Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
Dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc là
một trong những nội dung tư tưởng cơ bản trong toàn bộ hệ
thống tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam.
1. Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời đại Hồ
Chí Minh có thể nói trước hết là vấn đề dân tộc thuộc địa với nội
dung cơ bản là giải phóng dân tộc. Kế thừa tư tưởng của V.I.Lê
Nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, rằng chỉ có chế độ Xơ Viết
mới có thể đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc và thật sự
đồn kết tất cả những người vơ sản, quần chúng lao động trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Ngay từ năm 1923,
Nguyễn ái Quốc đã rút ra kết luận quan trọng mang tính định
hướng cho tư tưởng chỉ đạo của Người khi trực tiếp về nước
lãnh đạo cách mạng Việt Nam: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô
sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”.(1)
Với tư tưởng định hướng và nhất qn đó trong suốt q
trình lãnh đạo cách mạng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
thực dân, đấu tranh chống thù trong giặc ngồi, Hồ Chí Minh đã
chỉ cho tồn Đảng, toàn dân thấy rõ mục tiêu của cách mạng
nước ta nội dung cốt yếu của vấn đề dân tộc - quốc gia. Vấn đề
dân tộc, trước hết và thiết yếu của toàn thể quốc gia là dân tộc
độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng có ách thống trị
của ngoại bang; một dân tộc, một đất nước do người Việt Nam
làm chủ, lãnh đạo và điều hành vì tự do và hạnh phúc của tồn
thể đại gia đình các dân tộc. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó,
Hồ Chí Minh đã kêu gọi và tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới ngọn cờ đỏ búa liềm, dưới ngọn cờ đỏ sao vàng,
đấu tranh giành độc lập dân tộc từ năm 1930, từ Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến nay.
Với tư tưởng định hướng quan trọng đó, trong suốt q
trình cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Đây là vấn đề mới về lý luận và khơng đơn giảngười khi nhìn
nhận, áp dụng vào thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ. Vấn đề dân
tộc, vấn đề giai cấp ở một nước thuộc địa nửa phong kiến trong
những năm đầu thế kỷ XX cần được hiểu về tiêu chí và cách
phân loại ra sao? Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc đến đâu?
Phạm vi giải quyết vấn đề giai cấp ở nước ta lúc đó như thế nào?
Mối quan hệ của vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta lúc đó
thực chất là gì? Chỉ có đặt trong bối cảnh đó, chúng ta mới thấy
hết được sự sáng suốt, tư duy lý luận và thực tiễn của Hồ Chí
Minh trong xử lý các vấn đề lý luận về dân tộc và giai cấp trong
hoàn cảnh và điều kiện của cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Với
sự sáng suốt đó, Người đã khắc phục được sự bế tắc mà các nhà
yêu nước theo tư tưởng phong kiến hay tư sản trước đó đã gặp
phải về con đường giải phóng dân tộc. Sự sáng tạo về tư tưởng
của Người là: giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hai
tiến trình gắn bó chặt chẽ với nhau.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về công tác
dân tộc đã khẳng định: Việt Nam là một quốc gia thống nhất
gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc ở nước ta có một q trình lịch
sử cư trú lâu đời, sớm hình thành truyền thống yêu nước đấu
tranh chống ngoại xâm, truyền thống lao động sáng tạo của nền
văn minh nông nghiệp lúa nước, phát huy giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam ln gắn bó đồng tâm đồng lòng chống
giặc ngoại xâm, chống thiên tai địch hoạ... Tư tưởng về một
quốc gia đa dân tộc với truyền thống đoàn kết trong một cộng
đồng thống nhất tạo nên một sức mạnh vô song để vượt qua các
cơn phong ba, những lúc nguy nan của đất nước. Tư tưởng đó
của Người thể hiện nhận thức phù hợp với thực tiễn khách quan
của lịch sử dân tộc ta đã trải qua thử thách qua hàng ngàn năm.
Đó là “tài sản vô giá” để phát huy trong thời đại của cách mạng
vô sản, Người viết: “Đồng bào các dân tộc không phân biệt lớn
nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ
như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung,
xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh
phúc, ấm no”. (2)
Không chỉ kế thừa, mà ở Người “tài sản lịch sử vơ giá” đó
đã được phát huy thành một sức mạnh tinh thần và vật chất to
lớn, để đánh tan mọi âm mưu xâm lược của các thế lực thực dân,
đế quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã chỉ
rõ: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục
triệu hội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh,
gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt
Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai,
gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu nghèo”(3).
Tư tưởng về một nước Việt Nam thống nhất của Hồ Chí
Minh cịn được biểu hiện sinh động trên nhiều phương diện
trong các lĩnh vực hoạt động cách mạng. Nước Việt Nam là
quốc gia thống nhất không chỉ sự thống nhất của các cộng đồng
hàng mấy chục dân tộc mà còn là sự thống nhất về lãnh thổ,
giữa các vùng miền của đất nước “Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một”. Khi miền Bắc trên con đường xây dựng
xã hội XHCN, Người đã nói: “Chúng ta phải làm cho miền núi
và trung du thành một nơi giàu có về nơng nghiệp để nâng cao
hơn nữa đời sống của nhân dân, để thực hiện cơng nghiệp hố xã
hội chủ nghĩa nước nhà”(4).
Quốc gia đa dân tộc thống nhất trong đa dạng là vấn đề
thực tại khách quan của lịch sử. Tính thống nhất của cộng đồng
54 dân tộc ở nước ta được hình thành trong một q trình lịch sử
dài lâu, mang tính cố kết bền chặt và được thể hiện tập trung
trong ý thức mình thuộc về một Quốc gia thống nhất. Tư tưởng
về nước Việt Nam thống nhất là một trong những ý thức quan
trọng của Người về chủ quyền lãnh thổ, về hình hài của một
Quốc gia mà “các Vua Hùng đã có cơng dựng nước” mà Người
và các chiến sĩ của Người “phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tính
thống nhất của một nước Việt Nam chính là động lực thơi thúc
Hồ Chí Minh trên con đường tim đường cứu nước và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam cho đến hơi thở cuối cùng. Hình ảnh “Nam
Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, và một
ngày đất nước chưa thống nhất, đồng bào Nam Bắc chưa sum
họp một nhà thì Người ăn chưa ngon, ngủ chưa yên, là nỗi trăn
trở lớn lao của Người trong những năm đấu tranh thống nhất
nước nhà.
Người coi trọng tính đa dạng của bản sắc văn hóa dân tộc.
Các dân tộc nước ta có bản sắc văn hóa riêng, có nhiều truyền
thống tốt đẹp tạo lập nên tính đa dạng, phong phú trong tính
thống nhất của nền văn hiến Việt Nam.
3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơng tác dân tộc được thể
hiện qua chủ trương, nguyên tắc hoạch định chính sách dân tộc
là: các dân tộc đồn kết, bình đẳng, tương trợ lẫn nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin về vấn
đề dân tộc vào thực tiễn tình hình và yêu cầu cụ thể của cách
mạng Việt Nam, thấu hiểu sâu sắc tình hình, truyền thống lịch
sử văn hóa của các dân tộc Việt Nam, Bác Hồ đã đề ra nguyên
tắc cơ bản và có thể nói cũng là thể hiện quan điểm tư tưởng
mang tính nền tảng của Người về cơng tác dân tộc ở nước ta:
đồn kết, bình đẳng, tương trợ.
Nói đến cơng tác dân tộc là phải nói đến ngun tắc đồn
kết. Đồn kết là truyền thống lịch sử vốn có của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, Người trân trọng và coi đó là truyền thống
quý báu, là cái làm nên sức mạnh của dân tộc. Đồn kết khơng
chỉ là vì các dân tộc phát triển không đồng đều về kinh tế - xã
hội mà đồn kết các dân tộc cịn là vì dân tộc ta trong cách mạng
dân tộc, dân chủ luôn đứng trước những thử thách lớn lao của
lịch sử và ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước với đầy những thách thức mới mẻ về quản lý kinh tế, quản
lý ss, giữ gìn và củng cố an ninh quốc phòng. Thực tiễn cách
mạng nước ta đã chứng minh sức mạnh vơ song của khối đại
đồn kết các dân tộc.
Nói đến cơng tác dân tộc, là phải thấu hiểu và thực hiện
nguyên tắc bình đẳng. Các dân tộc trong cộng đồng quốc gia
Việt Nam đều bình đẳng với nhau về nghĩa vụ và quyền lợi
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời,
Hiến pháp năm 1946 đã cơng bố quyền bình đẳng trước pháp
luật của mọi công dân, không kể là dân tộc đa số hay thiểu số:
“Đất nước Việt Nam là khối thống nhất Trung Nam Bắc không
thể phân chia” (Điều 2). Và “Ngồi sự bình đẳng về quyền lợi,
những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để
chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8). Bình đẳng là cơ sở của
đồn kết giữa các dân tộc, nếu khơng có bình đẳng thì khơng thể
có đồn kết thực sự. Các dân tộc Việt Nam đều là thành viên của
một nước Việt Nam độc lập dưới sự lãnh đạo của một Đảng,
một Chính phủ. Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số tại
Plâycu năm 1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu VN, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên
lạc, hai là vì có kẻ xúi giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước
Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại
biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “Nha dân tộc thiểu số” để săn
sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là giang
sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc
chúng ta phải đồn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng
hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính
trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của
chúng ta và con cháu chúng ta”.
Tương trợ giúp nhau giữa các dân tộc không chỉ là yêu cầu
mà còn là tất yếu khách quan trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. Các dân tộc ở nước ta với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội không đồng đều, lại cư trú vừa phân tán vừa xen kẽ
nhau trên một địa bàn rộng lớn. Trong xã hội phong kiến và
dưới chế độ thực dân, các dân tộc phát triển rất không đồng đều
về kinh tế, đa dạng về phong tục tập quán... Trước nhu cầu của
sự phát triển đất nước theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, nếu khơng có sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau thì mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, việc rút ngắn khoảng cách giữa các
vùng, các dân tộc khơng chỉ gặp khó khăn mà cịn sẽ mất một
khoảng thời gian dài...
Tư tưởng đồn kết, bình đẳng, tương trợ của Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng để Đảng ta hoạch định và thực hiện chính
sách dân tộc. Người luôn nhắc nhở và yêu cầu các cấp uỷ Đảng,
chính quyền phải khắc phục tư tưởng “dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, tự ti dân tộc” phấn đấu và đặt lợi ích cộng đồng, quốc gia
lên trên hết. Đó cũng chính là yếu tố đồn kết, yếu tố tạo nên sự
bình đẳng và giúp đỡ tương trợ nhau trong cộng đồng các dân
tộc.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân tộc trong thời
kỳ hồ bình, xây dựng đất nước với mục tiêu là làm cho đồng
bào các dân tộc được no ấm, được học hành và phát triển tồn
diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tư tưởng đó của
Người được thể hiện qua những luận điểm sau:
- Người đánh giá đúng vị trí, tầm quan trọng, tiềm năng to
lớn của miền núi và các dân tộc nước ta trong sự nghiệp cách
mạng: “Miền núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với
quốc phòng, đối với kinh tế”(5 ) . Người đánh giá cao bản lĩnh,
tính thật thà, chất phác, trọng lẽ phải của đồng bào các dân tộc:
“Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì
đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được”(6).
Từ đánh giá đúng vai trò của miền núi và vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, làm cơ sở để đề ra chiến lược và mục tiêu phù
hợp với nhiệm vụ cách mạng cụ thể trong từng thời kỳ. Tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm1960, Người đã chỉ rõ: “Vì
sự phát triển khơng đồng đều trong lịch sử, nên giữa miền xuôi
và miền núi, giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số tồn tại những
sự chênh lệnh về trình độ kinh tế - văn hóa. Riêng ở miền núi,
giữa vùng thấp và vùng cao, mức tiến bộ và trình độ sinh hoạt
càng có sự chênh lệnh... Đảng và Nhà nước dân chủ nhân dân
cần phải làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao và vùng
biên giới tiến kịp vùng nội địa, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân
tộc Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và
năng lực to lớn của mình, cùng nhau đồn kết chặt chẽ để tiến
lên chủ nghĩa xã hội”(7).
Theo Người, muốn thực hiện tốt chính sách dân tộc,
cơng tác dân tộc thì phải am hiểu về miền núi, về con người
miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, vì mỗi dân tộc thiểu số
có nếp sống, tâm lý, bản sắc riêng đa dạng và phong phú. Muốn
tiến hành sự nghiệp cách mạng nói chung và công tác dân tộc
nói riêng, thì phải “nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi
nơi”(8) . Tính đặc thù trong từng dân tộc là yếu tố hết sức cần
chú ý khi thực hiện công tác dân tộc. Các dân tộc sinh sống
trong từng vùng (tỉnh, huyện, xã...) khác nhau thì có những đặc
thù khác nhau về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tâm lý, văn
hóa, phong tục tập qn địi hỏi phải có biện pháp cụ thể đối với
từng vùng. Đây là một luận điểm rất cơ bản mà trong nhiều năm
qua chúng ta chưa chú ý đúng mức đến vấn đề này. Người đã
chỉ ra cho cán bộ làm cơng tác dân tộc: “Một tỉnh có đồng bào
Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền, huấn luyện đối với đồng
bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho
thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ của đồng bào Mèo và Thái
khác nhau, cho nên tuyên truyền huấn luyện phải khác
nhau...”(9)
- Xác định vai trò to lớn của Nhà nước, của các cơ quan
đoàn thể và cán bộ đối với sự phát triển của vùng dân tộc và
miền núi: Người luôn nhắc nhở và giao nhiệm vụ cho các cơ
quan Trung ương phải có trách nhiệm đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số. Người nói: “Các cơ quan Trung ương phải có kế hoạch đẩy
mạnh phong trào miền núi lên về kinh tế cũng như về văn hóa,
tất cả các mặt”(10). Trách nhiệm thực hiện công tác dân tộc là
của mọi ngành, mọi cấp, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của
một cơ quan chuyên trách làm công tác dân tộc. Cán bộ công tác
dân tộc, nhất là những người trực tiếp làm việc ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc phải am hiểu phong tục, tập quán, nắm được
tâm tư nguyện vọng của đồng bào “nghe dân nói và nói dân
hiểu”. Bác đã khuyên nhủ chúng ta rằng: “Nước ta có nhiều dân
tộc, đấy là điều tốt. Thường mỗi dân tộc có tiếng nói riêng, cán
bộ đi làm việc chỗ nào phải học tiếng chỗ ấy”(11) . Cán bộ làm
công tác dân tộc phải thật sự “Trọng dân, gần dân, học dân, hiểu
dân và có trách nhiệm với dân”.
Hội nghị Trung ương 7 khóa IX của Đảng ra Nghị quyết
“Về công tác dân tộc” đã khẳng định: “Ngay từ khi mới ra đời
và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác
định vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc và đồn kết các dân tộc có
vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên
những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính
sách dân tộc với những nội dung cơ bản là: Bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Trải qua các thời kỳ cách
mạng, công tác dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất
nước”(12). Nghị quyết Hội nghị Trung ương cũng chỉ rõ trong
thời kỳ cách mạng hiện nay, các cấp, các ngành cần phải quán
triệt và thực hiện những yêu cầu nội dung và nhiệm vụ cơng tác
dân tộc, đó là:
Trước hết, tồn Đảng, tồn dân phải nhận thức đầy đủ vấn
đề dân tộc, chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đó là một bộ
phận quan trọng của công tác cách mạng, là bộ phận cấu thành
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo.
Thứ hai là nhiệm vụ đổi mới về công tác dân tộc của các
cấp, các ngành, của hệ thống chính trị hiện nay là tập trung phát
triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng của vùng đồng bào
dân tộc và miền núi, đẩy mạnh cơng tác xóa đói giảm nghèo,
quan tâm đầy đủ, đúng mức tới các dân tộc ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng và kháng
chiến. Phải cụ thể hơn nữa các nhiệm vụ chính trị trên đây thành
các hoạt động công tác thiết thực và có hiệu quả.
Thứ ba là, các hoạt động sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học, cơng nghệ đối với vùng dân tộc và miền núi phải đổi
mới một bước mạnh mẽ, phù hợp thích ứng với đặc điểm, điều
kiện đặc thù của từng vùng miền.
Thứ tư là phải củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt
quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là
người các dân tộc thiểu số, tăng cường cán bộ cho cơ sở, thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.
Thứ năm là xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh
nhân dân, khơng ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác trước mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc để phá hoại sự nghiệp cách mạng của ta.
Thứ sáu là phải đổi mới công tác dân tộc cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng hiện nay. Kiện toàn
củng cố hệ thống các cơ quan làm công tác dân tộc từ Trung
ương đến địa phương.
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Trung ương 7, làm
cho Nghị quyết đi vào cuộc sống, chính là chúng ta tiếp tục học
tập và thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ về vấn đề dân tộc, đáp
ứng mong mỏi của Người lúc sinh thời “Ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vị cha già
của các dân tộc, về cơng tác dân tộc đã phản ánh biết bao hồi
bão, mơ ước và nguyện vọng của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng những điều đó đã và đang trở
thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội đối với các dân
tộc. Và vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh mn đời toả ngát hương
thơm trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
TS. Bế Trường Thành
Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc
Chú thích
1 Hồ Chí Minh tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
T1, tr 416.
2 Hồ Chí Minh tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
T10, tr 282.
3 Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn. T3, tr 553.
4 Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn. T11, tr 257.
5 Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II. Nxb Sự thật, Hà Nội. 1980, tr
305.
6 Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn, tr 309-310.
7 Đảng Lao động Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III. Hà Nội –1960, tr 124-125.
8 Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, tài liệu đã dẫn, tr 430.
9 Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn, tr 297.
10 Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn, tr 309.
11 Hồ Chí Minh - Các dân tộc đoàn kết. Nxb Sự thật, Hà Nội.
1984, tr 13.
12 Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCH TW. Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. 2003, tr 29-30.