Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.71 KB, 105 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
.........  ........





BẾ HÙNG HẬU






NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN










Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
.........  ........





BẾ HÙNG HẬU






NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN




Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Hồng My





Thái Nguyên - 2010

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. ..1
0.2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... ..2
0.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ............................................................. ..9
0.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... .10
0.5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ .11
0.6. Đóng góp của luận văn ......................................................................... .11
0.7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... .11
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT, CÁC
NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT NGÔ TẤT TỐ ............................................................................. 12
1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật ...................................................... .12
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... .12
1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.... .12

1.1.2.1. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ .................................................. .12
1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trường sống .................................. .14
1.2. Các nhân tố cơ bản chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố. 16
1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ
XIX đến nửa đầu thế kỷ XX ........................................................................ .16
1.2.2. Hoàn cảnh sống và đặc điểm con người Ngô Tất Tố .......................... .19
CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ CÕN MANG
DẤU VẾT NGÔN NGỮ NHO GIA .......................................................... .28
2.1. Tổ chức sự kiện trong ngôn ngữ trần thuật theo trình tự thời gian ........ .28
2.2. Sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian ........................ .34

2.3. Cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng, đăng đối theo lối văn biền ngẫu ........... .35
2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ chuyên biệt của khoa cử, chủ yếu là từ Hán Việt .41
CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ ĐẬM ĐÀ
SẮC THÁI NGÔN NGỮ NÔNG THÔN BẮC BỘ VIỆT NAM ............. .48
3.1. Vận dụng khéo léo phương ngữ Bắc Bộ ............................................... .48
3.2. Vận dụng thành ngữ quen thuộc với người nông dân ............................ .53
3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc
nhà nông ..................................................................................................... .62
CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ GIÀU TÍNH
THỜI SỰ, VÀ TÍNH CHIẾN ĐẤU .......................................................... .68
4.1. Sử dụng bảng từ vựng gắn với những vấn đề thời sự ........................... .68
4.2. Vận dụng linh hoạt các phương thức biểu đạt để phơi bày hiện thực .... .73
4.2.1. Miêu tả chi tiết bức tranh đời sống .................................................... .73
4.2.2. Kết hợp miêu tả, nghị luận, biểu cảm để châm biếm kín đáo sâu cay ....... .78
4.3. Cấu trúc câu văn theo kiểu "vừa nâng vừa đập" ................................... .84
4.4. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại ...................... .87
KẾT LUẬN ................................................................................................ .89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... ..94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
PHẦN MỞ ĐẦU

0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống
văn học. Nó là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà văn xây dựng nên tác phẩm, là
"chìa khóa" để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là cơ sở để tìm hiểu, khám phá thế giới hình
tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật; từ đó, khẳng định
những thành tựu và đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc.
0.1.2. Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê
phán và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một một sự nghiệp
văn học phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự,
truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí...và ở thể loại nào
cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là tiếng
nói đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo, mà còn thể hiện tấm
lòng thương yêu đối với nhân dân lao động. Năm 1996, Nhà nước đã trao tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho di sản văn học của Ngô Tất Tố.
Trong gần một thế kỷ qua, kể từ tác phẩm đầu tiên là Cẩm hương đình
ra đời (1923), sự nghiệp văn học Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm,
yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo
công chúng. Kết quả là đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về ông.
Song, hầu hết những công trình đó mới chỉ đề cập những vấn đề như: tư
tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, hay phong cách sáng tác...của nhà văn.
Về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố mới được quan tâm nghiên cứu trên một
số phương diện, nhiều đặc điểm riêng biệt, độc đáo chưa được khảo sát, phân
tích khái quát làm rõ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài "Ngôn ngữ nghệ
thuật Ngô Tất Tố" để mở rộng, khơi sâu thêm một vấn đề đã được giới
nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm và đã tạo những bước đi ban đầu.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
0.2.1 Tình hình nghiên cứu chung về Ngô Tất Tố
Hành trình sáng tác của Ngô Tất Tố từ khi bắt đầu sự nghiệp văn chương
với việc dịch tác phẩm Cẩm hương đình (1923) đến tác phẩm cuối cùng là vở
chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (1951) kéo dài gần ba mươi năm. Song, thành
tựu của Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu trong giai đoạn 1930 - 1945. Những tác
phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Lều chõng, các phóng sự: Việc làng, Tập án cái
đình đều được viết ra trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1940.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, quá trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố được bắt
đầu từ bài viết của Vũ Trọng Phụng với nhan đề Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đăng trên
báo Thời vụ, số 100, ngày 31-1-1939. Vũ Trọng Phụng đã khẳng định giá trị nhiều
mặt của Tắt đèn. Ông than phiền một nước nông nghiệp như Việt Nam mà văn
chương viết về làng quê rất ít tác phẩm có giá trị: "Ta phải chán nản mà nhận thấy
rằng quả thật hãy còn vắng vẻ đìu hiu, chỉ mới thấy có quyển Tối tăm của Nhất
Linh, quyển Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan". Giữa lúc ấy thì Ngô Tất
Tố xuất hiện, Vũ Trọng Phụng đã chân thành giới thiệu Ngô Tất Tố với công chúng
độc giả: "Bạn tôi lại từ làng báo mới bước vào làng tiểu thuyết và Tắt đèn là áng
văn đầu tiên của bạn và cũng là áng văn mới mẻ nhất về loại văn chương xã hội
ngày nay nữa" [63; 200]. Vũ Trọng Phụng hết lời ngợi ca tác phẩm: "Tắt đèn là
cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên là hoàn toàn phụng sự dân quê,
một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy mà lại là của một tác giả
có cái may hơn nhiều nhà văn khác là được sống nhiều ở thôn quê nên có đủ
thẩm quyền" [63; 200].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
Trên Báo Mới số 4 ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước đã viết bài Một
nhà văn hóa của dân quê - Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn với nhận xét:
"Ngòi bút ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngòi bút của cái thế hệ sản sinh
những câu văn điền viên vui thú kia; hoặc có muốn thiên về dân quê một cách
tha thiết hơn, thì bất quá và đáng lẽ ngòi bút ấy chỉ viết những bài cải lương
hương chính mà mười lăm năm trước đây, chúng ta đã được đọc trên các báo.
Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi thế hệ mình. Người môn đồ Khổng Mạnh
này đã thở hút cái không khí xã hội của K.Mác như tất cả những thiếu niên
văn sỹ hàng tranh đấu để viết cho ta cuốn Tắt đèn" [94].
Ngoài ra, cũng trong thời gian đó bài báo của Phú Hương ngày
1/9/1939 có bài "Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố" đã đánh giá: "Đây là
một thành công vẻ vang hết sức" [65]. Phú Hương cho rằng cốt truyện tiểu
thuyết gần với sự thực xảy ra ở thôn quê xứ ta với sự quan sát tường tận kĩ
càng. Ông ca ngợi nhân vật và cách tả cảnh thể hiện một trình độ cao, có thể
đặt ngang hàng với các nhà văn Tự Lực văn đoàn.
Những bài báo trên đã tôn vinh Tắt đèn và gây ấn tượng mạnh với bạn
đọc. Ngô Tất Tố, một cây bút tiểu thuyết vừa từ làng báo chuyển sang lại tiếp tục
có những tác phẩm mới là Lều chõng và Việc làng. Những tác phẩm này đã góp
phần quan trọng tạo cho Ngô Tất Tố một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn.
Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đánh giá Ngô Tất Tố là
nhà văn chuyên sâu về đề tài nông thôn, am hiểu sâu sắc cuộc sống và phong
tục làng quê. Ông phân tích và khẳng định tác phẩm Việc làng: "Tập phóng
sự về dân quê này là một tập phóng sự rất đầy đủ về việc làng" [63; 324].
Sau Cách mạng tháng Tám, khi hòa bình lập lại, những tác phẩm văn
học có giá trị thời kỳ trước Cách mạng được lựa chọn và đưa vào giảng dạy ở
nhà trường. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong số tác phẩm đầu tiên của
dòng văn học hiện thực phê phán được đưa vào giảng dạy từ trường phổ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
đến đại học. Nhờ đó, tên tuổi Ngô Tất Tố được nhiều người biết đến hơn, và sự
nghiệp văn học của ông ngày càng thu hút giới phê bình, nghiên cứu.
Sau khi Ngô Tất Tố - "nhà văn của những luống cày" mất trên con
đường kháng chiến (1954), tiếp tục có nhiều bài nghiên cứu và giới thiệu về
ông như: Ngô Tất Tố của Nguyên Hồng (Tạp chí văn nghệ số 54, tháng 8,
năm 1954); Đọc lại Việc làng của Bùi Huy Phồn (Tạp chí văn nghệ số 8
tháng 1, năm 1958); Ngô Tất tố như tôi đã biết của Nguyễn Đức Bính (Tạp
chí văn nghệ số 61, tháng 6, năm 1962)...Trong những bài viết tưởng nhớ,
khắc họa chân dung nhà văn Ngô Tất Tố, có nhiều bài đánh giá cao tiểu
thuyết Tắt đèn như: Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố của Nguyễn Công Hoan,
Lời giới thiệu truyện Tắt đèn của Nguyễn Tuân, Tắt đèn cuốn tiểu thuyết
hiện thực xuất sắc của Hồng Chương, Tắt đèn và tiếng nói của Ngô Tất Tố
của Phong Lê, Giá trị nhận thức của Tắt đèn của Như Phong...Những bài
viết về chân dung Ngô Tất Tố và tiểu thuyết Tắt đèn càng khẳng định giá trị
sự nghiệp văn học của ông, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học
Việt Nam hiện đại. Đây là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và giới
thiệu Ngô Tất Tố. Cũng trong thời điểm này, cần ghi nhận thành tựu nghiên
cứu về Ngô Tất Tố của hai tác giả Phan Cự Đệ và Nguyễn Đức Đàn. Có thể
xem đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tập trung có hệ thống trên nhiều
bình diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố, công trình được Nhà xuất bản Văn
hóa ấn hành năm 1962, Nhà xuất bản Hội nhà văn in lại năm 1999 với nhan
đề Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Sau đó
nhà xuất bản Văn học in cuốn Tuyển tập Ngô Tất Tố và tiếp theo là Toàn tập
Ngô Tất Tố (1996) do giáo sư Phan Cự Đệ tuyển chọn và giới thiệu.
Nhìn chung, các công trình, bài viết về Ngô Tất Tố giai đoạn này đều
khẳng định vị trí quan trọng của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

đại; đều đánh giá ông là cây bút tài năng, là nhà văn hiện thực xuất sắc của
nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Một hoạt động khoa học đáng chú ý là cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100
năm ngày sinh của Ngô Tất Tố do Hội Nhà văn và Viện Văn học phối hợp tổ
chức với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận đã khẳng
định tầm vóc của Ngô Tất Tố - một nhà văn lớn, một nhà báo lớn. Nhà nghiên
cứu Phong Lê trong bài Ngô Tất Tố một chân dung lớn một sự nghiệp lớn
đã khẳng định: "Kỷ niệm 100 năm năm sinh Ngô Tất Tố chúng ta còn nhận ra
một di sản còn đồ sộ hơn ở ông, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, có ý
nghĩa là điểm tựa cho các giá trị văn chương, vượt ra khỏi đóng góp xuất sắc
của một nhà văn hiện thực...Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất
Tố tôi muốn trở lại tư cách nhà văn hóa như một tư thế bao trùm và là điểm
tựa cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp tư duy hình tượng, luôn đạt
trình độ cao sâu và các giá trị bền vững" [70].
Sang thời kỳ Đổi mới, có ý kiến đánh giá không đồng nhất với những ý
kiến trước đây về nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn đó là ý kiến của
Trần Đăng Khoa: "Ví như Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố. Tất nhiên trong cuốn
truyện vừa xuất sắc này của cụ Tố, có một chỗ rất tệ hại. Ai lại dành nhiều
công phu và tâm huyết như thế để viết về một bà mẹ đi bán con chuộc chồng
"[69; 107]. Ý kiến của Trần Đăng Khoa chưa thật thuyết phục các nhà nghiên
cứu, sau đó cũng không có ý kiến tranh luận nhiều về vấn đề này, và giá trị
của Tắt đèn cũng như cảm tình của độc giả dành cho tác phẩm vẫn không
thay đổi.
Song, nhìn chung, từ trước tới nay, các học giả đều khẳng định vị trí
quan trọng của Ngô Tất Tố trên văn đàn. Các bài báo như: Cây bút sắc bén
của một nhà Nho của Vũ Tú Nam; Ngô Tất Tố nhà văn hóa lỗi lạc của Hoài
Việt; Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay của Gs Phan Cự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

Đệ...càng khẳng định Ngô Tất Tố không phải chỉ là di sản của quá khứ mà
còn là của hiện tại, của tương lai. Tư tưởng nhất quán của Ngô Tất Tố trong
tác phẩm là vì dân, đấu tranh cho quyền độc lập của dân tộc, vì con người,
đấu tranh cho tình yêu thương của con người trong cuộc sống. Tư tưởng ấy
theo suốt cuộc đời sáng tác của nhà văn.
Đến năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục in cuốn Ngô Tất Tố về tác giả
và tác phẩm do hai nhà nghiên cứu Mai Hương, Tôn Phương Lan tuyển chọn
và giới thiệu. Đây là công trình tập hợp đầy đủ các bài viết bài nghiên cứu,
hồi ức, tưởng niệm của bàn bè, đồng nghiệp, người thân về Ngô Tất Tố.
Trong bài Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng, nhà nghiên cứu Mai Hương
khẳng định: "Một cây bút tiểu thuyết phóng sự xuất sắc, một nhà báo cự
phách, có biệt tài, một nhà khảo cứu, dịch thuật tâm huyết, và bao trùm là tư
cách một nhà văn hóa lớn".
Ngoài ra, tác giả Trần Thị Minh Thu trong luận văn "Ngô Tất Tố nhà
văn của phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945" cũng đã khẳng định: "Ngô Tất Tố chính là nhà văn phong tục tiêu biểu
ở giai đoạn 1930- 1945. Thành công ở mảng đề tài phong tục đã góp phần làm
cho tên tuổi Ngô Tất Tố thêm uy tín và vị trí vững chắc trong làng văn Việt
Nam" [92; 75].
Những năm gần đây, nhờ công lao của các nhà sưu tầm, trong đó có
ông Cao Đắc Điểm (người con rể của nhà văn), chúng ta lại biết thêm những
tác phẩm báo chí mới của Ngô Tất Tố. Năm 2003, thành phố Hà Nội đã quyết
định mở Đề tài khoa học về báo chí Ngô Tất Tố. Đề tài đã được in thành sách
Di sản báo chí của Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản
Văn học (2005).
Tóm lại, hơn bảy thập kỷ qua, kể từ bài viết của Vũ Trọng Phụng về
tiểu thuyết Tắt đèn (năm 1939) đến nay, đã có hàng trăm bài viết, hàng chục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

công trình nghiên cứu đi sâu khám phá các phương diện khác nhau trong thế
giới nghệ thuật của Ngô Tất Tố. So với những nhà văn cùng thời, thì những ý
kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và văn nghiệp của ông là khá ổn định, thống
nhất. Hầu hết những công trình nghiên cứu đều theo xu hướng khẳng định:
Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng
và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam
hiện đại.
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố
0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ
trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 2000.
Từ trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000, việc nghiên cứu về Ngô
Tất Tố tập trung chủ yếu vào những đóng góp của nhà văn trên phương diện
nội dung tư tưởng, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật, thi pháp.... Một
số tác giả khi nghiên cứu về Ngô Tất Tố mới đưa ra một số nhận xét có tính
khái quát, định hướng về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, chẳng hạn Vũ
Trọng Phụng nhận xét: "Cách hành văn mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như
chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học mới có thể linh lợi và phô diễn nổi một
cách linh hoạt như thế" [63; 201]. Nguyễn Đức Bính trong bài Ngô Tất Tố
như tôi đã biết có nhận xét cụ thể hơn: "Ngô Tất Tố có một lối viết văn mới,
độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ,
giọng văn khi đậm đà khi duyên dáng nhưng đặc biệt dí dỏm; câu văn sắc
cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị" [63; 77].
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, ý kiến đánh giá của Nguyễn Đức Bính về văn
Ngô Tất Tố "không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ" cần
được khảo sát cụ thể hơn.
Ngoài ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đàn cũng có nhận xét: "Ngô Tất
Tố có một giọng văn bút chiến linh hoạt, sắc sảo, có khi nhẹ nhàng tinh tế, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

khi mạnh mẽ đanh thép"[63; 50]. Giáo sư Phan Cự Đệ đã có một đánh giá khá
toàn diện về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm Tắt đèn: "Nghệ thuật của Tắt
đèn là thứ nghệ thuật đi vào chiều sâu, vào cái tinh túy, bản chất. Tắt đèn học
được ở văn dân gian, đặc bịêt là ở tục ngữ, phương ngôn, cái nghệ thuật cô
đúc, càng nén lại thì càng gây nên những vụ nổ lớn, càng có sức vang xa rộng
trong không gian. Chỉ trong vòng hơn một trăm trang mà sự kiện dồn dập, các
mâu thuẫn cọ xát đến nảy lửa"[63; 309].
Tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu về Ngô Tất Tố chúng tôi được biết, từ
trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000 đã có một số bài nghiên cứu, và ý
kiến đánh giá về một số phương diện của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố.
Các ý kiến đều nhận định: ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố vừa mang tính
dân tộc vừa rất hiện đại. Song, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về phương diện này.
0.2.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ năm
2000 đến nay.
Từ năm 2000 đến nay, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn
được giới nghiên cứu đi sâu khám phá và đã có nhiều Luận án, Luận văn,
Chuyên luận về lĩnh vực này được công bố như: Ngôn từ nghệ thuật Vũ
Trọng Phụng, Luận án Tiến sỹ của tác giả Nguyễn Phượng (2002); Lời văn
nghệ thuật Nguyên Hồng, Luận án Tiến sỹ của tác giả Lê Hồng My (2006);
Ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945, Luận án
Tiến sỹ của tác giả Lê Hải Anh (2006); Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
trong các sáng tác trước năm 1945, Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Thị
Quỳnh (2009)...Trong xu thế chung đó, ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố cũng
thu hút được sự quan tâm của các tác giả, trong đó đáng chú ý có công trình
chuyên sâu về vấn đề này, đó là: Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Ngô Tất Tố của tác giả Vũ Duy Thanh (năm 2006). Luận văn đã tập trung
nghiên cứu về cách thức tổ chức lời văn, các thành phần cơ bản, và các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
phƣơng tiện đặc trƣng của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ngô
Tất Tố. Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất
Tố luận văn chưa nghiên cứu.
Gần đây, xuất hiện nhiều hơn các chuyên luận, luận văn về Ngô Tất Tố,
tiêu biểu như: Thành ngữ trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Luận văn cử nhân
khoa học Ngữ văn, Tác giả Lê Thị Hoàn, ĐHSP TN; Thành ngữ trong văn
xuôi hiện thực phê phán Việt Nam qua một số sáng tác tiêu biểu của Ngô
Tất Tố và Nam Cao, Luận văn cử nhân khoa học Ngữ văn của tác giả Nguyễn
Thị Huệ, ĐHSP TN.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thấy rằng: từ trước tới nay các công trình,
chuyên luận, bài viết đề cập đến ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố đã thu được
những kết quả nhất định làm sáng rõ một số phương diện như:
- Cách thức tổ chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết
- Các thành phần cơ bản trong ngôn ngữ nghệ thuật
- Các phương tiện đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật
- Thành ngữ trong tiểu thuyết Tắt đèn
Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản trong ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất
Tố chưa được định danh, khảo sát, phân tích cụ thể. Vì vậy, chúng tôi nhận
thấy, ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn vẫn còn có những phương diện có thể
tiếp tục nghiên cứu để bổ sung cho những công trình đã có, góp phần khẳng
định những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Do đó, trên cơ sở kế thừa thành
tựu của những công trình trước đó, chúng tôi mở rộng, đi sâu nghiên cứu về
đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố để từ đó thấy được những đóng
góp của ông trong tiến trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học dân tộc.
0.3. ĐỐI TƢỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để phù hợp với mục đích nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát,
nghiên cứu những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật trong hai thể loại tiểu
thuyết và phóng sự của Ngô Tất Tố. Đó là các tác phẩm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
Tiểu thuyết: Tắt đèn - 1937
Lều chõng - 1939
Trong rừng nho - 1940
Phóng sự: Tập án cái đình - 1939
Việc làng - 1940
Những tác phẩm khác của Ngô Tất Tố không thuộc phạm vi nghiên cứu
của luận văn, song, có thể được sử dụng để so sánh, đối chiếu trong những
trường hợp cần thiết.
0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
0.4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả
Theo chúng tôi, muốn chiếm lĩnh được ngôn ngữ nghệ thuật, phải đặt
đối tượng trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Do đó, trong công trình này chúng tôi coi trọng phương pháp nghiên cứu tác
giả văn học.
0.4.2. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những đặc
điểm về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.
0.4.3. Phƣơng pháp thống kê phân loại
Để những phân tích có căn cứ khoa học khi cần thiết chúng tôi tiến
hành khảo sát, thống kê, phân loại.
0.4.4. Phƣơng pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh để thấy được nét tương đồng, khác biệt,
trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố với các nhà văn hiện
thực phê phán như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao...
0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học
khác như: Lí luận văn học, Lịch sử, Văn hóa, Ngôn ngữ...Do đó chúng tôi vận

dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
0.5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố, chúng tôi mong
muốn làm rõ thêm một phương diện nghệ thuật quan trọng tạo nên sức hấp
dẫn trong các sáng tác của nhà văn. Từ đó, ghi nhận những đóng góp quí giá
của ông đối với nền văn học nước nhà, đồng thời, cũng khẳng định một
hướng tiếp cận có hiệu quả trong nghiên cứu và thưởng thức văn học.
0.6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn góp phần làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ
nghệ thuật Ngô Tất Tố.
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp một tài liệu học tập, nghiên cứu hữu
ích cho việc tìm hiểu văn chương Ngô Tất Tố.
0.7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phần Nội dung
của luận văn gồm bốn chương:
Chương I: Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật, các nhân tố cơ bản
chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố
Chương II: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố còn mang dấu vết
ngôn ngữ Nho gia
Chương III: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố đậm đà sắc thái ngôn
ngữ của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam
Chương IV: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố giàu tính thời sự và
tính chiến đấu





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT NGÔ TẤT TỐ

1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật"
"Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm
văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm
mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp đặt, lựa chọn, tinh luyện
từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ" [10; 98].
Khái niệm Ngôn ngữ nghệ thuật với các khái niệm: Ngôn ngữ văn học,
Lời văn nghệ thuật có những điểm tương đồng.
"Lời văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ
thuật tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ
nghệ thuật của các tác phẩm văn học"[47; 130].
"Ngôn ngữ văn học là thuật ngữ dùng để chỉ một cách bao quát các hiện
tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước,
trên báo chí, đài phát thanh, trong văn hóa, văn học và khoa học" [47; 149].
Sự khác nhau giữa các khái niệm trên chỉ mang tính chất tương đối.
Chúng có những điểm giống nhau cơ bản, nên trong nhiều trường hợp thường
dùng thay thế cho nhau để chỉ dạng ngôn ngữ đã được cụ thể hóa trong các
tác phẩm văn học.
1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn
1.1.2.1.Cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ
Văn học là loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện xây

dựng hình tượng. Không có ngôn ngữ thì không có văn học (phi ngôn ngữ bất
thành văn). Trong tác phẩm văn học ngôn ngữ là phương tiện để cụ thể hóa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
vật chất hóa tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Qua ngôn ngữ nghệ thuật chúng
ta hiểu được sở trường, phong cách nhà văn.
Vậy, điều gì đã góp phần hình thành đặc điểm ngôn ngữ của các nhà
văn? Trước hết theo chúng tôi, cá tính sáng tạo là yếu tố đầu tiên góp phần
hình thành phong cách ngôn ngữ của mỗi nhà văn. Nhà văn bộc lộ cá tính rõ
nét nhất ở lĩnh vực của mình. Bởi vì, văn học làm giàu cho xã hội không phải
bằng số lượng của cải như sản xuất vật chất. Chân lí mà văn học đem lại cũng
không phải chỉ là chân lí khách quan như trong khoa học, mà còn xuyên thấm
những yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Sự thật có thể chỉ là một, nhưng
cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn muôn màu, muôn vẻ, làm phong
phú thêm đời sống tinh thần cho xã hội. Chẳng hạn, cùng nói về nỗi nhớ
nhưng Xuân Diệu lại có ngôn ngữ diễn đạt khác với Nguyễn Bính:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư )
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm.
(Tương tư chiều)
Nếu như ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính tế nhị, kín đáo, "quê mùa", mang
đậm chất dân gian với thể thơ lục bát, thì ngôn ngữ thơ Xuân Diệu lại hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
đại, với thể thơ theo "điệu nói" bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ. Mỗi cách diễn đạt đều
góp phần tạo chất men say hấp dẫn của thơ về tình yêu đôi lứa.
L.Tônxtôi nói: "Khi ta đọc hay quan sát một tác phẩm nghệ thuật của
một tác giả nào mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ
cũng là như sau: Nào, anh ta là con người thế nào nhỉ. Anh ta có khác gì với
tất cả những người mà tôi đã biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều
gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc sống chúng ta như thế nào" [52; 204].
Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng
điệu riêng, phong cách ngôn ngữ riêng thì đó là sự "tự sát" trong văn học -
một lĩnh vực không chấp nhận "những người thợ khéo tay làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho" mà "chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" (Nam Cao)
Vì thế, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ là yếu tố thứ nhất ảnh hưởng
đến đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.
1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trƣờng sống
Hoàn cảnh xã hội, thời đại là những yếu tố có tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống con người, từ khoa học đến nghệ thuật. Văn học cũng
không là một ngoại lệ, bởi văn học có tính xã hội rất cao. Một tác phẩm văn
học ra đời thường chịu sự chi phối của các yếu tố như: chính trị, kinh tế, xã
hội, lịch sử, văn hóa...Dấu ấn thời đại in đậm trong cả nội dung và hình thức
nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng minh,
phong trào Mặt trận dân chủ những năm 1936 - 1939, Cách mạng tháng Tám
1945, sự nghiệp Đổi mới đất nước... đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của
đời sống văn học. Hoàn cảnh xã hội chi phối nội dung và hình thức của văn
học mọi thời đại.
Sự tác động của hoàn cảnh xã hội đến hình thức của văn học thông qua
nhà văn. Nhà văn sống trong hoàn cảnh xã hội nào thì bị ảnh hưởng của xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
hội đó. Những yếu tố như thị hiếu, trào lưu tư tưởng, trình độ nhận thức, quan
niệm thẩm mỹ... của con người trong xã hội sẽ tác động trực tiếp đến hình
thức nghệ thuật của tác phẩm văn học, trong đó, sự tác động đến ngôn ngữ
nghệ thuật là rất sâu sắc. Chính vì thế, dựa vào ngôn ngữ nghệ thuật của một
tác phẩm ta có thể suy ra hoàn cảnh xã hội, thời đại đã sản sinh ra tác phẩm
đó. Chẳng hạn: Một tác phẩm ngôn ngữ nặng tính quy phạm, ước lệ, sử dụng
nhiều từ Hán Việt, và điển tích, điển cố thì đó thường là tác phẩm được viết ở
thời kỳ trung đại. Trái lại, một tác phẩm mà ngôn ngữ không bị ràng buộc bởi
tính qui phạm, tính ước lệ thì thường là tác phẩm của thời kỳ hiện đại.
Ngoài hoàn cảnh xã hội, thời đại nhà văn còn chịu sự tác động của hoàn
cảnh gia đình. Điều này đã được các nhà nghiên cứu khẳng định: "Nếu hoàn
cảnh lớn tác động đến chiều hướng và và tầm cỡ chung của tư tưởng nghệ
thuật nhà văn thì hoàn cảnh nhỏ đem đến cho tư tưởng ấy nội dung và hình
hài cụ thể" [75].
Môi trường sống chính là nơi nuôi dưỡng để làm giàu có vốn ngôn ngữ
của mỗi con người, trong đó có nhà văn. Nhà văn sống ở môi trường nào thì
ngôn ngữ sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường đó. Sở dĩ Nguyên Hồng diễn tả
được ngôn ngữ của tầng lớp người bình dân như: công nhân, phu xe, đĩ điếm,
tướng cướp; sử dụng thành công tiếng lóng, từ ngữ gắn với công việc cực
nhọc...là vì trong cuộc đời có lúc ông đã "nhập hẳn vào cuộc sống của những
hạng người cùng khổ" [79; 71]. Vũ Trọng Phụng miêu tả tầng lớp thị dân
bằng ngôn ngữ chân thật, phong phú, sâu sắc đến thế, là vì ông có cuộc đời
gắn bó với thành thị, chứng kiến hết thảy mọi xấu xa của cái xã hội "chó đểu".
Những yếu tố trên kết hợp, tác động, chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của
nhà văn. Ngoài ra, những nhân tố khác như: sự lựa chọn thể loại, sở trường,
năng lực cũng chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
1.2. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ
1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế
kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX
Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước
ta. Sau gần nửa thế kỷ bình định về quân sự, đến khoảng đầu thế kỷ XX,
chúng mới thực sự khai thác thuộc địa về kinh tế. Sau hai cuộc khai thác
thuộc địa (lần thứ nhất từ năm 1897 đến năm 1914, lần thứ hai từ năm 1919
đến năm 1929), cơ cấu xã hội Việt Nam có những thay đổi sâu sắc. Một số
thành phố công nghiệp ra đời, đô thị, thị trấn mọc lên ở nhiều nơi. Những giai
cấp, tầng lớp xã hội mới: tư sản, tiểu tư sản (viên chức, học sinh, những người
buôn bán nhỏ...) công nhân, dân nghèo thành thị,...xuất hiện ngày càng đông
đảo. Một lớp công chúng có đời sống tinh thần và thị hiếu mới đã hình thành.
Từ đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng
của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa
phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng
lớp trí thức Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn người cầm bút
cũng như người đọc sách. Chữ quốc ngữ đã dần dần thay thế chữ Hán, chữ
Nôm trong nhiều lĩnh vực, từ hành chính công vụ tới văn chương nghệ thuật.
Chữ quốc ngữ được phổ biến khá rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công
chúng tiếp xúc với sách báo. Nhu cầu văn hóa của lớp công chúng mới đã làm
nảy sinh những hoạt động kinh doanh văn hóa, làm cho nghề in, nghề xuất
bản, nghề báo theo kỹ thuật hiện đại phát triển khá mạnh. Viết văn bằng chữ
quốc ngữ cũng trở thành một nghề kiếm sống. Sự phát triển chữ quốc ngữ là
một tiền đề quan trọng cho sự phát triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu,
học hỏi với phương Tây đem lại một luồng không khí mới cho văn chương,
học thuật. Sự thay đổi của đô thị cũng đem đến một sự thay đổi rõ rệt trên báo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
chí, sinh hoạt văn học cũng như công chúng. Đây cũng là giai đoạn sôi động
trong lịch sử văn học Việt Nam với những cách tân về thể loại, ngôn ngữ, và
quan niệm văn chương. Từ những tác phẩm văn học còn in đậm dấu ấn của
phong cách cổ, tính qui phạm và ước lệ trong phương thức biểu hiện, văn
chương đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại với sự đóng góp đông đảo của
các nhà văn, nhà thơ ở nhiều khuynh hướng khác nhau.
Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936 có ý nghĩa lịch sử mở đầu cho
cả một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Đảng chủ trương vận
dụng một sách lược mềm dẻo, tranh thủ rộng rãi tất cả tầng lớp nhân dân để
chống bọn phản động thuộc địa và lợi dụng khả năng hợp pháp để tuyên
truyền, giáo dục và phát động quần chúng đấu tranh.
Do chủ trương đúng đắn của Đảng, phong trào đấu tranh bắt đầu lên
mạnh. Mở đầu là phong trào Đông Dương đại hội diễn ra vào mùa thu năm
1936. Một mặt Đảng kêu gọi các đảng phái các tổ chức chính trị, các giai cấp
liên hiệp hành động, một mặt Đảng phát động quần chúng nhân dân tổ chức
mít tinh, hội họp đệ đơn thỉnh nguyện yêu cầu mở rộng dân chủ.
Tháng 3 năm 1937, Đảng cộng sản Đông Dương quyết định thành lập
Mặt trận dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khắp nơi nổi lên các cuộc đấu
tranh rầm rộ, hình thức đấu tranh cũng rất phong phú. Những cuộc đấu tranh
ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học và báo chí. Lúc bấy giờ những cơ
quan ngôn luận công khai của Đảng xuất hiện. Ngoài Bắc có Le TravaiL (Lao
động), Tin tức, Đời nay, Thời thế, Bạn dân...Ở Trung có: Nhành lúa, Dân.
Trong Nam có Nhân Dân, Mới, Dân chúng...Trong số những tờ báo phát hành
ở Bắc kỳ có tờ Tương lai mà Ngô Tất Tố tham gia và là một trong những tờ
báo có xu hướng tiến bộ.
Thời kỳ 1936 - 1939 là thời kỳ nổ ra các cuộc tranh luận lớn trên các
lĩnh vực như chính trị, văn học, nghệ thuật. Cuộc tranh luận sôi nổi nhất trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
các báo là cuộc tranh luận giữa hai phái "nghệ thuật vị nghệ thuật" và "nghệ
thuật vị nhân sinh". Cuộc tranh luận đã mang lại thắng lợi cho quan điểm
nghệ thuật vị nhân sinh, nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Liên Xô
được giới thiệu rộng rãi. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Đảng rất chú trọng
vấn đề nông dân. Năm 1936 tác phẩm Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân
Đình ra đời đánh dấu một sự "chuyển mình" về đề tài sáng tác. Tác phẩm đã
có ảnh hưởng nhất định đến các nhà văn đương thời, trong đó có Ngô Tất Tố.
Ngoài ra, báo chí của Đảng và các báo tiến bộ khác cũng rất chú ý tới vấn đề
nông dân, nhất là vấn đề sưu thuế và nạn cường hào tham nhũng.
Lúc bấy giờ, vấn đề thuế thân là một vấn đề thời sự xôn xao trên các
báo. Ngày nào cũng thấy các báo đăng tin những người vì không tiền nạp thuế
mà phải đi gông cùm, đánh đập, phải bỏ nhà đi trốn, phải tự tử hay bán vợ đợ
con. Trên các báo của Đảng số nào cũng thấy đăng những bản thỉnh cầu của
nông dân về vấn đề sưu thuế.
Riêng tỉnh Bắc Ninh quê hương Ngô Tất Tố, năm 1937 là năm đói kém
nhất, chỉ riêng sáu huyện của tỉnh Bắc Ninh đã có tới 146.634 nông dân thất
nghiệp. Nạn đói, nạn sưu thuế trở thành một tai họa khủng khiếp đối với dân
chúng. Và đó chính là những vấn đề mà Ngô Tất Tố đã suy nghĩ trong thời kỳ
thai nghén Tắt đèn.
Ngoài ra, phong trào công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là
phong trào nông dân chống sưu thuế đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến Ngô Tất
Tố. Hầu hết, các cuộc biểu tình của nông dân đều nêu khẩu hiệu đòi bỏ hoặc
giảm sưu thuế, đòi lại công điền, chống nạn cướp đất của địa chủ...
Tất cả những sự kiện trên, nhất là phong trào của quần chúng nông dân
đã có có ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến các nhà văn hiện thực
như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng...Riêng Ngô Tất Tố do
hoàn cảnh sống ông có điều kiện hiểu kỹ về người nông dân hơn; đặc biệt là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
phong tục, tập quán, nếp cảm, nếp nghĩ và ngôn ngữ của họ. Chính điều này
có ảnh hưởng quan trọng đến đặc điểm sáng tác của ông, trong đó có phương
diện ngôn ngữ nghệ thuật.
1.2.2. Hoàn cảnh sống và đặc điểm con ngƣời Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố sinh năm 1893 trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng
Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện
Đông Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc nơi đây tồn tại nhiều hủ tục nặng
nề. Chính ở làng Lộc Hà, quê hương nhà văn người ta đã tranh giành nhau để
chiếm một phần cỗ, "một góc chiếu giữa đình". Gia đình Ngô Tất Tố là một
gia đình nông dân thiếu ruộng, quanh năm phải lĩnh ruộng làng để canh tác.
Nợ nần chồng chất năm này qua năm khác, có năm tết đến Ngô Tất Tố phải
bỏ nhà lên Hà Nội để tránh mặt chủ nợ. Thuở nhỏ, Ngô Tất Tố đã có dịp tìm
hiểu rất nhiều làng ở Từ Sơn, theo cha học ở các trường hàng tổng như Lang
Tài, Thuận Thành. Lớn lên ông từng đi dạy học ở Đông Trù, Gia Thượng. Sau
này tuy viết báo, viết văn ở Hà Nội nhưng ông thường xuyên trở về quê. Hoàn
cảnh nói trên đã giúp Ngô Tất Tố thấy rõ sự bóc lột đè nén của kẻ thù đối với
người nông dân, cũng như những hủ tục sau lũy tre làng.
Suốt cả mấy chục năm làm nghề viết sách, báo, nhà văn thường xuyên
phải đi vay nợ. Chúng ta đã rõ cuộc sống cơ cực của những người cầm bút
dưới chế độ thực dân phong kiến ngày trước như thế nào, nhất là đối với
những người có phẩm chất trong sạch, không chịu uốn cong ngòi bút của
mình để phục vụ các thế lực thống trị đen tối thì lại càng bị bạc đãi, đầy đọa.
Ngô Tất Tố thuộc nhóm nhà văn này, chính cuộc sống nghèo khổ ấy đã giúp
nhà văn dễ thông cảm với các tầng lớp quần chúng bị áp bức, cũng như giúp
nhà văn có nhiều điều kiện thuận lợi để trông thấy mặt trái của xã hội mà
những người sống no đủ không thể thấy được. Ông lại sinh trưởng ở nông
thôn, nên không xa lạ gì những thủ đoạn áp bức, bóc lột của giai cấp địa chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
phong kiến. Có lẽ trong số các nhà văn Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất
Tố là người hiểu biết sâu sắc nhất về cuộc sống và con người ở nông thôn. Lại
là một nhà nho nên ông rất thông thạo cách tổ chức, phong tục, tập quán... ở
làng xóm.
Ngô Tất Tố là người thẳng thắn. Trong làng, ông ít khi tham gia hội
họp chè chén. Theo ông Ngô Thạch Đính (em ruột nhà văn) kể lại, có một
lần Ngô Tất Tố đã đánh một người em họ làm chánh hội ngay giữa đình vì
người này đã hạnh họe một người dân nghèo làm thịt lợn không nộp tiền
gia sinh. Một lần khác, Ngô Tât Tố đã mắng một tên lý trưởng vì hắn có
thái độ hống hách với dân làng trong một đám giỗ. Đặc biệt, Ngô Tất Tố
dám công nhiên chống lại những hủ tục thối nát. Theo lệ làng, những người
từ bốn mốt, bốn hai trở lên phải thịt một lợn sáu mươi cân, một cỗ xôi làm
lễ tế ở đình. Đến lượt mình Ngô Tất Tố lấy cớ gia đình nghèo, không chịu
làm, nhưng thực ra đây là một cách để ông phản đối hủ tục. Mấy năm sau
những người tiếp theo cũng không làm, thế là tục "gánh tế đám" của làng
ông phải bỏ. Khi lên lão năm mươi, Ngô Tất Tố không nhận ruộng làng
cũng như không chịu mời làng xôi gà theo tục lệ. Bọn chức dịch trong làng
rất ghét ông nhưng không làm gì được.
Song, Ngô Tất Tố lại là người cảm thông sâu sắc với người nông dân.
Gần đây, khi thực hiện đề tài này, trở lại Lộc Hà, chúng tôi lại được nghe ông
Ngô Hoành Trù - người con thứ sáu của nhà văn kể lại: có một lần nhà văn
của chúng ta đi cắt tóc trở về thấy người làng ăn trộm rau nhà mình, Ngô Tất
Tố không hề trách mắng mà chỉ đến gần nói: "Thế anh đang hái rau nhà ai
đấy, hình như anh hái nhầm rau nhà tôi rồi". Một lần khác, có người ăn trộm
cá, đêm hôm người nhà phát hiện, cái vó vẫn còn trong ao. Khi nghe thấy vợ
bảo các con rằng: "Hãy đem cái vó đó mà đốt đi", Ngô Tất Tố đã ngăn các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21
con lại và nói rằng: "Không nên làm như thế, họ nghèo đói mới phải đi ăn
trộm, cái vó đó cũng là tài sản của họ".
Qua những câu chuyện trên, có thể thấy rằng nhà văn của chúng ta là
người rất hiểu và cảm thông với những người nông dân lao động nghèo khổ.
Đồng cảm với người nông dân, Ngô Tất Tố đã thấy được tất cả những nỗi
nhọc nhằn, phiền phức của họ sau lũy tre làng. Mồ hôi của họ đổ trên đường
cày lầy lội, đổ cả ở chốn đình trung. Thói tục nơi góc điếm sân đình đã hành
hạ họ, đổ dồn tất cả nỗi thống khổ lên đầu họ. Những con người "thấp cổ bé
họng" phải chịu đựng những luật lệ, những hủ tục vô lý được ngụy trang sau
bức màn tôn giáo. Vì có lòng cảm thương sâu sắc như vậy, nên những trang
viết về người nông dân của ông bao giờ cũng chân thực và cảm động, có khả
năng lay động trái tim người đọc.
Ngô Tất Tố là người có lòng yêu nước thiết tha, ông đã từng chứng
kiến và chịu ảnh hưởng sâu sắc những phong trào ái quốc thời kỳ Đề Thám,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Lòng yêu nước của ông gắn liền với tình
yêu thương nhân dân, nhất là những người dân lao động nghèo khổ, cần cù,
và tốt bụng, rất gần gũi với cuộc sống của ông. Trong thời kỳ Mặt trận Dân
chủ, Ngô Tất Tố đã tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng, kiên quyết đứng trên
lập trường dân chủ, tố cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và tha
thiết đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động.
Suốt cuộc đời làm văn, làm báo, nói chung, không khi nào ngòi bút
Ngô Tất Tố viết mà không vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Ta hiểu vì sao
sau này ông đã tận tụy phục vụ Cách mạng đến hơi thở cuối cùng.
Cuộc sống gần gũi với nông dân và hoàn cảnh xã hội đang có những
đổi thay to lớn về tư tưởng, về văn chương học thuật là điều kiện thuận lợi
giúp Ngô Tất Tố kế thừa được vốn ngôn ngữ dân gian phong phú và tiếp thu
được những tinh hoa của ngôn ngữ thời đại.

×