Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tiếp cận văn thơ chữ Hán trong chương trình trung học từ góc độ từ vựng, ngữ pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.57 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

TẠP CHÍ KHOA HỌC

HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION

JOURNAL OF SCIENCE

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES
ISSN:
1859-3100 Tập 14, Số 5 (2017): 30-38
Vol. 14, No. 5 (2017): 30-38
Email: ; Website:

TIẾP CẬN VĂN BẢN THƠ CHỮ HÁN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC
TỪ GĨC ĐỘ TỪ VỰNG, NGỮ PHÁP
Huỳnh Văn Minh*, Nguyễn Thành Trung
Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh
Ngày Tịa soạn nhận được bài: 16-01-2017; ngày phản biện đánh giá: 20-02-2017; ngày chấp nhận đăng: 25-5-2017

TÓM TẮT
Bài viết này hướng đến làm rõ vài vấn đề biên dịch và bình giảng tác phẩm thơ chữ Hán
trong trường trung học đã và đang gây băn khoăn cho cả người dạy lẫn người học. Trên cơ sở
những nguyên tắc dịch thuật và bình giảng, thực trạng tiếp cận thơ chữ Hán ở trường trung học
được đưa ra bàn bạc nhằm nhận dạng một số khuynh hướng cơ bản hiện nay với ưu và khuyết điểm
vốn có. Kế thừa các khuynh hướng trên, cách tiếp cận tác phẩm thơ chữ Hán từ phương diện từ
vựng, ngữ pháp được đề xuất như một hướng đi tuy không mới mẻ nhưng cần được tiếp tục khuyến
khích.
Từ khóa: biên dịch, bình giảng, thơ chữ Hán, trường trung học.


ABSTRACT
Approaching Chinese poetry in the curricula of secondary and high schools
from a lexical and grammatical perspective
The article aims at clarifying some issues of translating and lecturing Chinese poetic works
in secondary and high schools which have been confusing both teachers and learners. Based on
principles of translation and lecture, the reality of approaching Chinese poetry is discussed in
order to identify some current basic tendencies with existing advantages and disadvantages.
Inheriting the above tendencies, approaching Chinese poetry from a lexical and grammatical
perspective has been suggested as already introduced approach that needs more encouraging.
Từ khóa: translate, expound, Chinese poetry, high schools.

1.
Đặt vấn đề – Điều kiện tiếp nhận
và biên dịch thơ chữ Hán
“Dịch thuật không phải là công việc
mới mẻ đối với thế giới cũng như đối với
Việt Nam ta. Nó đã đóng vai trị quan
trọng trong sự giao lưu văn hóa và kinh tế
giữa các dân tộc” (Lê Nguyễn Lưu, 2007,
tr.137). Dân tộc ở đây được hiểu như là các
nước; biên dịch thơ chữ Hán là công việc
*

Email:

30

biên dịch các tác phẩm thơ của các nước
trong khối đồng văn Hán tự, mà trong đó
có Việt Nam. Nhìn chung, đó là q trình

“thể hiện hiện thực được hình dung trong
văn bản gốc bằng văn bản dịch” (Nhiều tác
giả, 1982, tr.103), là “chuyển đạt ngôn ngữ
từ mã số này sang mã số khác trong phạm
vi quốc gia hay quốc tế, nhưng không đơn
thuần chỉ là chuyển đạt mã số, mà chính là


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

chuyển đạt tâm tư qua tín hiệu của mã số,
nhất lại là dịch thuật thơ văn” (Nhiều tác
giả, 1982, tr.45).
Nằm trong tầm lan tỏa văn hóa Đơng
Á, cũng như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam có nhiều thuận lợi khi nghiên cứu và
dịch thuật các tác phẩm thơ chữ Hán. Sự
tương tác dài lâu giữa hai nền văn hóa Việt
– Trung để lại kho từ vựng dân tộc phong
phú với tỉ lệ từ Hán Việt rất cao. Ngày nay,
khi ngâm nga thơ chữ Hán, người Việt có
khả năng tạo nên một khơng gian văn hóa
đậm chất Đường thi mà ngay cả trên đất
nước Trung Hoa điều này chẳng thể cịn
tìm được. Khác các ngơn ngữ Âu châu,
cảm thức Hán văn đã là tiềm năng mạnh
mẽ và sống động của người Việt. Bên cạnh
từ vựng, ngữ pháp Hán, Việt chia sẻ những
đặc điểm cơ bản như kết cấu C-V, hệ thống
từ loại tương ứng (danh từ, động từ, tính

từ… tuy khơng đồng nhất nhưng về đại thể
là tương đồng). Kết quả, khi tiếp cận
những dòng thơ: Sàng tiền minh nguyệt
quang, Nghi thị địa thượng sương… hay
Xuân khứ bách hoa lạc, xuân đáo bách hoa
khai… người Việt không thấy lạ lẫm,
chẳng cần biên dịch mà tựa hồ gặp lại cố
nhân với những mĩ cảm, liên kết sâu xa để
tận hưởng từng âm tiết vang lên trên một
nền tảng văn hóa – văn học lâu đời. Nhờ
mơ thức tương đồng mà những kí mã được
tiếp nhận rõ ràng, tinh tế và ý nhị giữa hai
nền thơ ca phương Bắc – phương Nam; đó
chính là điều kiện để Lý Thường Kiệt cất
lên chữ “đế” trong “Nam quốc sơn hà Nam
đế cư” ngạo nghễ trước quân Tống xâm
lược. Hơn ai hết, Trung Hoa có hệ thống
định danh dành riêng cho người đứng đầu

Huỳnh Văn Minh và tgk
xã hội vốn khơng ngừng biến đổi và tích
lũy thêm các nét nghĩa: Ban đầu thiên tử
được gọi là Hoàng (Tam Hoàng) và Đế
(Ngũ Đế), các thiên tử nhà Chu thì xưng
vương, Tần Doanh Chính khẳng định vị thế
của mình qn thống thiên hạ cả về mặt
thời gian lẫn không gian nên xưng Tần
Thủy Hoàng Đế; “vương” rơi xuống bậc
hai, trở thành xưng hiệu cho vua chư hầu.
Chư hầu xưng đế là phạm thượng, tước

phong Trung Hoa dành cho người đứng
đầu nước ta luôn là quốc vương; chữ “nam
đế”, như thế, đầy kiêu hãnh sáng lên trong
bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Điều đáng
tiếc là trong Sách giáo khoa Ngữ Văn 7
(tập 1), chữ “đế” trở thành “vua” trong cả
phần dịch thơ và nghĩa (Nguyễn Khắc Phi,
2006, Ngữ văn 7, tr.62) dù chú thích
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 7, tr.64)
và bài đọc thêm (Nguyễn Khắc Phi, 2006,
Ngữ văn 7, tr.65) ý thức được sự khác biệt
này.
Tuy gần gũi, khoảng cách văn hóa
Việt – Trung khơng thể bị lãng qn,
nhưng vẫn gây những khó khăn nhất định
cho q trình tiếp nhận và biên dịch thơ
chữ Hán. Rào cản ngôn ngữ trước hết là hệ
thống từ vựng; trường hợp đồng âm khác
nghĩa Hán Việt: “đồng” có đến 36 nghĩa
khác nhau (nhi đồng, đồng tâm, thư đồng,
hội đồng…), “phong” có đến 32 nghĩa
(phong vận, cao phong, tây phong, tước
phong…). Trong khi âm Hán Việt khơng
chỉ từ chối tiết lộ ý nghĩa chính xác mà còn
giăng ra chiếc bẫy nhầm lẫn cho cả giới
chuyên gia, thì giáo viên, học sinh trung
học vẫn chỉ làm việc trên những bản phiên
âm, dịch thơ và dịch nghĩa. Tiếp đến, hệ
31



TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

thống ngữ pháp với kết cấu hư từ (chi, kì,
giả, dã) tạo thành bức tường ngăn cách
người Việt đến với những bài thơ chữ Hán.
Đơn cử, Tẩu lộ của Hồ chủ tịch, SGK Ngữ
văn 8, Trùng san chi ngoại hựu trùng san
được dịch là Hết lớp núi này lại tiếp đến
lớp núi khác – Núi cao rồi lại núi cao trập
trùng (tập 2) (Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ
văn 8, tr.39). Chữ “chi” được chú thích là
quan hệ từ nối các phần trong một cụm từ,
thường chỉ sự sở hữu (Nguyễn Khắc Phi,
2006, Ngữ văn 8, tr.39). Thực tế là phần
dịch nghĩa biến ngữ danh từ trùng san chi
ngoại thành ngữ động từ hết lớp núi này,
phần dịch thơ giữ được cấu trúc ngữ danh
từ núi cao nhưng lại không chuyển tải hết
nghĩa trùng san được lặp nhắc liên tục, làm
giảm hẳn khí thế cao sơn và ý chí hành giả
khi so với nghĩa gốc: bên ngồi của dãy núi
trập trùng lại cịn có dãy núi trập trùng
khác. Cũng vậy, nếu vượt qua được trùng
san hư từ thì cấu trúc ngữ pháp đặc thù
Hán văn trở thành một trùng san khác ngăn
trở người đọc khi đối mặt với sử động dụng
pháp, ý động dụng pháp… Trong phạm vi
thơ Hán văn Trung học, chúng tôi chỉ lấy
ví dụ về sử động dụng pháp – cấu trúc

thường xuất hiện ở vị trí ngữ danh, ngữ
tính từ khi có hiện tượng đảo trang/ đảo
ngữ; khơng nắm bắt được hình thức sử
động dụng pháp sẽ nhầm lẫn trật tự chính –
phụ trong miêu tả, diễn đạt; Hồng Hạc lâu
(Ngữ văn 10, tập 1) có một trường hợp như
thế: Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ/
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu được
dịch nghĩa: Hàng cây đất Hán Dương phản
chiếu rõ mồn một trên dịng sơng tạnh, trên
bãi Anh Vũ cỏ non mơn mởn xanh tươi,
32

Tập 14, Số 5 (2017): 30-38
dịch thơ: Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non (Phan
Trọng Luận, 2006, Ngữ văn 10, tr.159).
Theo đó, cặp luận khơng đạt ngữ pháp và
khơng chuẩn đăng đối bởi câu trước lệch
ngữ pháp hồn tồn, câu sau thì chỉ gần gũi
ý nghĩa. Muốn hiểu đúng, hai câu này cần
được tái lập động từ “sử” (khiến cho, làm
cho…) và khôi phục lại trật tự trước đảo
trang:
Tình xuyên (sử) Hán Dương thụ lịch
lịch,
Phương thảo (sử) Anh Vũ châu thê
thê…
Nghĩa là: Dịng sơng phẳng lặng làm
(hàng) cây Hán Dương rõ bóng, Thảm cỏ

non thơm khiến bãi Anh Vũ xanh ngời.
Bản dịch thơ của Khương Hữu Dụng (Phan
Trọng Luận, 2006, Ngữ văn 10, tr.160) tựa
hồ chia sẻ ý tưởng này nhưng việc lí giải
cặn kẽ thường vượt quá khả năng thực tế.
Tính cơ đúc của Đường thi và thơ
Đường luật dường như cổ vũ yếu tố chủ
quan, cảm tính của người tiếp cận. Trong
hồn cảnh kiến thức Hán văn của giáo viên
cịn mỏng, học sinh thì kính nhi viễn chi,
việc biên dịch, lí giải văn bản lại chưa thật
chuẩn xác, thỏa đáng, khiến cho nội dung,
ý tưởng của văn bản, tác phẩm đôi lúc trở
nên mâu thuẫn, hồ nghi, như trường hợp:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên
định phận tại thiên thư… Chữ “thiên thư”
được dịch và chú là sách trời, tạo hóa
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 7, tr.6264) khá siêu nhiên đã tự mình chống đối
với “tiệt nhiên” (rõ ràng, vằng vặc) và
thoát li khỏi trường nghĩa sơn hà phân định
cụ thể ở câu trên. Thật ra “thiên thư” cần


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

được soi trong ánh sáng ý tưởng thiên văn,
địa lí; người xưa xem thiên văn trên trời
mà định địa lí dưới đất, thế nên ơng bà ta
từng có câu: Đất nào sao ấy; cịn trong thư
tịch Trung Quốc, Hán Thư (Chương Địa lí

chí) cũng viết: Việt địa Khiên Ngưu, Vụ Nữ
chi phần dã (Ban Cố, 2007, tr.1329) (Phần
đất Việt tương ứng với vùng đất thuộc
chòm sao Khiên Ngưu và Vụ nữ). Thiên
thư nhờ vậy khơng cịn là đối tượng mơ hồ,
tâm linh mà trở thành công cuộc biên sử,
trạch địa và khái quát hóa ý tưởng câu đầu
– Nam quốc sơn hà Nam đế cư cũng như
tính chất tiệt nhiên của nó, bởi thiên văn
địa lí đã được biên chép thành sách vở,
Lớp
6

Tổng số
0

7

7

8
9

2
0

10

11


11
12

2
0

Huỳnh Văn Minh và tgk
điển tịch thì khơng sao chối cãi được; luận
chứng, luận cứ thế mới có thể hỗ trợ cho
luận điểm đầu tiên của bản tuyên ngôn độc
lập lần thứ nhất. Việc biên soạn, phân tích,
tiếp nhận, như vậy, đòi hỏi học phong khá
chuyên ở người soạn chương trình, giáo
viên và cả học sinh; vấn đề là học phong ấy
nay đã mờ nhạt, khó thể tái hồi.
2.
Giải quyết vấn đề – Thực trạng
bình giảng thơ chữ Hán ở Trung học
Phân bố chương trình có sức ảnh
hưởng nhất định đến hiệu quả bình giảng
thơ chữ Hán ở trường Trung học, cấu trúc
ấy có thể khái quát dựa vào bảng sau:

Bài
Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, Thiên Trường vãn vọng, Vọng Lư sơn bộc
bố, Tĩnh dạ tư, Hồi hương ngẫu thư, Nguyên tiêu
Vọng nguyệt, Tẩu lộ
Thuật hoài, Cảm hồi, Độc Tiểu Thanh kí, Quốc tộ, Cáo tật thị chúng, Quy hứng,
Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Kh ốn, Điểu minh giản,
Thu hứng, Hồng Hạc lâu

Mộ, Lai Tân

(Bảng phân bố thơ chữ Hán trong Sách Ngữ văn bậc trung học hiện hành)
Bảng trên cho thấy việc phân bố thơ
chữ Hán trong trường Trung học tồn tại
vấn đề về chất lượng lẫn số lượng. Về số
lượng, chương trình lớp 6, 9 và 12 khơng
có bài nào; ngun nhân có lẽ ở khả năng
tích lũy từ Hán Việt của học sinh lớp 6
chưa đủ để cảm thụ thơ chữ Hán; lớp 9 và
12 là lớp cuối cấp, việc khơng có bài thơ
chữ Hán nào dễ khiến giới quan sát hiểu
rằng chương trình xây dựng phục vụ định
hướng thi cử. Có một quy luật phân bố: sau
năm học 6 và 9 khơng có bài thơ chữ Hán

nào thì lớp liền kề (7 và 10) được bù đắp
đến mức thái quá rồi lại giảm xuống ở lớp
sau (8 và 11). Cách phân bố này cũng là
kết quả của ngun tắc tn thủ tiến trình
lịch sử mà khơng xét đến bản thân tác
phẩm thơ chữ Hán, ấy là mặt chất lượng.
Chất lượng ở đây không nhằm đánh giá bài
thơ hay hoặc dở mà là tính đến độ tương
hợp khả năng người học. Theo đó, Nam
quốc sơn hà với ý nghĩa “thiên thư” được
bàn bên trên có lẽ phù hợp với học sinh cấp
ba hơn là lớp 7. Tương tự như vậy, Hồi
33



TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

hương ngẫu thư vì giảng dạy ở lớp 7 nên ý
nghĩa bài thơ bị tối giản hóa đến nỗi đáng
nghi hoặc khi bám vào bản dịch và chú rất
sát hai chữ “nhi đồng” (trẻ con) (Nguyễn
Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 7, tr.125-126).
Sau bao năm bôn ba hoạn lộ, rũ bỏ quan
phục, nhà thơ về quê, đặt hết niềm tin vào
“hương âm” nhưng chẳng được nhận ra,
cay đắng hơn còn bị nhi đồng cười cợt
(tiếu vấn), bản dịch thơ Phạm Sĩ Vĩ còn
xác định: Trẻ con nhìn lạ khơng chào
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 7,
tr.126). Hành động này của “nhi đồng” trái
hẳn với chuẩn tắc Nho giáo, Nho học, đi
ngược lại truyền thống và hiện thực đời
Đường thịnh thế, đỉnh cao lễ nghĩa cho lân
bang noi theo, du học sinh đến tham vấn.
Tuy thế, một Hạ Tri Chương đã nhẹ nhàng
gạt bỏ mọi sự để tu tiên thì chắc hẳn cũng
chẳng trách trẻ con vơ tri, vậy hà cớ chi
buồn đau, vì sao phải ngậm ngùi. Lại thêm,
“tương kiến bất tương thức” – không chỉ
“nhi đồng” mà cả ông lão cũng không nhận
ra; muốn nhận ra thì phải từng gặp, đã từng
gặp thì nhi đồng đây chẳng còn là trẻ con
nữa. Thế nên, có lẽ nhi đồng ở đây ứng với
bạn bè thời “thiếu tiểu”, nay “lão đại” gặp

lại vẫn với hương âm ấy mà chẳng nhận ra
nhau mới gây bi cảm; câu hỏi: Tiếu vấn
khách tịng hà xứ lai đặt lên mơi một lão
trượng thì phù hợp hơn nhi đồng về cả nhu
cầu giao tiếp, khả năng thẩm âm lẫn chuẩn
tắc xã hội; Trần Trọng San ở chỗ này chỉ
dịch gặp nhau mà chẳng biết nhau
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 7,
tr.126) dường như cũng vì lẽ đó. Tóm lại,
sau khi chỉnh sửa hoặc xóa bỏ tranh minh
họa ở trang 126 thì Hồi hương ngẫu thư
34

Tập 14, Số 5 (2017): 30-38
nên được chuyển sang sách Ngữ văn bậc
trung học phổ thơng thì sẽ phù hợp hơn với
tầm tiếp nhận của người học bởi cả tính
phức tạp về ý nghĩa văn bản lẫn tâm lí
nhân vật trữ tình.
Là kết quả tất yếu của cấu trúc
chương trình và hiện trạng các bản dịch,
thơ chữ Hán ở trường trung học hiện đang
được bình giảng theo ba hướng chính. Thứ
nhất là hướng ấn tượng, tài hoa. Có truyền
thống từ các bậc túc Nho, những người trên
thơng thiên văn dưới tường địa lí, bình luận
Hán văn dựa vào khả năng bác cổ thông
kim mang chất tài tử. Điểm nổi trội của
khuynh hướng này là tính cá nhân, qua
bình thơ mà nói lên nhân sinh quan, thế

giới quan; phần ghi nhớ tổng kết: …Từ
việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường
đời: vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới
thắng lợi vẻ vang (Nguyễn Khắc Phi, 2006,
Ngữ văn 8, tr.40). Tấm lịng rộng, ý chí cao
của hành giả và cả “bình giả” làm say lịng
người nghe, nhưng đáng tiếc là đã thoát li
khỏi văn bản, nặng chất cảm tính. Bởi
“Vạn lí dư đồ cố miện gian”, bản dịch
nghĩa và thơ đều nhấn vào động từ thu:
muôn dặm nước non thu vào cả trong tầm
mắt, thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 8, tr.39)
nhưng phần chú thích chỉ có “cố” là quay
đầu nhìn, “miện” là đưa mắt nhìn; “gian”
đóng vai trị phó từ, nghĩa là khoảng giữa;
“cố miện gian” trở thành trạng ngữ – trong
tầm mắt, trong tầm nhìn. Thật ra, ngồi phó
từ, trong trường hợp này, “gian” cịn là
động từ mang nghĩa thu vào. Động từ
“gian” cuối câu mang sức nặng chẳng phải
với nghĩa thành quả cuối cùng: ngắm nhìn


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

vạn lí dư đồ, bởi Bác không phải người
đang du sơn ngoạn thủy, cũng chẳng có
khách lữ du nào đối cảnh mà quay đầu liếc
nhìn (cố miện). Bác mang tâm trạng người

li hương, biệt xứ ngối nhìn q nhà; vạn lí
dư đồ khơng là bức tranh vạn dặm trải ra
trước mắt an nhiên tĩnh tại mà là bức tranh
quê hương nơi vạn dặm trĩu nặng đa mang,
nơi người tù lặng lẽ ngối nhìn thống
chốc rồi phải tiếp tục con đường chuyển
lao. Để có được giây phút ngắn ngủi ấy, ắt
phải lên tận “cao phong” (đỉnh núi cao
nhất), Bác đã chuyển những khó khăn, khổ
ải trước mắt thành hành động có chủ đích,
thành sức mạnh tự thân. Ấy là nỗi niềm
riêng Bác tự ngẫm cho mình, hịa trong
những motif cổ điển “đăng cao vọng viễn”,
“đăng sơn ức hữu” và “cố miện sơn hà”
(ngối nhìn non sông xứ sở). Ấy vậy mà
bài thơ được tiếp cận một cách đơn giản,
và được bình ra bài học nhân sinh, khun
bảo thì khó tránh võ đốn. Khuynh hướng
bình giảng tài hoa ấn tượng có lẽ với mục
tiêu đào tạo nhà văn, nghệ sĩ thì phù hợp
hơn.
Khuynh hướng thứ hai bình giảng
thơ chữ Hán nghiêng về chính trị, xã hội
theo nghĩa dùng văn học như cơng cụ phục
vụ chính trị, giáo dục tư tưởng, trau dồi đạo
đức. Nhãn tự “hồng” trong bài Mộ (Phan
Trọng Luận, 2006, Ngữ văn 11, tr.41)
thường được bình rất rộng; hướng tài hoa
ấn tượng liên hệ đến: Nhân diện đào hoa
tương ánh hồng (Đề đô thành nam trang –

Thơi Hộ), phái chính trị xã hội bình “hồng”
là đỏ rực, sáng rực lên ý chí, lí tưởng của
nhà thơ. Vượt lên đau khổ, gông cùm,
người tù vẫn chia sẻ cái đẹp từ thiên nhiên

Huỳnh Văn Minh và tgk
chiều tà, cái thơ của thiếu nữ lao động; ấy
là tinh thần thuộc giai cấp cần lao, là chủ
trương theo ngọn cờ cộng sản. Từ phương
diện văn bản, theo đó, “hồng” được hiểu là
đỏ, tức tính từ, có bộ mịch (tơ, sợi, màu
sắc); hồng như thế trọng tĩnh và hình ảnh
hiện lên màu đỏ viên mãn tột độ, “lơ dĩ
hồng” là lò than đã cực đỏ, tức cực điểm và
tất nhiên đã chuyển sang trạng thái,
ngưỡng của tàn lụi.
Tuy nhiên, nếu hiểu “hồng” có bộ
hỏa (lửa, đốt lửa, nhóm lửa…) thì sẽ thành
động từ, tiếp nối cái chuyển động của ma
bao túc – ba túc ma. Trong Suy nghĩ mới về
Nhật kí trong tù, tác giả Nguyễn Huệ Chi
(Nguyễn Huệ Chi, 1995, tr.264) đã khảo
chứng chữ “hồng” này. Động từ “hồng”
nghĩa là nhóm đỏ, mới nhen, tương ứng với
một trong một chuỗi những hành động của
cô gái miền sơn cước, “lơ dĩ hồng” nghĩa là
bếp lị đã được nhóm xong, đã được nhóm
đỏ; và cịn ứng với thời gian của buổi chiều
tối, hứa hẹn một sự trường cửu, sức sống
mạnh mẽ, niềm tin vào tương lai bởi nó là

điểm đầu của một quá trình phát triển, gợi
nhớ cái đẹp của câu ca dao: Đôi ta như lửa
mới nhen, như trăng mới mọc như đèn mới
khêu. Theo đó, chất thơ chất thép của nhà
thơ, người tù Hồ Chí Minh thể hiện ở quá
trình thì ý nghĩa hơn nhiều so với đỉnh
điểm. Bình chính trị xã hội, vì thế, nhấn
mạnh chức năng giáo dục của văn học
nhưng lại dành chỗ quá ít cho chức năng
thẩm mĩ.
Theo xu hướng, phong trào là dạng
thứ ba bình giảng thơ chữ Hán ở trường
trung học. Trong công cuộc đổi mới nền
giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo,
35


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

nhiều phương pháp, ý tưởng dạy học mới
được khuyến khích như lấy học sinh làm
trung tâm, sử dụng công nghệ thông tin,
dạy học tích hợp, dạy học phân hóa… tuy
mang lại làn gió mới cho người dạy lẫn
người học nhưng đôi khi áp dụng lại nặng
tính hình thức. Đơn cử như Vọng nguyệt
(Nguyễn Khắc Phi, 2006, Ngữ văn 8, tr.37)
được giới thiệu theo hướng vận dụng cơng
cụ Powerpoint khi bình giảng, một lượng
lớn hình ảnh người tù ngồi ngắm vầng

trăng trịn vành vạnh ngồi cửa sổ được
trình chiếu nhằm gây thi cảm cho học sinh.
Tuy thế, văn bản lại tiết lộ một hình ảnh
khác nằm đằng sau câu chữ như cách tù
nhân “hướng song tiền, khán minh
nguyệt”. Nếu thực có sự tương giao này thì
ở câu cuối “nguyệt” có thể “tịng song khán
thi gia”, chẳng cần phải len lỏi qua “song
khích” (khe cửa). Thực tế nhà tù khốc liệt
hơn rất nhiều, ngắm trăng vì thế chỉ thực
hiện trong tâm tưởng, chỉ tái hiện vầng
trăng thơng qua một vệt mỏng manh của
“song khích”, chỉ có thể được như vậy và
chỉ cần thế là đủ, bởi tri âm chỉ giao tâm
bất luận có diện kiến hay không. Kiểu giao
tiếp tâm tưởng này là phổ biến trong Ngục
trung nhật kí: …Hoa hương thấu nhập
lung mơn lí, hướng tại lung nhân tố bất
bình. Một lần nữa, hình ảnh minh họa đe
dọa đến tư duy trừu tượng, tưởng tượng
thẩm mĩ của văn học nghệ thuật. Quan
điểm dạy học tích hợp hướng đến hình
thành năng lực tổng hợp cho học sinh là
một định hướng tốt, tuy vậy, việc vận dụng
một cách hình thức, máy móc khơng phải
là khơng có. Cách hiểu phải tích hợp liên
mơn, vận dụng kiến thức lịch sử, địa lí vào
36

Tập 14, Số 5 (2017): 30-38

văn học nếu không khéo sẽ dẫn đến tác
dụng ngược, ôm đồm kiến thức nhiều
mảng mà bỏ quên, lệch lạc chính bản thân
văn học; điều này càng nguy hiểm đối với
văn bản thơ chữ Hán, vốn yêu cầu một sự
đầu tư cao độ và nghiêm túc vào khâu từ
vựng, ngữ pháp văn bản. Hoàng hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
(Phan Trọng Luận, 2006, Ngữ văn 10,
tr.144) của Lý Bạch được ca ngợi bởi
không gian nghệ thuật đẹp như tranh vẽ:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu/ Cô
phàm viễn ảnh bích khơng tận; tình bạn
thắm thiết khiến tác giả đứng mãi trơng
dáng người đi đến khi cánh buồm khuất
hẳn phía chân trời xanh biếc (bích khơng
tận). Kiến thức địa lí được tích hợp để giúp
học sinh hiểu cái đẹp của tháng ba Đường
thi từng được Nguyễn Tuân ca ngợi (tích
hợp nội mơn) để hịa trong hoa thắm (hoa)
và khói sóng (yên). Bình giảng hướng
ngoại tạo nên trường liên tưởng rộng
nhưng lại bỏ qua một mâu thuẫn nội tại:
giữa ngập ngời hoa và mịt mù khói sóng,
sao có thể nhìn rõ “viễn ảnh” của “cơ
phàm” trong cõi “bích khơng”. Vấn đề từ
vựng quay lại thách thức người đọc. Theo
chúng tôi, yên hoa khơng phải là hoa và
khói mà là những mảng hoa lớn nở bung
trước mắt nhà thơ. Bởi lẽ mùa xuân ba

tháng, hoa tháng giêng đẹp e ấp gợi liên
tưởng, hoa tháng hai đẹp giá trị tự thân
(Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa – Sơn
hành, Đỗ Mục), hoa tháng ba đẹp trong
tổng thể viên mãn; yên hoa tam nguyệt –
trảng hoa tháng ba – là cận cảnh, đồng thời
là phối cảnh, cơ phàm nơi bích khơng là
viễn cảnh tạo cho buổi giã từ có chiều sâu


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

cảnh và tình, ngoại giới và nội tâm; Đường
thi hay chính ở đó vậy.
3.
Đề xuất – Tiếp cận thơ chữ Hán ở
trường trung học
Nhận thức được những khó khăn của
người dạy và người học trong việc tiếp cận
văn bản thơ chữ Hán ở Trung học, chúng
tơi có một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần cung cấp bản Hán văn
bên cạnh bản phiên âm dịch nghĩa, dịch thơ
trong sách giáo khoa. Tất cả những tranh
cãi, băn khoăn về từ vựng, ngữ pháp đặc
thù Hán ngữ có thể được giải quyết khi tra
cứu nguyên bản. Điều này không chỉ tránh
nhầm lẫn đáng tiếc mà cịn tiết kiệm cơng
sức nghiên cứu của giới chun gia, giáo
viên khi chuyển tải nội dung, ý tưởng văn

bản, tác giả đến người đọc nói chung và
học sinh nói riêng. Những trường hợp như
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng), Nguyệt nhằm song khích
khán thi gia (Vọng nguyệt), Ma túc ma
hồn lơ dĩ hồng (Mộ), Nam thiên lí thái
bình (Quốc tộ)… sẽ dễ dàng minh định
thông qua từ vựng và hệ thống liên kết
hình tuyến ngữ pháp đặc thù.
Thứ hai, trong quá trình dịch thuật
văn bản có yếu tố Hán nói chung và thơ chữ
Hán nói riêng cần cố gắng lưu giữ yếu tố
nằm trong biên độ khả dĩ, lằn ranh hợp lí
giữa ngơn từ trong văn bản và hệ thống từ
vựng tiếng Việt. Điều này sẽ giữ được
khơng gian văn hóa và mĩ cảm truyền thống
khi tiếp cận những từ gốc Hán quen thuộc
nằm trong các kết cấu ngữ pháp tương đồng
tiếng Việt như: Xuân khứ bách hoa lạc,
xuân đáo bách hoa khai (Cáo tật thị chúng),

Huỳnh Văn Minh và tgk
Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà
nhân khấp Tố Như (Độc Tiểu Thanh kí)…
Nói cách khác, với những đơn vị từ vựng có
khả năng định danh như “thanh lâu, hồng
lâu”, khi dịch không cần chuyển đổi bởi nếu
chuyển thành “lầu xanh, lầu đỏ” thì đã mất
đi ít nhiều khí vị. Ngược lại, với những đơn

vị va chạm khái niệm giữa hai nền văn hóa
tạo nên những nét nghĩa q phong phú
hoặc mờ nhịa thì cần dịch theo hướng miêu
tả, ví dụ: “thúy lâu” dịch định danh thành
“lầu xanh” sẽ không đạt bằng dịch miêu tả –
“lầu đẹp”. Bên cạnh đó, người biên dịch cần
tham khảo bản dịch của các dịch giả đi
trước; công tác tuyển lựa bản dịch vào sách
giáo khoa có thể tiến hành theo hai hướng:
hoặc chọn lựa bản tín, đạt, nhã nhất hoặc
cùng lúc giới thiệu nhiều dị bản. Thực tế,
sách Ngữ văn đang làm theo hướng sau,
chúng tôi cũng từng chỉ ra sự chia sẻ với
bản dịch thơ thứ hai (xếp sau). Tuy nhiên,
trong q trình giảng dạy, việc so sánh các
bản dịch địi hỏi công phu khá cao ở người
giáo viên.
Thứ ba, nếu khâu dịch thuật và giới
thiệu nguyên tác có thể thực hiện dễ dàng
bởi một nhóm nhỏ chun gia thì việc vận
dụng và tiếp cận những văn bản ấy trong
giảng dạy cần phải được thực hiện rộng
khắp, trực tiếp, thường xuyên bởi hệ đội
ngũ giáo viên Ngữ văn trung học. Giáo
viên phải có khả năng vận dụng kiến thức
từ vựng, ngữ pháp để can thiệp, tiếp cận
hiệu quả văn bản thơ chữ Hán; sau đó bằng
hệ thống câu hỏi, tình huống, khả năng đa
dạng dẫn dắt học sinh tự tiếp cận, đưa ra
những ý kiến, bình luận cá nhân. Tiếp đó,

học sinh cần phải được tạo điều kiện đối
37


TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM

chiếu những cách tiếp cận, lí giải khác
nhau về cùng một nội dung, một tác phẩm
để nhận ra khác biệt cơ bản nhằm hình
thành nhận thức tồn diện hơn về tác
phẩm, đồng thời xây dựng những kĩ năng
tiếp cận văn bản thơ chữ Hán. Muốn vậy,
kiến thức Hán văn của giáo viên, sinh viên
sư phạm khơng thể chỉ trơng cậy vào 5 tín
chỉ Hán Nôm ở trường đại học (học phần
Hán Nôm tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm TPHCM) mà phải chủ động
phối hợp hình thành từ các bộ mơn có liên
quan như Văn học Trung đại, Thơ văn Lý
Trần, Văn học Trung Quốc…
Sau nữa, công tác bồi dưỡng, tập
huấn thường niên thường chỉ chú trọng ở
phương pháp. Nay, cần tập trung đúng mức
đến nội dung, đặc biệt là mảng Hán văn,
thơ chữ Hán; kết hợp với tinh thần cầu thị,
tự học hỏi, rèn luyện từ mỗi cá nhân giáo

Tập 14, Số 5 (2017): 30-38
viên. Nếu công tác giáo dục Hán văn nói
chung và thơ chữ Hán nói riêng trở thành

quá trình tự giáo dục thường xuyên thì học
phong đã phai mờ có khả năng mong chờ
một viễn cảnh tốt đẹp hơn.
Tóm lại, chúng tơi thiết nghĩ, cơng
tác tiếp cận thơ chữ Hán ở trường trung
học hiệu quả đòi hỏi phải có sự hợp tác hệ
thống, đồng bộ từ khâu biên soạn, biên
dịch văn bản đến khả năng Hán ngữ của
giáo viên. Trong quá trình hành chức của
mình, trên cơ sở kết hợp các ưu điểm từ
những cách tiếp cận truyền thống, lịch sử
cụ thể, giáo viên cần lưu ý đến hướng tiếp
cận từ vựng, ngữ pháp để hiểu rõ tiền nhân
mà hình thành khả năng giải quyết vấn đề
cho hậu thế. Nhiệm vụ này gắn với một nỗ
lực lâu dài bền bỉ, đầy khó khăn nhưng
cũng rất vinh quang.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Cố. (2007), “Địa lí chí”. Hán thư (Quyển Trung). Trung Quốc: Trung Hoa Thư cục.
Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). (1995). Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù (in lần thứ ba). Hà Nội: NXB
Giáo dục.
Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên). (2006). Ngữ văn 10. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên). (2006). Ngữ văn 11. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Lê Nguyễn Lưu. (2007). Đường thi tuyển dịch. Huế: NXB Thuận Hóa.
Nhiều tác giả. (1982). Dịch từ Hán sang Việt, một khoa học, một nghệ thuật. Hà Nội: NXB Khoa
học xã hội.
Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên). (2006). Ngữ văn 7. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên). (2006). Ngữ văn 8. Hà Nội: NXB Giáo dục.


38



×