Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

sống, biển trong văn hóa dân gian của tộc người RALAI ở Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.53 KB, 4 trang )

SƠNG, BIỂN TRONG VĂN HỐ DÂN GIAN
CỦA TỘC NGƯỜI RALAI Ở KHÁNH HỒ

(In trong Văn hố Thơng tin Khánh Hồ số 6-2006, từ trang 15 – 17, 32 )
____________________Trần Kiêm Hồng
Việt Nam có 54 dân tộc anh em thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ -tộc người khác nhau: Nhóm ViệtMường, nhóm Mơn-Khơme, nhóm Tày-Thái, nhóm Hmơng-Dao, nhóm Tạng-Miến, nhóm Hán và nhóm
Nam Đảo. Tộc người Raglai là một tộc người trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo cùng với các dân tộc Chăm,
Êđê, Giarai, Churu. Nhóm Nam Đảo sống chủ yấu ở Tây Nguyên, chỉ có tộc Chăm ở Nam Trung Bộ và
Nam Bộ. Trong nhóm này chỉ có người Chăm phát triển cao hơn về trình độ xã hội, người Chăm đã xây
dựng được nhà nước cổ đại đầu Công nguyên với nền văn minh Chămpa rực rỡ.
Hiện nay vấn đề nguồn gốc tộc người Raglai vẫn đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu, có những nhận đinh khác nhau. Trong cơng trình “Văn hố, văn hố tộc người và văn hố Việt Nam”
của GS.TS Ngơ Đức Thịnh [Ngơ Đức Thịnh 2006: trang 228] đã viết: “Nhóm Đa Đảo …đó là đại diện cho
một nền văn hố mang đậm tính “biển” mà tổ tiên xa xưa là “người Sa Huỳnh” đã sáng tạo nên nền văn hoá
Sa Huỳnh cùng với nền văn hố Đơng Sơn, là một bằng chứng cho dù sau này, văn hoá của người Chăm và
nhất là của các tộc người khác ở Tây Nguyên ít nhiều xa rời môi trường biển, nhưng dấu vết về truyền
thống văn hố biển vẫn cịn đậm nét…” Là người công tác ở địa bàn miền núi Khánh Sơn của tỉnh Khánh
Hoà hơn 20 năm nay, đã đi gần khắp các địa bàn cư trú của người Raglai ở Khánh Hồ (Khánh Sơn, Khánh
Vĩnh, Cam Ranh…), tơi quyết định đi tìm thử văn hố biển của người Raglai cịn đọng lại trong các palơi
của họ ở đâu. Và tôi bắt đầu từ văn hoá dân gian của họ: những người Raglai đang sinh sống trên hai huyện
miền núi Khánh Hoà.
Người Raglai từ lâu sinh sống ở các vùng núi có độ cao trên dưới 500 mét, họ tập trung đông nhất
ở tỉnh Ninh Thuận (hơn 50% trên tổng dân số tộc người), tỉnh Khánh Hòa, một số khác sống rải rác trên
vùng núi các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng. Ở Khánh Hoà, người Raglai cư chiếm đa số ở hai huyện Khánh
Sơn, Khánh Vĩnh, một ít sống ở xã Cam Thịnh Tây, Cam Phước Tây, Sơn Tân, thị xã Cam Ranh, ở huyện
Diên Khánh , Ninh Hồ, hiện nay có một vài hộ sinh sống ở thành phố Nha Trang. Từ sau năm 1975, người
Raglai cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm của một nền kinh tế lạc hậu, thô sơ, lấy
nương rẫy làm phương thức chủ đạo.
Cùng với quá trình sinh tồn và phát triển của mình, người Raglai ở Khánh Hồ đã sáng tạo nên lớp
văn hoá dân gian. Lớp văn hoá này “đã được trao truyền cho các thế hệ kế tiếp thơng qua trí nhớ, truyền
miệng và qua thực hành xã hội. Nó giúp cho con người có được những ứng xử thích hợp với mơi trường tự


nhiên, điều hồ các quan hệ xã hội, những hiểu biết cần thiết trong sản xuất, trong dưỡng sinh và trị bệnh”.
Người ta thường nói văn hố dân gian là cội nguồn của văn hoá dân tộc, là "văn hoá gốc", "văn hoá mẹ".
Điều đó hàm nghĩa văn hố dân gian gắn với lịch sử lâu đời của dân tộc, là nguồn, sản sinh và tiếp tục
ni dưỡng văn hố dân tộc[Ngơ Đức Thịnh, Văn hoá dân gian với đời sống xã hội]. Như vậy, truyền
thống văn hoá biển của tộc người Raglai ở Khánh Hoà thể hiện như thế nào trong văn hố dân gian của họ
và những tàn tích về văn hố biển cịn lưu giữ gì trong các giá trị văn hố hơm nay? Chúng ta thử xét nội
dung của văn hoá được thể các lĩnh vực về ngữ văn dân gian (thành ngữ, ca dao, dân ca, sử thi,…); về nghệ
thuật dân gian (kiến trúc tạo hình, hội hoạ, trang trí dân gian, nghệ thuật biểu diễn…); Về tri thức dân gian
(môi trường tự nhiên, con người, ứng xử xã hội, sản xuất…); về tín ngưỡng, phong tục và lễ hội của người
Raglai ngày nay, qua đó tìm lại những nét nào cịn dính dáng đến văn hố biển như nhận định của một số
nhà nghiên cứu khi nói về tộc người này.
Trong ngữ văn dân gian, suốt 14.840 câu trong 28 khúc hát của Akhàt Jucar Udai – Ujàc đã có hơn
10 lần những nhân vật trong chuyện ra sông to biển lớn để tắm gội, tẩy rửa mọi ám ảnh hoặc nhờ cậy thần
linh ở biển khơi giúp đỡ. Sau đây là những lần tiêu biểu nhất trong chuyện:
Chàng Udai sau khi dùng phép linh đốt sạch nhà to, kho tàng, thiêu sống vợ chồng người Cọp,
tuốt gươm chém chết Chicapa Via Rawơi- con gái của họ, Udai mang xác em là nàng Nãi Tiluiq ra bờ nước
sơng to biển lớn để xóa sạch mọi ám ảnh của gia đình nhà Cọp:
“…Dừng chân ngựa chiến…
Chàng Udai đưa em gái đã chết về bên sông , bên biển
Rồi niệm chú viện phép thần linh cứu sống em…
Chàng Udai cứu sống em gái út của mình đây:…
…Sau đó hai anh em tắm nước biển lớn bãi dài
Bây giờ chàng bơi lội trong nước biển to…”

1


Cũng tại sông to biển lớn hai người con gái vua Chăm là Nãi Via (người chị ) và Nãi Riya (người
em) xin phép cha mẹ ra sông to biển lớn để tắm rửa. Tại đây , hai anh em Udai và Nãi Tiluiq hóa thành hai
con ruồi bay vào miệng nàng Via. Nàng Via thấy nặng tay nặng chân, biết mình đã có thai…

“…Bọn con gái từ làng khác- Làng của Vua ChămTên là Nãi Via người chị và Nãi Riya người em
Đi tắm sơng to biển lớn
Chúng nó xin phép với mẹ cha:
-Bây giờ bọn con gái tui xin với mẹ
Được đi tắm nước biển rộng sông to…
Nàng Via bị hàm oan mắc tội với vua cha với chàng Chita (chồng chưa cưới) bị ruồng bỏ nơi lối
kiến đường voi. Được chim Quạ thần hai lần cứu thoát, nàng Via chỉ còn một đường duy nhất là rời bỏ kinh
thành vua cha, tìm ra bờ nước sơng to biển lớn
“…Rồi nàng Via tự mình quyết định cuối cùng:
Đi ở nơi bờ nước bờ biển… bên bờ biển nước rộng dài…”
Udai đầu thai ra kiếp khác tự đặt tên mình là Ujàc, vừa lọt lịng chàng đã địi xuống biển tắm:
“…Sau đó nàng Via tự mình sinh con trai
Vừa lọt lịng mẹ cậu ta đã cất tiếng nói:
-Thơi nào ta thăm mẹ rồi đấy
Ta sinh lần nữa rồi đâu có dễ
Ta hãy xuống biển tắm thơi,
Ta xuống bơi lội nước sông đây…”
Sau khi giết sạch cả nhà vua Chăm, thiêu hủy tòan bộ lầu to đài lớn. Ujàc trả công cho Cậu Gà
trống thần, trả ơn cho Cậu Công. Hai anh em lại ra sông to biển lớn tắm rửa mọi tị hiềm hãm hại:
“…Chàng Ujàc làm xong mọi chuyện … rồi nói:
-Lửa cháy nhà ơng rồi, lửa cháy hết chổ bà…
hết từ heo, vắng bóng từ người… từ bọn trẻ…
Đi thôi… ta bảo hãy xuống tận bờ biển, xuống tận bờ sông
Đi làm cái lễ tẩy rửa mọi tị hiềm hãm hại…”
Hulơu Valàc nghe tiếng của chàng Ujàc đã đến hỏi nàng Via mẹ của Ujàc về làm vợ. Nhưng sau
đó Hulơu Valàc ngược đãi nàng Via, đánh chết nàng vứt ở lối kiến đường voi, được Quạ thần một lần nữa
cứu sống. Chàng Ujàc đến đánh đuổi Hulơu Valàc, xong chàng lại ra bờ sông to biển lớn để tắm gội:
“…Hulơu Valàc chạy thục mạng vào rừng …
Tiếp sau, hối thúc nhau ra bờ sông to biển lớn
Đến tận bờ nước biển nước sông kia…

Xuống đấy bơi lội, xuống đấy tắm rửa…
Hai anh em Ujàc và Nãi Tahla rẽ nước xuống gặp Vua thủy tề và hai anh em đã cưới hai chị em
con Vua Thủy tề:
“…Chàng Ujàc niệm thần chú
để nhập vào xứ sở của Chúa Hà Bá- Vua Thủy tề
Ào ào ào- anh sau em trước cùng đi
cuồn cuồn… cuồn cuộn…”
Hulơu Valàc muốn trả thù xưa đến cầu viện Putau Tuwaq là vua chủ thần linh biển khơi giúp đỡ
chống lại Ujàc nhưng không thành, Ujàc lại được chàng Jiphác là con trai của Putau Tuwaq giúp đỡ dùng
phéplinh vượt lên từ biển mênh mông cùng với Vợ và hai con của Ujàc đánh diệt Hulơu Valàc và các thế lực
thần ác.
Nàng Via , mẹ của Ujàc dùng gươm giết chết Hulơu Valàc- người chồng tàn ác của mình và
muốn đưa xác ơng ta về sông to biển lớn để tẩy rửa mọi tội lỗi nhưng Ujàc khơng chịu, chàng nói: “Hãy để
ơng ấy ngũ yên tại tảng đá thần- cây cau thần một góc”
Đất nước thanh bình mọi người cùng nhau ra bờ sơng to biển lớn để làm lễ tẩy rửa
“… Đòan quân của chàng Ujàc
Tắm nước biển sông to…
Để cho con gái con trai chúng tôi xuống bơi…
Bơi lội cho mệt mới thôi, bơi lội cho mệt mới nghỉ…”
Mặc dù không cần tính tóan ở mức độ chính xác , nhưng ta cũng có thể thấy được sự xuất hiện của
sơng to biển lớn vào khỏang trên dưới 2% của tòan bộ Akhàt Jucar Udai – Ujàc.
Trong các bản thảo sử thi akhàt jucar Raglai chúng tơi vừa hồn thành có thể thống kê được số lần
xuất hiện của biển lớn (tasìq), con sơng lớn (krịc) như sau:
 Awơi Nãi Tilơr: 160 lượt và vua thần biển xuất hiện đến 433 lượt trong 54 khúc hát.
 Amã dam CuvauVongcơi: 104 lần /24 khúc hát

2





Amã dam ChiSa: 63 lượt/ 21 khúc hát.

Thần biển (putau Tuwaq) trong các akhàt jucar Raglai ban đầu luôn làm khó dễ các nhân vật chính
trong câu chuyện như hợp quân cùng với Hulơu Valàc để đánh chàng trai Raglai Ujàc (akhàt jucar Raglai
Udai-Ujàc), bắt nàng Tilơr cống nạp trầm hương bằng đùi, ngà voi cao bằng đầu (akhàt jucar Raglai Awơi
Nãi Tilơr). Nhưng chính sau này lại gíup cho họ đánh thắng quân xâm lược Cur, Jawa hay đánh bại kẻ thù
hung ác Hulơu Valàc. Thần biển kết thân với người Raglai bằng cách cho con trai của mình (Jiphàc trong
Udai-Ujàc), cho cơng chúa con của mình là hai nàng Sa-ien, Matien cưới những các cô gái, các chàng trai
chiến binh Raglai dũng cảm tài ba. Vợ của putau Tuwaq cũng chính là vị nữ thần Via Valìq dạy cho người
Raglai biết đập bông dệt vải.
Những chàng trai, cô gái Raglai được sanh ra ngay trên bờ biển, cạnh những con sóng bạc đầu
ln ln trở thành con người tài giỏi. Chúng lớn nhanh như cây bí đỏ ban đêm, lớn như cây bầu ban ngay.
Không chỉ giúp cho các chiến binh, giúp cho tất cả mọi người rửa hết mọi chuyện ô uế, tị hiềm
hãm hại, nước sông, nước biển cũng còn giúp cho chú trâu thần cởi lốt hoá thành người (akhàt jucar Raglai
Amã CuvauVong cơi). Con sơng thần lớn cũng chính là nơi chàng trai Raglai ChiSa gặp cô gái con những vị
thần linh để kết thành đôi lứa; Những đám cỏ non, những cánh đồng bằng phẳng xanh rì trong các chuyện
cổ akhàt ter, các thành ngữ Raglai đều được đặt trên những con đường ra biển lớn sông to. Truyền thuyết
Raglai kể lại núi cơ Tiên (phía Bắc thành phố Nha Trang) nằm xỏa tóc đầu hướng về núi, chân thả xuống
biển chính là hình ảnh của nữ thần Tilơr chận đường đàn voi thần để xin ngà cống nạp cho vua thần biển
putau Tuwaq, tảng đá lớn nơi nàng Tilơr giặt giũ áo bào chiến trận là Hòn Chồng ngày nay ở tỉnh Khánh
Hoà (Phường Vĩnh Hải-Nha Trang-Khánh Hoà).
Trong Akhàt Jucar Cơi Vaxiri Mỏq Vila (Ông trồng cây , Bà xây núi), một câu chuyện có âm
hưởng như chuyện Sự tích “Cha Rồng -Mẹ Tiên” của người Việt. Câu chuyện kể lại nguồn gốc của các
dịng họ Raglai mang đầy tính huyền thoại, nhưng ở đây sinh ra con cháu không phải là thần thánh mà chính
những con người trần gian. Đó là hai anh em ruột được Cơi Vaxiri Mỏq Vila cứu sống trong một cơn Đại
Hồng Thủy, tất cả đều chết hết trong biển lớn . Và cũng từ đây con người sinh sơi phát triển từ hai người
sống sót…
Theo chân các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trong các đợt điền dã, tham gia các buổi liên hoan
văn hóa văn nghệ của bà con Raglai trong các palơi ta vẫn thường nghe nhắc đến những chiếc bè, chiếc tàu

màu trắng được thả theo con suối xuôi về sông to biển lớn trong các làn điệu dân ca Raglai.
“…Cô nàng cây cau rừng.
Con tàu mình rời neo
Con đị rời xứ
Ơi nhé con đị nhỏ…” (Lý cây cau rừng)
Hay con sơng dẫn ra biển chứng giám mọi điều khi chàng trai, cơ gái thề non hẹn biển:
“…Có con sơng làm chứng,
Có son sơng tỏ mọi điều
Dịng sơng chảy qua bờ lau sậy
Từ này về sau
Từ sau mãi về sau nữa...” (Hò đối đáp-AhiAhư)
Viếng một Lễ bỏ ma của người Raglai chúng ta lại thấy hình ảnh chiếc thuyền Kơgoq trắng được tơ
điểm hoa văn ngự giữa nóc nhà mồ, thật nhỏ bé so với thiên nhiên hùng vĩ giữa màu xanh của núi rừng
trùng điệp. Phải chăng con tàu trắng đưa linh hồn của họ trở về lại nơi xuất phát của cha ông, của tổ tiên
ngày trước.
Trong thế giới tâm linh của người Raglai, thần biển (putau Tuwaq) cùng với thần đất, núi, rừng ở
tầng mặt đất trong cõi trần gian. Ta có thể mơ hình hố về thế giới quan của họ như sau:
Tầng trên trời: Thượng đế (Aluah)

Tầng trên trời:Putau ia huruơi,
via Vila, Sagana…
Cõi sống

Cõi chết

Tầng Mặt đất:
Ỳac Chưq, Yàc Dlai,
Puatu Tuwaq…

Tầng dưới mặt đất: Putau Longca

Longgadir, Ching tar inã garai…

Tầng Mặt đất:
Ông bà tổ tiên

Tầng dưới mặt đất:Quỷ sứ (Vhùq)

Chết (Matai)

3


Trong các cuộc lễ tạ, lễ cúng cầu an của người Raglai ở Khánh Hoà hiện nay vẫn phổ biến việc làm
các con bè trắng là tàu, thân cây chuối. Trên con bè để một hay ba ly (cắt cây lồ ơ thành ly) rượu trắng, vài
miếng trầu cau, có thể bỏ thịt, cơm…Sau khi cúng kiếng xong, họ mang ra để ở ở sông, bờ suối để thả cho
con bè trơi theo dịng nước. Khi đi điền dã ở xã Thành Sơn, chúng tôi đã nghe ông Cao Xà Buôn cho biết
rằng: Đối với người Raglai, khi trong nhà có người bị tai nạn như cây đè, cọp vồ, chết bất đắc kì tử, chết do
ngun nhân nào đó mà không phải do già yếu… họ đều làm con bè thả xuống suối cùng với lễ vật để cầu
mong nhang (`yàc) đừng làm hại người khác trong gia đình nữa. Con bè sẽ chở lễ vật xuôi về biển, về với
ông bà (?).
Trong đồ dùng hằng ngày hiện nay của người Raglai, chúng ta vẫn còn thấy hoa văn như sóng biển
trên ống đựng tên của họ, hay ở đường diềm cà chăn (váy) của những phụ nữ Raglai già vẫn còn mang tại
một số palơi ở huyện Khánh Sơn.
Trong cơng trình Văn hố Ngun thuỷ, E.B Taylor đã cho rằng “Những sự kiện của một nền văn
hóa thấp đã tiêu vong vẫn cịn lại trong nền văn hóa cao hơn đang tồn tại… Những nghi thức, tập quán,
những quan điểm đã từng là những thói quen, được truyền tải từ giai đoạn trước sang một giai đoạn khác
muộn hơn, nơi chúng còn lại như những chứng cớ sinh động, những tượng đài của quá khứ” chính là tàn
tích của nền văn hố đó. Mặc dù vậy, trong phạm vi bài viết này, chúng tơi khơng hề có ý định chứng minh
hay khẳng định biển là biểu tượng văn hố của tộc người Raglai ở Việt Nam. Mục đích ở đây chỉ cung cấp
thêm cho các nhà nghiên cứu một vài dữ liệu về hình ảnh của biển trong văn hố dân gian ở tộc người

Raglai mà chúng tơi góp nhặt từ các tài liệu, từ các đợt điền dã của chúng tơi mà thơi. Cơng việc nghiên
cứu, tìm hiểu biển có phải là biểu tượng văn hố, là chứng tích một thời của người Raglai thuở phải theo
“địan quân” của khối Malayô- Pôlinêdi từ các đảo Nam Trung Quốc di cư xuống vùng Đơng Nam Á để tìm
đất mới, hay nền văn hoá của họ là văn hoá biển như người Chăm trong nhóm ngơn ngữ Nam Đảo…việc đó
là của các nhà khoa học.
__________________________TKH
54 Hồng Văn Thụ-Cam Ranh-Khánh Hồ
________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 NGƠ ĐỨC THỊNH, Văn hố, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam, H.Nxb KHXH, 2006, 861
trang.
 NGƠ ĐỨC THỊNH, Văn hố vùng & phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb Trẻ,2004
 PHAN VĂN BIÊN (chủ biên),Văn hóa& xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb KHXH, 1998.


PHAN ĐĂNG NHẬT (chủ biên), Luật tục Chăm & Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2003.



VIỆN KHOA HỌC XHVN , Kho tàng Sử thi Tây Nguyên, Nxb KHXH, 2004.

4



×