Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.6 KB, 7 trang )

TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

SỰ DUNG HỢP TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
TRONG CHÙA VIỆT Ở KHÁNH HỊA
NGUYỄN VĂN BỐN

Tóm tắt
Từ xưa đến nay, chùa Việt ở Khánh Hịa khơng chỉ đóng vai trị quan trọng trong đời sống tâm
linh, mà nó cịn dung hợp với tín ngưỡng, tơn giáo truyền thống như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ danh nhân, thờ anh hùng liệt sĩ, Đạo giáo, Nho giáo. Đặc
biệt, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa phản ánh truyền thống, thể hiện
sắc thái vùng miền và góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Từ khóa: Sự dung hợp, tín ngưỡng thờ Mẫu, chùa Việt, Khánh Hòa
Abstract
From ancient time up to present, Vietnamese pagodas in Khanh Hoa not only play an important
role in the spiritual life, but also acculturate with traditional beliefs and religions such as nature
worship beliefs, ancestors worship, worship of Mother Goddesses, worship of heroic martyrs, Taoism,
Confucianism. Especially, the harmonious worship of Mother Goddess in the Vietnamese pagodas in
Khanh Hoa reflects the traditions, expresses local nuances and contributes to the diversity of Buddhist
culture in Vietnam
Keywords: Acculturation, Mother Goddesses worship, Vietnamese pagoda, Khanh Hoa
1. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na
Thánh Mẫu

N

hư chúng ta biết, tín ngưỡng thờ
Thiên Y A Na Thánh Mẫu là kết
quả của sự tiếp biến văn hóa Việt
- Chăm. Đó là sự dung hợp và Việt hóa từ Nữ
thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar của người Chăm


thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người
Việt. Theo đó, tín ngưỡng này được người Việt
thờ phụng phổ biến ở Trung bộ nói chung và
Khánh Hịa nói riêng. Ở Khánh Hịa, tín ngưỡng
này được người Việt thờ phụng phổ biến từ
nông thôn đến thành thị. Theo thời gian, tín
ngưỡng thờ Thiên Y Thánh Mẫu đã dung hợp
với nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác
của người Việt như tín ngưỡng thờ ơng Nam
Hải, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín
ngưỡng thờ tổ tiên... Song điển hình là sự dung
hợp và phổ biến của tín ngưỡng thờ Thiên Y A
Na Thánh Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa.
Theo quan niệm dân gian, Thiên Y A Na Thánh
Số 25 - Tháng 9 - 2018

Mẫu là Mẫu bản thổ, có vai trị quan trọng
trong đời sống tâm linh người Việt ở Khánh
Hịa. Chính vì thế, nhiều chùa Việt ở Khánh
Hòa từ lâu đã dung hợp với tín ngưỡng thờ
Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Đó là chùa Suối Đổ
và chùa Hàng Thuận (Suối Hiệp, Diên Khánh),
chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), chùa
Sắc Tứ Chí Linh Sơn, chùa Đá Lố và chùa Thanh
Vân (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang), chùa Nghĩa
Quang (Phương Sài, tp. Nha Trang), chùa Linh
Phong (Phương Sơn, tp. Nha Trang), chùa Đào
Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha Trang), chùa Chí Lý
(Vĩnh Hải, tp. Nha Trang), chùa Bửu Long (Ninh
Quang, Ninh Hòa), chùa Thiên Phước (Ninh

Đơng, Ninh Hịa)...
Bên cạnh đó, sự dung hợp tín ngưỡng
thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chùa Việt
ở Khánh Hòa thể hiện motip truyền thống
Phật giáo Việt Nam, đó là: “tiền Phật, hậu Mẫu”
hoặc “tiền Thánh, hậu Phật”. Theo tác giả Trần
Lâm Biền, “Việc thờ Mẫu là một đảm bảo cho

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

17


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

sự tồn tại của ngơi chùa, hay sự dung hội với
tín ngưỡng dân dã này là đường đi tất yếu
của Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật có bệ đỡ
quần chúng” (1, tr.637). Nói cách khác, đây là sự
hịa hợp giữa tín ngưỡng dân gian của người
Việt với Phật giáo để cùng tồn tại, phát triển
và thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của cư dân
nơng nghiệp. Cơ sở cho sự dung hợp này là
niềm tin và nhu cầu vừa thờ Phật vừa thờ Thiên
Y A Na Thánh Mẫu của người Việt. Tuy nhiên,
theo khơng gian, hồn cảnh lịch sử - xã hội và
đặc trưng văn hóa vùng miền mà sự dung hợp
tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt có những

nét khác biệt. Nếu như chùa Việt vùng văn hóa
Bắc Bộ phổ biến là sự dung hợp tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ như chùa Phật Tích
(Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Trấn Quốc (Tây Hồ,
Hà Nội), chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)...,
thì ngược lại, trong q trình Nam tiến, chùa
Việt ở Khánh Hòa thường dung hợp với tín
ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu và nhiều
vị nữ thần, mẫu thần khác.
Sự dung hợp tín ngưỡng Thiên Y A Na
Thánh Mẫu trong những ngôi chùa Việt ở
Khánh Hịa rất đa dạng và linh hoạt. Tùy theo
khơng gian của ngơi chùa mà có cung hoặc
ban thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chính
điện. Ví dụ, cung thờ Thiên Y Thánh Mẫu trong
chùa Sắc Tứ Chí Linh Sơn, còn gọi là chùa Suối
Ngổ (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang). Ngơi chùa
được tạo dựng từ thời Nguyễn trên đỉnh núi
Hịn Én gồm tam quan, khn viên và chính
điện. Khn viên chùa gồm am thờ Chiến sỹ,
tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng Phật
Di Lặc, am ông Hổ, miếu ông Địa Tạng, am
Ngũ hành thần nữ và am Cô hồn. Chính điện
là một tịa nhà theo bình đồ chữ nhất, được
chia thành hai khu vực: điện thờ Phật và điện
thờ Mẫu. Thứ nhất, điện thờ Phật nằm bên
tay phải từ tam quan vào chùa, chính giữa là
tượng Thích Ca Mâu Ni, bên trái là tượng Quan
Thế Âm Bồ Tát và bên phải là tượng Bồ Đề Đạt
Ma. Thứ hai, điện thờ Mẫu ở bên tay trái từ tam

quan vào chùa, trên cùng là tượng Phật Mẫu
18

Số 25 - Tháng 9 - 2018

Diêu Trì, bên dưới là tượng Thiên Y A Na Thánh
Mẫu. Bên trái tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu là
ban thờ Quan Công. Bên phải tượng Thiên Y A
Na Thánh Mẫu là ban thờ nhị thập bát tiên, bài
vị của vị sư tổ, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
và chân dung Đại tướng Võ Nguyễn Giáp.
Một ví dụ khác là cách bài trí trong chùa
Suối Đổ và chùa Nghĩa Quang, Thiên Y A Na
được thờ trong chính điện. Theo đó, chính
giữa là cung thờ Phật, bên phải từ tam quan
vào là cung thờ Quan Thánh Đế và bên trái là
cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Tuy nhiên
trong chùa Nghĩa Quang (Phương Sài, tp. Nha
Trang), thì cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
lại bài trí như sau: Hàng trên cùng là tượng
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, hàng thứ hai là Tam
tòa Thánh Mẫu, hàng thứ ba là Ngũ hành thần
nữ và bên dưới là hạ ban thờ Ngũ Hổ, Thanh
Bạch Xà. Ngoài ra, nhiều chùa chỉ tạo dựng
am hoặc cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
trong khuôn viên như chùa Phước Huệ (Vĩnh
Hải, tp. Nha Trang), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương,
tp. Nha Trang), chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên
Khánh)... Không những thế, vào những ngày
vía của Thiên Y A Na Thánh Mẫu, người Việt

không chỉ đến dâng hương hoa, tụng niệm
kinh, mà họ còn thực hành nghi lễ hầu đồng
theo Tam - Tứ phủ Bắc hoặc Tiên Thiên Thánh
giáo/Tứ phủ Huế. Tiêu biểu như chùa Suối Đổ
(Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Bửu Long (Diên
Thọ, Diên Khánh), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương,
tp. Nha Trang)... Như vậy, chùa Việt ở Khánh
Hịa khơng chỉ dung hợp và đa dạng về hình
thức thờ tự, mà cịn tích hợp cả thực hành văn
hóa tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na. Đồng thời
thực hành văn hóa Phật giáo đã ảnh hưởng
vào tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
của người Việt ở Khánh Hòa như lễ cúng chay,
tụng kinh Phật, lễ cầu quốc thái dân an, lễ thả
hoa đăng,...
2. Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần nữ
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống
canh tác nơng nghiệp lúa nước, cho nên hình
thành tục thờ các nhiên thần mang tính nữ,


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

được thể hiện đậm nét trong tâm thức cộng
đồng các tộc người. Điều này được phản ánh,
lưu truyền thông qua những huyền thoại dân
gian của các tộc người ở nước ta. Trước hết,
để tạo lập vũ trụ là công của nữ thần Mặt Trời
và nữ thần Mặt Trăng. Hai nữ thần này đã soi
sáng và sưởi ấm cho mặt đất từ thuở chỉ có

bùn, nước và bóng tối. Theo đó, huyền thoại
bà Nữ Oa cùng ơng Tứ Tượng đội đá vá trời, xây
núi, khơi sông, mà trong một cuộc thi tài bà
Nữ Oa đã chứng tỏ được sức mạnh của mình
nên đã giành chiến thắng. Bên cạnh đó là
những nữ thần gắn với những hiện tượng tự
nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Những yếu tố cội nguồn của vũ trụ và
nguồn sống được dân gian người Việt cho là
mang nữ tính. Đồng thời với đó là xu hướng
nữ hóa các vị thần, đặc biệt là những nhiên
thần như trường hợp năm bà Ngũ hành cịn
gọi là mẹ Ngũ hành. Đó là bà Thủy, bà Hỏa, bà
Kim, bà Mộc và bà Thổ. Theo quan niệm của
người phương Đơng thì Ngũ hành tức là năm
loại vật chất gồm Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim.
Mọi sự vật trên thế giới đều được sinh thành
từ sự vận động và chuyển hóa từ năm loại vật
chất cơ bản này. Mặt khác, dựa trên mối quan
hệ tương sinh tương khắc trong Ngũ hành để
lý giải mối quan hệ giữa các sự vật. Tục thờ Nữ
thần, Mẫu thần là một hiện tượng khá phố
biến trong đời sống tâm linh của người Việt và
cộng đồng các tộc người khác ở nước ta, cũng
như trên thế giới. Tục thờ Nữ thần của người
Việt mang tính bản địa và đã có từ xa xưa. Tác
giả Đặng Văn Lung viết: “Với tính chất là một
tín ngưỡng bản địa, tục thờ Nữ thần xuất hiện
khá sớm, cách đây khoảng 2.500 năm. Hoa văn
trống đồng Đông Sơn ghi nhận ngày hội thờ

nữ thần Mặt Trời tràn trề sôi nổi. Đến thế kỷ II,
Phật giáo vào Luy Lâu, Nho giáo cũng vào đó,
hai tơn giáo quốc tế chèn ép tín ngưỡng bản
địa. Đặc biệt, Phật giáo đã đưa Man Nương,
một bà mẹ Nước lên làm Phật Mẫu” (3, tr.28).
Nhưng theo không gian, điều kiện tự
nhiên, chủ thể, phương thức sản xuất, bối
Số 25 - Tháng 9 - 2018

cảnh lịch sử - xã hội, nhu cầu tín ngưỡng mà
mỗi vùng miền ở nước ta có những nét tương
đồng và khác biệt trong tục thờ Nữ thần. Theo
đó, Khánh Hịa là vùng đất do chúa Nguyễn
mở cõi vào năm 1653, có điều kiện tự nhiên
đa dạng như núi rừng, đồng bằng, biển đảo và
cộng cư đa tộc người, cho nên đã hình thành
những phương thức sản xuất tương ứng. Đó là
sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác
rừng và thương mại dịch vụ. Vì vậy mà tục
thờ Nữ thần của người Việt ở đây không chỉ
phổ biến, đa dạng mà nó cịn tạo nên sắc thái
riêng, đó là Ngũ hành thần nữ. Trong dân gian,
người Việt ở Khánh Hòa thường gọi là Mẹ Ngũ
hành hoặc Ngũ vị Thánh Bà... Đó là bà Thủy sắc
phục màu đen, bà Mộc sắc phục màu xanh, bà
Hỏa sắc phục màu đỏ, bà Kim sắc phục màu
trắng và bà Thổ sắc phục màu vàng. Trong Ngũ
vị Thánh Bà, bà Thổ được đặt ở vị trí trung tâm.
Đặc biệt là Ngũ hành thần nữ đã được các vua
triều Nguyễn ban tặng nhiều sắc phong chung

hoặc sắc phong riêng cho từng vị nữ thần. Tác
giả Đỗ Văn Khối cho biết: “Sắc phong chung
cho Ngũ hành được tìm thấy sớm nhất vào
năm Duy Tân thứ 5 (1911), hiện có ở nhiều
di tích, như miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh),
đình Phong Ấp (Ninh Hịa). Sắc phong riêng
cho từng vị trong năm vị thì Chủ thiết/Chúa sắt
thần nữ (tức là bà Kim) có sắc phong sớm nhất
là vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) tại miếu
Hội Đồng (Diên Khánh)” (2, tr.11).
Mặt khác, việc ban tặng sắc phong của
triều đình nhà Nguyễn cho Ngũ hành thần
nữ đã chính thức cơng nhận, tơn kính và cho
phép người dân được thờ tự. Theo kết quả
khảo sát của chúng tôi, nhiều ngôi chùa Việt ở
Khánh Hịa thường có miếu hoặc am thờ Ngũ
hành thần nữ như chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, tp.
Nha Trang), chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha
Trang), chùa Sắc Tứ Chí Linh (Vĩnh Phương, tp.
Nha Trang), chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, tp. Nha
Trang)... Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần
nữ trong chùa Việt ở Khánh Hòa xuất phát từ
nhu cầu và niềm tin dân gian của người Việt.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

19



VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Theo họ, đây là những nữ thần sáng tạo ra thế
giới vạn vật và mang lại cuộc sống cho cộng
đồng. Vì thế mà nhiều Phật tử dâng cúng và
xin phép các nhà sư được thờ phụng Ngũ hành
thần nữ trong chùa. Do đó, các am hoặc miếu
thờ Ngũ hành thần nữ trong chùa thường có
linh tượng và bài vị của 5 vị Nữ thần. Hơn thế
nữa, vào dịp vía Ngũ hành thần nữ (mùng
5 tháng 5 âm lịch), người Việt thường dâng
hương, hoa và thực hành lên đồng theo Tiên
Thiên Thánh giáo.
3. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ
Như chúng ta đã biết, trên nền tảng của
tín ngưỡng thờ Nữ - Mẫu thần, tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ - một hình thức thờ cúng người
mẹ hóa thân ở các miền trời, sơng nước, rừng
núi - được hình thành và phát triển sâu rộng
trong cộng đồng người Việt vùng châu thổ Bắc
Bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có
mối quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần và
Mẫu thần của người Việt. Mẫu Tam phủ là ba
người Mẹ mang biểu tượng siêu nhiên của ba
miền vũ trụ. Đây là các bà mẹ vũ trụ cai quản
những lĩnh vực quan trọng nhất của cư dân
nông nghiệp lúa nước: Mẫu Thiên phủ là bà
mẹ cai quản miền Trời; Mẫu Địa phủ là bà mẹ

cai quản miền Đất; Mẫu Thoải phủ là bà mẹ cai
quản miền Nước. Mẫu Tam phủ cịn có thể gọi
là Tam tịa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ
Mẫu Việt Nam. Tác giả Trần Lâm Biền viết: “Ban
thờ Mẫu có ba tượng gọi là Tam tòa Thánh
Mẫu. Gốc xưa gồm Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Thoải, Mẫu Địa. Bà Thượng Ngàn gắn với người
chết nên để riêng. Khi đạo Mẫu phát triển
vào thành thị do Mẫu Thượng Ngàn ít nhiều
gắn với tài lộc, nên Tam tòa Thánh Mẫu gồm:
Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Mẫu Thoải” (1,
tr.650). Theo tác giả Chu Quang Trứ, “Tam tòa
Thánh Mẫu là ba lực lượng siêu linh gắn với ba
khu vực của thế giới là Thiên phủ, Nhạc phủ
và Thủy phủ. Tứ phủ gồm: Thiên - Nhạc - Thủy
và Địa” (7, tr.11). Còn theo Trần Quốc Vượng, “Ở
đồng bằng Bắc Bộ, việc thờ thần Mẫu, dưới ảnh
20

Số 25 - Tháng 9 - 2018

hưởng Đạo giáo dân gian, được hệ thống hóa
thành “Tứ phủ công đồng” với ba Mẫu Thiên
Phủ, Địa phủ, Thủy phủ, hay có khi là bốn Mẫu,
thêm Mẫu Thượng Ngàn, đại diện Rừng Xanh.
Mẫu Liễu Hạnh thường được thờ riêng, hay
được đồng nhất với Mẫu Thiên phủ” (8, tr.238).
Đến thế kỷ XVI, tín ngưỡng này trở thành một
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức

người dân Việt. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được
thờ cúng cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản
miền trời, rừng, nước và những nhân vật lịch
sử hoặc huyền thoại có cơng với nước, với dân.
Theo thư tịch và huyền thoại, Mẫu Liễu là tiên
nữ giáng trần, làm người, rồi quy y Phật giáo,
được tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ” và là một
trong “Tứ bất tử” của người Việt. Tín ngưỡng
này cịn hỗn dung với Đạo giáo, Phật giáo
và các tục thờ dân gian khác của người Việt.
Ngồi ra, trong thần điện Tam phủ, Tứ phủ cịn
tích hợp nhiều vị thần của các tộc người khác
như người Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm...
Điều này không chỉ tạo nên tính đa dạng văn
hóa trong tín ngưỡng này, mà cịn phản ánh
mối quan hệ và sự gắn kết đa tộc người ở Việt
Nam. Có thể nói tín ngưỡng này như một “bảo
tàng sống” góp phần lưu giữ, trưng bày, giới
thiệu về giá trị lịch sử - văn hóa Việt Nam. Nói
cách khác, tín ngưỡng này thể hiện bản sắc
văn hóa dân tộc, thỏa mãn nhu cầu của người
Việt về tài lộc và sức khỏe.
Theo thời gian, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ đã xuất hiện ở Khánh Hòa từ
những năm đầu thế kỷ XX cùng với quá trình
nam tiến của người Việt ở vùng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Đây chính là hiện tượng khuếch tán
văn hóa theo bước di cư của người Việt đến
vùng đất mới. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hịa

gồm hai dịng, đó là Tam phủ, Tứ phủ Bắc và
Tứ phủ Huế/Tiên Thiên Thánh giáo. Tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở
Khánh Hòa chủ yếu được thực hành ở những
đền, điện tư trong những gia đình người Việt


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

gốc Huế, Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Kết quả
nghiên cứu thực địa cho biết, Tứ phủ Huế, còn
gọi là Tiên Thiên Thánh giáo, xuất hiện ở Khánh
Hòa từ những năm 30 của thế kỷ XX. Đó là đền
Diệu Linh (Phước Tiến, tp. Nha Trang), điện
Định Phước (Vạn Thắng, tp. Nha Trang), điện
Cứu Thế (Phương Sài, tp. Nha Trang), điện Nam
Minh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), điện Cơ Chín
Thượng Ngàn (Vĩnh Phước, tp. Nha Trang),
Thủy Long Bích điện (Ninh Ích, Ninh Hịa)...

họ vẫn ln mang theo và mong muốn bảo
lưu giá trị văn hóa truyền thống của họ trên
những vùng đất mới.

Tư liệu điền dã cho chúng tơi biết, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc của
người Việt ở Khánh Hòa xuất hiện từ sau năm
1954 bởi một bộ phận người Việt di cư từ các
tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (như Hà Tây (cũ),
Hà Nội, Hải Phịng, Nam Định, Hải Dương, Ninh

Bình, Thanh Hòa, Nghệ An…) vào Khánh Hòa
lập nghiệp. Những thần điện Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ Bắc cũng chủ yếu là những điện thờ
tư gia. Đó là đền Sịng Sơn (Phước Tiến, tp.
Nha Trang), đền Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên
Tiên (Cam Phúc Nam, Cam Ranh), Bảo Hà Linh
từ (Tân Phú, Cam Ranh), Tiên Hương Vọng từ
(Phước Tiến, tp. Nha Trang), điện Cửu Trùng
(Ninh Hiệp, Ninh Hòa), Bắc Lệ Linh từ (Phước
Long, Nha Trang), điện Trần Lộc Thiên Trường
(Phước Long, tp. Nha Trang)... Bên cạnh đó, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người
Việt cũng được dung hợp trong chùa Việt ở
Khánh Hịa. Đó là ban thờ Mẫu trong chùa
Nghĩa Quang (Phương Sài, tp.Nha Trang), Pháp
Tánh Linh từ chùa Pháp Tánh (Vĩnh Thọ, tp. Nha
Trang), điện Ngọc Diêu cung trong chùa Bửu
Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Phước Huệ
(Vĩnh Hải, tp. Nha Trang). Do vậy, những cung
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong ngơi chùa Việt
cịn là khơng gian thiêng cho các ông đồng,
bà đồng thực hành nghi lễ lên đồng Bắc hoặc
hầu đồng Huế. Có thể nói rằng, việc tạo lập
những thần điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của
người Việt ở Khánh Hịa từ xưa đến nay đã
góp phần vào q trình gìn giữ và trao truyền
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Bởi
vì, trong tâm thức của người Việt, dù đi đâu,

Một là, sự dung hợp Cửu Thiên Huyền Nữ

trong chùa Việt ở Khánh Hòa. Cửu Thiên Huyền
Nữ còn gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ nương
nương hoặc Huyền Nữ. Bà là nữ thần trong thần
thoại cổ đại Trung Quốc, sau được Đạo giáo tín
cử. Tác giả Nguyễn Tơn Nhan cho biết: “Cửu
Thiên Huyền Nữ cũng được gọi là Cửu Thiên,
Huyền Nữ, Cửu Thiên nương nương, là một nữ
thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, sau
này được Đạo giáo tôn thờ, trở thành một vị
nữ thần nổi tiếng rất có ảnh hưởng trong dân
gian” (5, tr.407). Truyền thuyết dân gian Trung
Quốc kể rằng: “Một hôm Cửu Thiên Huyền Nữ
cưỡi chim phượng đỏ, mặc bộ y phục chín
màu, đáp xuống hạ giới, trao cho Hoàng Đế lá
bùa dùng binh Lục Giáp Lục Nhâm và sách sai
khiến quỷ thần, đồng thời chế ra 80 cái trống
mà đánh bại Si Long” (4, tr.2211).

Số 25 - Tháng 9 - 2018

4. Sự dung hợp với các vị thần dân gian khác
Ngoài sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên
Y A Na, tục thờ Ngũ hành thần nữ, tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam - Tứ phủ, trong chùa Việt ở Khánh
Hịa cịn có sự dung hợp các vị thần của tín
ngưỡng, tơn giáo khác, tiêu biểu như Cửu
Thiên Huyền Nữ, Diêu Trì Kim Mẫu.

Trong dân gian người Việt lưu truyền về
câu chuyện Cửu Thiên Huyền Nữ dạy Lỗ Ban

làm nhà. Truyện kể rằng: “Thuở hồng hoang,
con người có hỏi Thần Nơng cách làm nhà để
ở. Thần Nông đứng thẳng dang hai tay ngang
vai, thế là con người làm nhà bằng mái như
giàn bầu, giàn bí. Kiểu nhà mái bằng này lợp
bằng lá cây nên gặp mưa dột tứ tung không
ở được. Bà Cửu Thiên thấy vậy bèn xuống trần
dạy cho cách làm nhà: Bà đứng thẳng hai tay
chống nạnh vào hơng. Lỗ Ban theo đó dựng
cột bắt kèo làm nên kiểu nhà hai mái dốc. Thế
là con người có nhà để trú nắng tránh mưa.
Thần Nơng thấy sự việc như vậy hận lắm, thề
rằng “Ta thề không chui qua dưới nách đàn
bà mà ở”. Bởi vậy, người đời hoặc đắp đàn cao

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

21


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

khơng lợp mái, hoặc xây miếu thì phải làm
mái bằng để thờ Thần Nơng. Tục ấy cịn duy
trì đến nay. Căn cứ vào truyền thuyết này, Cửu
Thiên Huyền Nữ được coi là tổ của ngành mộc,
ngành xây dựng nói chung và các ngành nghề
thủ cơng: dệt may, đục chạm, điêu khắc...” (6,

tr.78). Theo đó, chùa Việt Khánh Hịa thường
phối thờ Cửu Thiên Huyền Nữ trong cung
thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu như chùa Suối
Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Kim Long
và chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha Trang),
chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh),...
Hai là, sự dung hợp với Diêu Trì Kim Mẫu
trong chùa Việt ở Khánh Hịa. Trong dân gian,
Diêu Trì Kim Mẫu cịn được gọi theo những
danh xưng khác nhau như Vương Mẫu nương
nương, Vương Mẫu, Tây Lão, Kim Mẫu Nguyên
Quân, Kim Mẫu, Địa Mẫu, Phật Địa Mẫu Diêu
Trì,... Trong thần thoại Trung Hoa, Địa Mẫu
được Đạo giáo tôn đứng đầu các vị nữ thần.
Dân gian tôn bà là vị thần tượng trưng cho sự
trường sinh bất tử. Từ thuở bản khai hỗn độn,
Mẫu hóa sinh ra trước nhất, Mẫu là lớn nhất.
Tác giả Doãn Hiệp Lý cho biết: “Tây Vương
Mẫu là vợ của Phù Tang Đại Đế, sinh ra 7 người
con gái, cô út tự tiện xuống hạ giới lấy một
chàng trai nghèo tên là Đổng Vĩnh, bị Ngọc
Hoàng và Tây Vương Mẫu bắt trở lại thiên đình.
Chuyện này lưu truyền từ đời Hán và đời Tấn,
sau đó ngày càng được lưu truyền rộng hơn”
(4, tr.2211). Tư liệu của Huỳnh Ngọc Trảng và
Nguyễn Đại Phúc viết: “Tây Vương Mẫu trú tại
Ngọc Sơn, hình tướng như người, nhưng có
tướng lạ là đi beo, răng cọp, tiếng kêu rất
to, tóc như cỏ bồng bay phủ. Bà là thần chủ
quản về các loại bệnh dịch và ngũ tàn - thứ gây

nên sự tàn phế, hiểu rộng là các tai nạn… Tây
Vương Mẫu là biểu tượng nguyên khí thuần
âm, đối lại Đơng Vương Cơng là thần biểu
tượng nguyên khí dương, quản lý các tiên nam
đắc đạo. Tây Vương Mẫu được biết đến là vị
Thánh Mẫu chủ quản Diêu trì cung. Bà có 5 thị
nữ tên Hoa Lâm, Mỵ Lan, Thanh Nga, Dao Cơ
và Ngọc Chi. Diêu Trì cung có một báu vật là
22

Số 25 - Tháng 9 - 2018

loại đào tiên - gọi là bàn đào - ai ăn được nó
sẽ trường sinh bất lão. Loại đào này cứ 3.000
năm mới trổ hoa kết trái một lần. Khi đào chín,
Tây Vương Mẫu thường triệu tập chư tiên về
thưởng thức loại quả trường thọ này, gọi là Hội
Bàn đào. Tây Vương Mẫu là vị thần chủ quản
việc trường thọ, tức liên quan đến việc thọ yểu
của con người, nhất là nữ giới. Có lẽ đây là tín lý
cơ bản của tập tục thờ Tây Vương Mẫu là thần
độ mạng của phụ nữ Huế với mỹ hiệu là “Trung
thiên Tây cung Vương Mẫu bổn mạng Thánh
đức Tiên Bà” hay “Tây cung Vương Mẫu bổn
mạng Chúa Tiên” (6, tr.83).
Kết quả nghiên cứu thực địa cho chúng tơi
biết, Diêu Trì Kim Mẫu được thờ phụng trong
nhiều chùa Việt ở Khánh Hòa như chùa Bửu
Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Quán Âm
Sơn còn gọi là chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên

Khánh), chùa Linh Sơn/chùa Suối Ngổ (Vĩnh
Phương, tp. Nha Trang), chùa Phước Huệ (Vĩnh
Hải, tp. Nha Trang), chùa Quan Âm (Vĩnh Hải,
tp. Nha Trang)... Thơng thường, tượng Diêu Trì
Kim Mẫu được tạo ở thế đứng trên quả địa cầu
màu xanh với sắc phục màu đen. Theo lược sử
Phật Địa Mẫu Diêu Trì, thì trước khi Mẫu hóa
sinh ra có một vật thổ sản, đươc gọi là quả Địa
cầu. Quả Địa cầu là báu vật để Mẫu tích trữ
nhiều tài liệu phẩm thực dành cho sáu ngả
luân hồi sử dụng mà không bao giờ hết. Vào
ngày 18 tháng 10 âm lịch hằng năm là ngày
vía của Phật Mẫu Diêu Trì, chủ các điện thờ
thường lập đàn, dâng hương, đăng, trà, hoa,
quả, nước tinh khiết, tụng niệm kinh Địa Mẫu.
Những năm gần đây, trong ngày vía Phật Mẫu
Diêu Trì cịn có nghi lễ hầu đồng, hát chầu văn
theo tục thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc hoặc Tứ
phủ Huế/Tiên Thiên Thánh giáo và múa dâng
bơng. Đặc biệt, ngày vía Mẫu Diêu Trì tại chùa
Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh) được tổ chức
long trọng, nhiều đoàn về dâng hương, thực
hành nghi lễ hầu đồng, hát văn, múa dâng
bơng kính dâng lên Mẫu. Thơng thường, trong
một tháng âm lịch có 3 ngày Mẫu là ngày 8,
ngày 18 và ngày 28 âm lịch. Trong các ngày


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG


này, các con nhang đệ tử thường châm 6 cây
đèn, 5 nén hương, 6 ly nước lọc, hoa, trà, quả
và tụng niệm kinh Mẫu. Theo thông tin từ các
tín đồ, việc thực hành nghi lễ thờ Địa Mẫu của
họ là có sự chỉ dẫn của thần linh, thơng qua
nhiều hình thức khác nhau như báo mộng, ốm
đau lâu ngày chữa trị khơng khỏi...
Ngồi ra, chùa Việt ở Khánh Hòa còn dung
hợp với những vị thần của các tín ngưỡng, tơn
giáo khác như Ngọc Hồng, Thái Thượng Lão
Quân, Quan Thánh Đế, Nữ Oa, Tiên Dung, Chúa
Tiên Huyền Nữ, Thần Tài, Thổ Địa, Ngũ Hổ...
Tiêu biểu như cung thờ Mẫu trong chùa Chí
Lý, chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, tp. Nha Trang),
chùa Linh Phong (Phương Sơn, tp. Nha Trang).
5. Kết luận
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong
chùa Việt ở Khánh Hịa đã có từ lâu và ngày
càng trở nên phổ biến. Nó phản ánh truyền
thống văn hóa Phật giáo ln hịa hợp với tín
ngưỡng dân gian của người Việt, đồng thời thể
hiện niềm tin và nhu cầu tâm linh của cộng
đồng. Mặt khác, sự dung hợp tín ngưỡng thờ
Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa đa dạng về
đối tượng thờ phụng cũng như thực hành văn
hóa. Đó là sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y
A Na Thánh Mẫu, sự dung hợp Ngũ hành thần
nữ, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ Bắc, Tứ phủ Huế và nhiều vị thần của
những tín ngưỡng, tơn giáo khác. Sự dung hợp

tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong
chùa Việt ở Khánh Hịa khơng chỉ phổ biến, mà
nó cịn góp phần tạo nên sắc thái văn hóa Phật
giáo riêng. Khơng những thế, sự dung hợp tín
ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa
còn là kết quả tiếp biến văn hóa Việt - Chăm và
văn hóa Việt - Hoa.
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong
chùa Việt ở Khánh Hịa góp phần tạo nên tính
đa dạng về văn hóa Phật giáo nói riêng và văn
hóa tơn giáo Việt Nam nói chung. Tác giả Trần
Quốc Vượng nhận định: “Sắc thái đặc thù của
văn hóa tơn giáo Việt là sự hỗn dung tôn giáo
Số 25 - Tháng 9 - 2018

và từ đó hỗn dung văn hóa. Điều đó khiến
nảy sinh ở tâm thức người Việt cái mà nhiều
người trong và ngoài nước đều nhận thấy, là sự
khoan dung tơn giáo - khơng có “chiến tranh
tơn giáo” trong lịch sử Việt Nam vốn có lắm
chiến tranh (...). Sự hỗn dung văn hóa và tơn
giáo, nét đặc thù của bản sắc văn hóa Việt Nam,
nét trường tồn của văn hóa Việt Nam, được
cắt nghĩa về mặt địa văn hóa là do cái vị thế ở
giữa Đông Nam Á, nơi gặp gỡ và giao thoa văn
hóa giữa hai nền văn minh lớn nhất châu Á là
Trung Hoa và Ấn Độ” (8, tr.270-271). Tóm lại, sự
dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt
ở Khánh Hịa thể hiện tính truyền thống, tính
biến đổi, tính linh hoạt, tính tổng hợp và sắc

thái địa phương. Nói cách khác, sự dung hợp
tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh
Hịa góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn
hóa Phật giáo Việt Nam.
N.V.B
(TS., Trường Đại học Khánh Hòa)
Tài liệu tham khảo
1. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp
cận lịch sử, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Đỗ Văn Khoái (2013), Giản giới tục thờ Ngũ
hành thần nữ ở Khánh Hịa, Tạp chí Văn hóa, Thể
thao & Du lịch Khánh Hịa, (6).
3. Đặng Văn Lung (1991), Tam tịa Thánh Mẫu,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Doãn Hiệp Lý (chủ biên) (1994), Từ điển văn
hóa cổ truyền Trung Hoa, Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Tơn Nhan (2000), Bách khoa thư
văn hóa cổ điển Trung Quốc, Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội.
6. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc
(2013), Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia Thần, Nxb.
Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam
nhìn từ mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
8. Trần Quốc Vượng (2014), Trong cõi, Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 6 - 4 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 19 - 8 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2018


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

23



×