Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Câu hỏi Phân tích đặc thù của vùng dân tộc học của tây nam bộ, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với lực lượng CAND

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.43 KB, 6 trang )

Câu hỏi
Phân tích đặc thù của vùng dân tộc học của Tây Nam Bộ, ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này đối với lực lượng CAND.
Bài làm
Khái quát vùng đất Tây Nam Bộ, những đặc thù của vùng dân tộc học
Tây Nam Bộ
Tây Nam Bộ còn gọi là Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 13 tỉnh,
thành phố là Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà
Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang và
Cà Mau. Phía Tây Bắc giáp Campuchia. Phía Đơng Bắc tiếp giáp Vùng Đơng
Nam Bộ. Phía Đơng giáp biển Đơng. Phía Nam giáp Thái Bình Dương. Phía
Tây giáp vịnh Thái Lan. Dân cư sinh sống ở vùng Tây Nam Bộ bao gồm
nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có 4 dân tộc chính là: Kinh (Việt), Hoa,
Chăm và Khmer. Người Kinh chiếm đại đa số, sống ở hầu hết các nơi trong
vùng. Người Hoa tập trung nhiều ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng.
Người Chăm sống chủ yếu ở An Giang. Người Khmer có mặt đơng đúc ở các
tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang. Các tộc người vùng Tây nam bộ sống
đoàn kết, cư trú đan xen nhau, tính tình rộng rãi, cởi mởi và hiếu khách, ngoài
những nét chung của các tộc người sinh sống tại vùng Tây Nam Bộ thì vẫn có
những nét đặc sắc riêng của các tộc người, cụ thể:
Phân tích đặc thù của vùng dân tộc học Tây nam bộ
Về dân tộc Khơmer, đây là tộc người đến định cư sớm nhất ở vùng
châu thổ sông Cửu Long. Họ vốn là những người nông dân Khmer nghèo khổ
đến đây làm ăn sinh sống để tránh sự áp bức, bóc lột của chế độ Ăng Co.
Nhưng về sau, do nội chiến và sự giết chóc của quân Xiêm, những người di
cư Khmer đến vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long ngày càng đông hơn.
Từ lâu, chùa Khmer là điểm sinh hoạt văn hoá – xã hội của đồng bào.
Trong mỗi chùa có nhiều sư (gọi là các ơng lục), do sư cả đứng đầu. Thanh


niên Khmer trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức


hạnh và kiến thức. Người Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, tạo nên bản
sắc dân tộc của mình trên một nền tảng văn hố chung, một lịch sử chung của
tất cả các dân tộc cùng nhau bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Đồng bào
Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Trong
q trình sinh sống, người Khmer có mối quan hệ giao lưu văn hóa với các
dân tộc khác nhưng người Khmer luôn giữ được bản sắc dân tộc đặc trưng
của dân tộc mình. Người Khmer có tính cộng đồng và giản dị trong văn hóa
truyền thể hiện trong sinh hoạt tín ngưỡng, tính cộng đồng cịn thể hiện ở tinh
thần đồn kết dân tộc trong đời sống văn hóa. Bên cạnh đó, tính nhân văn sâu
sắc trong văn hóa truyền thống của dân tộc Khmer được thể hiện rõ nét qua
các lễ hội, các giáo lý nhớ ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ và cả những nghi lễ vòng
đời của cá nhân từ khi sinh ra đến lúc chết đi bao hàm giá trị đạo đức, thẩm
mỹ. Mặt khác, tính dung hịa và giàu yếu tố tâm linh trong văn hóa truyền
thống của dân tộc Khmer, điều này dẫn đến việc người Khmer đã tiếp thu văn
hóa của dân tộc người Việt, Hoa, Chăm và các dân tộc khác. Ngồi ra, tính tự
trị trong Văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Khmer ở các phum sóc
vì tính cộng đồng tạo nên những tập thể khép kín mang tính tự trị xây dựng
mơi trường tốt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể nói, bản sắc văn
hóa người Khmer cho ta thấy sức mạnh của văn hóa truyền thống tạo nên nét
đặc sắc riêng của dân tộc Khmer
Đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều phong tục, tập quán và có nền văn
hố nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn thường có đội trống, kèn, đàn, đội
ghe Ngo… Hàng năm người Khmer có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc, ngày
lễ lớn như: Chôn chơ nam thơ mây (Lễ năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn ta (xá
tội vong nhân), Oóc bom boóc (lễ cúng trăng).
Người Khmer biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Họ thường cư trú ở
những vùng có điều kiện địa lý - tự nhiên khó khăn, hoạt động kinh tế chủ yếu


là sản xuất nơng nghiệp, trong đó nghề trồng lúa chiếm đa số dân cư lao động

(87%). Trong những năm gần đây, công cuộc đổi mới và nền kinh tế thị
trường đã có những tác động tích cực đến đời sống của đồng bào Khmer, số
hộ đủ ăn đến dư dả tăng lên rõ rệt (74,83%). Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ
phận dân cư cuộc sống cịn khó khăn (gần 25%).
Phật giáo Nam tông chi phối cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ khá
sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hố, xã hội,
giáo dục, đạo đức lối sống và chính trị. Đây là một đặc điểm riêng khá đặc
biệt đối với dân tộc Khmer đó là dân tộc và tơn giáo có nhiều nét tương đồng.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử để lại mà trong đồng bào Khmer Nam
Bộ (kể cả trong một số không nhỏ cán bộ ở cơ sở) vẫn chưa có nhận thức rõ
ràng, đúng đắn về quốc gia dân tộc. Đây là rào cản vơ hình nhưng có sức
mạnh tác động, chi phối khơng nhỏ đến vấn đề đoàn kết dân tộc trong cộng
đồng người Khmer ở Tây Nam Bộ. Từ đó cảm nhận về sự mất mát do những
thay đổi quan hệ tộc người trong lịch sử vẫn còn ảnh hưởng trong một bộ
phận đồng bào Khmer. Chủ nghĩa thực dân trước đây và các thế lực thù địch
hiện nay luôn lợi dụng vấn đề lịch sử, vấn đề lãnh thổ để kích động hận thù,
chia rẽ dân tộc. Thêm vào đó, tình hình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc Khmer Tây Nam Bộ vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém … tất cả những điều
đó tạo ra sự mặc cảm, thiếu lòng tin của một bộ phận đồng bào Khmer đối với
chính sách dân tộc của Đảng, hơn nữa, cịn là một nguy cơ tiềm ẩn đe doạ đến
sự ổn định chính trị - xã hội ở Tây Nam Bộ.
Về dân tộc chăm, ở vùng Tây Nam Bộ tập trung cư trú ở một số huyện
đầu nguồn sông Hậu thuộc tỉnh An Giang như Châu Phú, Tân Châu, TX Châu
Đốc... Dân số người Chăm ở Đồng bằng sơng Cửu Long có khoảng 12.500
người. Người Chăm ở Đồng bằng sông Cửu Long vốn thuộc nhóm của người
Chăm ở Trung Bộ Việt Nam di chuyển sang Campuchia vào khoảng thế kỷ
thứ XV-XVI (Hiện nay vẫn còn một bộ phận đang sinh sống ở Công pông


Chăm Campuchia). Đến khoảng đầu thế kỷ XVIII, một số người Chăm này từ

Campuchia theo sông Hậu và định cư ở tỉnh Châu Đốc trước đây (nay thuộc
tỉnh An Giang).
Hoạt động kinh tế của người Chăm ở Đồng bằng sông Cửu Long khá
đa dạng, một số ít là đánh cá, chài lưới trên sông Hậu và các sông nhánh. Một
số người Chăm dệt thủ công các loại vải và buôn bán dạo hàng vải các loại.
Một số ít người Chăm khác lại sản xuất nông nghiệp gieo trồng lúa nước, các
loại hoa màu, cây ăn trái.
Người Chăm ở Đồng bằng sơng Cửu Long vẫn giữ hình thức cư trú
kiểu các paiây Chăm (làng Chăm) giống như ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Đó
là các cụm dân cư bố trí dọc sơng Hậu và các chi lưu. Ở đây, người Chăm
sinh sống trên những ngơi nhà sàn có sàn khá cao, tránh được nước ngập mùa
lũ. Hồi giáo là tôn giáo duy nhất và hầu hết của người chăm ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Các nghi lễ và giáo lý Hối giáo ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều mặt cuộc sống của họ, đặc biệt trong việc quản lý các palây.
Vai trò người đàn ông Chăm ở An Giang được đề cao hơn so với đàn
ông Chăm Trung Bộ. Mỗi palây Chăm An Giang thường có một thánh đường
và nhiều nhà nguyện nhỏ. Đàn ông Chăm An Giang tuân thủ nghiêm ngặt các
qui định, nghi lễ theo kinh Koran và giáo luật Hồi giáo. Các vị chức sắc Hồi
giáo, thường tham dự công việc quản lý và điều hành các palây Chăm.
Về đồng bào dân tộc Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long có gần 200.000
người, chiếm khoảng 1,24% dân số tồn vùng Tây Nam Bộ và chiếm khoảng
23,2% dân số Hoa toàn quốc. Họ sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Bạc
Liêu, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau…
Trong khu vực Tây Nam Bộ, ngược lại với dân tộc Khmer sống tương
đối cách biệt với dân tộc khác, người Hoa sống rất hoà đồng với các dân tộc
khác nhằm mục đích làm ăn, mua bán. Người Hoa rất có ý thức và năng lực
kinh doanh, thương mại, chịu khó, chí thú, có bí quyết làm ăn, ít quan tâm đến


chính trị. Họ ít tham gia các hoạt động của cộng đồng chung, song tính cộng

đồng trong nội bộ người Hoa lại rất cao. Các hội tương trợ của các dòng họ
người Hoa liên kết lại thành các tổ chức chặt chẽ, có quy mơ lớn và hoạt động
rất hiệu quả.
Về tơn giáo, ngồi tín ngưỡng thờ các vị thần khác nhau, người Hoa
còn theo đạo Phật. Bên cạnh những nét đặc sắc trong phong tục tập quán, thể
hiện qua thờ tự, qua nghi thức hành lễ, tín đồ người Hoa cũng lập Hội Phật
học lấy tên là Minh nguyệt cư sĩ Lâm Phật học hội. Tổ chức này có mặt tại
nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Cần Thơ, Đồng Tháp… Đây là hình thức tương trợ trong cộng đồng người
Hoa, giúp cầu cúng, viếng thăm những gia đình Hoa có tang lễ hay gặp khó
khăn trong cuộc sống.
Các hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa tại nhiều tỉnh ở
đồng bằng sơng Cửu Long đã góp phần thúc đẩy giao lưu văn hoá mạnh mẽ
với các nước Châu á trong khu vực qua việc đưa về Việt Nam nhiều tượng
Phật từ các nước, các văn hố phẩm, pháp khí, kinh tạng từ Trung Quốc,
Myanma…
Ý nghĩa nghiên cứu đặc thù của vùng dân tộc học Tây nam bộ trong ll
CAND
Như vậy, sự đa dạng về tộc người ở vùng đất Tây Nam Bộ đã làm nên
sự phong phú và những nét đặc thù cho nền văn hố Việt Nam nói chung và
văn hố Tây Nam Bộ nói riêng. Tuy nhiên, cũng chính sự phong phú, đa dạng
và đặc thù ấy đã đặt ra khơng ít vấn đề phức tạp về chính trị-xã hội nói chung
và đặc biệt là những vấn đề dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ. Do đó việc nghiên
cứu đặc thù của vùng dân tộc Tây Nam Bộ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trong cuộc đấu tranh của lực lượng CAND với các đối tượng lợi dụng vấn đề
dân tộc xâm phạm an ninh quốc gia thì việc nắm các đặc thù của vùng dân tộc
Tây Nam Bộ là đòi hỏi bắt buộc.


Khi nắm được đặc thù của vùng dân tộc Tây Nam Bộ lực lượng công

an sẻ tham mưu, đề xuất Đảng và Nhà nước chủ chương chính sách mới vùng
dân tộc thiểu số tại Tây Nam Bộ, đặc biệt là trong cơng tác phịng ngừa, đấu
tranh chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số vùng Tây Nam Bộ
để kích động gây mất an ninh chính trị trong khu vực.
Khi hiểu được những đặc thù của vùng dân tộc Tây Nam Bộ lực lượng
cơng an sẻ có cách tiếp cận phù hợp, tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc
thiểu số trong khu vực có hiệu quả. đồng bào các dân tộc chính là lực lượng
hỗ trợ đắc lực và bảo đảm cho lực lượng công an hoàn thành nhiệm vụ. Đồng
bào các dân tộc tại những vùng biên giới chính là tai mắt giúp các đồng chí
An ninh để phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu chống phá
của kẻ địch, với các loại tội phạm xuyên quốc gia và các loại tệ nạn xã hội.
Đây chính là nguồn lực lượng to lớn nhân sức mạnh của lực lượng công an
lên gấp nhiều lần, làm cho lực lượng An ninh có hàng triệu tai, hàng triệu mắt,
hàng triệu tay chân. đây chính là nguồn cơ sở và quan hệ có ích phục vụ cơng
tác đấu tranh lâu dài trên “mặt trận” đồn kết dân tộc. Xây dựng thành cơng
trận tuyến lịng dân, hình thành thế trận an ninh nhân dân vững chắc là yếu tố
quan trọng bảo đảm giữ vững an ninh biên giới, bảo đảm chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ. chủ động xây dựng thế trận phòng ngừa đấu tranh có hiệu quả
với các đối tượng lợi dụng vấn đề dân tộc xâm phạm an ninh quốc gia.



×