng, phong phú, trƣớc hết là sự ghi nhận các QCN, quyền công dân, đến
việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ
máy chuyên trách đảm bảo các QCN, quyền công dân.

17


Các QCN, quyền công dân rất đa dạng, đƣợc đảm bảo, bảo vệ bằng cả hệ
thống pháp luật: Từ luật cơng đến luật tƣ; từ Luật Hiến pháp, Luật hành

chính, Luật hình sự… đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật hơn nhân gia
đình. Mỗi lĩnh vực pháp luật đảm bảo, bảo vệ QCN, quyền công dân bằng
những phƣơng thức, cách thức chun biệt riêng có của mình.
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định quan điểm “Nhà nƣớc tôn trọng và
đảm bảo các QCN, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do
của mỗi ngƣời” [18, tr.82]. Nhƣ vậy có thể thấy Nhà nƣớc tự nhận trách
nhiệm, nghĩa vụ phải tôn trọng các QCN; đảm bảo QCN. Nhằm đảm bảo
QCN, Hiến pháp 2013 của nƣớc ta đã ghi nhận hai nguyên tắc quan trọng: (i)
các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội phải đƣợc tơn trọng;
(ii) Nhà nƣớc có nghĩa vụ đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của công dân. Từ hai nguyên tắc này và để đảm bảo thực hiện trên thực tế,
Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế thực hiện nhƣ sau:
- Đảm bảo QCN thông qua hệ thống cơ quan quyền lực nhà nƣớc đảm
bảo thực hiện. Điều 6 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nƣớc bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và thông quacác cơ quan khác của Nhà nƣớc” [35].
Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất do nhân dân cả nƣớc bầu ra,
đảm bảo QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bằng các phƣơng thức
sau: xây dựng Hiến pháp và pháp luật, ghi nhận ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, thể chế hố các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể, nhất là các chủ thể
nắm giữ quyền lực nhà nƣớc; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của
đất nƣớc. Hội đồng nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phƣơng, thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nƣớc địa phƣơng. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp chính là

18



các thiết chế quan trọng trong việc đảm bảo các QCN cơ bản nói chung trên
tồn bộ lãnh thổ Việt Nam.
- QCN, quyền công dân đƣợc đảm bảo thực hiện bởi hệ thống cơ quan
hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp là chủ thể có trách nhiệm
đƣa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân trở
thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nƣớc trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; trong đó cơ quan cơng an (CQĐT) có vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế
- QCN, quyền cơng dân cịn đƣợc đảm bảo qua hệ thống cơ quan tƣ
pháp. Toà án và VKS là các cơ quan bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân
phẩm... của con ngƣời.
Trong số các chủ thể tham gia tố tụng thì vấn đề đảm bảo QCN trong
hoạt động THAHS, trong đó có đảm bảo QCN của phạm nhân, những ngƣời
bị kết án có tầm quan quan trọng đặc biệt. Bời lẽ ngƣời bị THAHS là một chủ
thể đặc biệt mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm phạm trong quá
trình tiến hành hoạt động THAHS, bị áp dụng biện pháp cƣỡng chế nghiêm
khắc nhất, bị tƣớc đoạt một số quyền công dân để phục vụ hoạt động THAHS
quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị những ngƣời tiến hành tố tụng vơ
hình hoặc cố ý xâm hại vị một lý do nào đó. Với vị trí tố tụng nhƣ vậy, chúng
ta cần nghiên cứu và tìm hiểu về khái niệm đảm bảo QCN nói chung, trong đó
Trong bất kỳ lĩnh vực pháp luật gì, việc đảm bảo QCN ln đƣợc đặt
ra, trong đó có việc đảm bảo QCN trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Bởi trong
TTHS nói chung và THAHS nói riêng, bảo vệ QCN trong THAHS xét đến
cùng không chỉ đơn thuần là bảo vệ QCN mà cịn hƣớng đến đảm bảo bảo
tính đúng đắn và tính hợp pháp của hoạt động THAHS đối với ngƣời bị kết
án. Bằng các quy định của pháp luật THAHS cũng nhƣ các văn bản khác có
liên quan, Nhà nƣớc quy định một cách đầy đủ các biện pháp, thiết chế khác

19



×