Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tìm hiểu khả năng đọc, kể diễn cảm của trẻ 4 5 tuổi ở các trường mầm non thuộc tp đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.94 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GD MẦM NON
-------

Đề tài:

TÌM HIỂU KHẢ NĂNG ĐỌC, KỂ DIỄN CẢM
CỦA TRẺ 4 - 5 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
THUỘC TP. ĐÀ NẴNG

Giáo viên hướng dẫn : ThS. Lê Thị Thanh Nhàn
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Vơ Mơ
Lớp
: 11SMN1

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015
1


Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy, Cô trong Khoa
Mầm Non, trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã trang bị cho em
những kiến thức trong suốt bốn năm học. Những kiến thức đó là cơ sở giúp
em hồn thành khóa luận này.
Khóa luận của em được thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
ThS. Lê Thị Thanh Nhàn - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng.
Em xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Cơ đã nhiệt tình hướng dẫn và có ý kiến
chỉ dẫn q báu trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành khóa luận.
Em xin gửi lời biết ơn tới các Thầy, Cô trong thư viện trường Đại
học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã giúp đỡ, cung cấp các loại tài liệu cần
thiết trong suốt q trình nghiên cứu đề tài.


Ngồi ra, em xin chân thành cảm ơn các Cô giáo và các em học sinh
Trường Mầm non Hoa Phượng Đỏ, Trường Mầm non Tuổi Thơ, Trường
Mầm non số 1 Hòa Tiến, Trường Mầm non số 2 Hòa Tiến đã nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện để em thu được những kết quả, số liệu liên quan
đến đề tài và đặc biệt là trong thời gian tiến hành thực nghiệm.
Dù bản thân đã rất cố gắng, nỗ lực trong quá trình thực hiện để hồn
thành tốt đề tài nhưng do điều kiện, kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế của
bản thân nên khóa luận vẫn khơng tránh khỏi sai sót, hạn chế. Vì vậy, em
kính mong nhận được ý kiến đóng góp của q thầy cơ và các bạn để đề tài
được hồn thiện và mang tính khả thi hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Vơ Mơ

2


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 6
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .................................................................. 7
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................ 9
3.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 9
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 9
4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ......................................................................... 10
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................. 10
5.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 10
5.2. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 10
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................... 10

6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết ............................................................... 10
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn................................................................ 10
6.2.1. Phương pháp quan sát ........................................................................ 10
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng anket ...................................................... 10
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn ..................................................................... 11
7. CẤU TRÚC KHOÁ LUẬN ............................................................................. 11
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 12
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỌC, KỂ DIỄN CẢM TÁC
PHẨM VĂN HỌC CỦA TRẺ 4 - 5 TUỔI TRONG NHÀ TRƯỜNG MẦM NON
.............................................................................................................................. 12
1.1. Cơ sở lí luận về đọc, kể diễn cảm ................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm đọc, kể diễn cảm và khả năng đọc, kể diễn cảm ............... 12
1.1.2. Bản chất của hoạt động đọc, kể diễn cảm........................................... 18
1.1.3. Cơ sở khoa học của hoạt động đọc, kể diễn cảm ................................ 21
1.2. Hoạt động đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm
non ........................................................................................................................ 25
1.2.1. Vai trò của đọc, kể diễn cảm đối với việc phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ ................................................................................................... 25
1.2.2. Đặc điểm tác phẩm văn học dành cho trẻ 4 – 5 tuổi .......................... 29
1.2.3. Đặc điểm tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ 4 -5 tuổi trong quan hệ
với việc hình thành khả năng đọc, kể diễn cảm ............................................ 30

3


1.2.4. Yêu cầu hình thành và phát triển khả năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ 4 5 tuổi trong hoạt động làm quen tác phẩm văn học ...................................... 33
Chương 2: KHẢO SÁT KỸ NĂNG ĐỌC, KỂ DIỄN CẢM TÁC PHẨM
VĂN HỌC CỦA TRẺ 4-5 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON THUỘC TP. ĐÀ
NẴNG .................................................................................................................. 35
2.1. Thực trạng về năng lực đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4-5 tuổi ở

trường mầm non thuộc Tp. Đà Nẵng ................................................................... 35
2.1.1. Khái quát về quá trình khảo sát .......................................................... 35
2.1.2. Kết quả khảo sát thực trạng................................................................ 38
2.1.3. Đánh giá thực trạng về khả năng đọc kể diễn cảm tác phẩm văn học
của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ........................................................................... 49
2.2. Một số biện pháp phát triển khả năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cho
trẻ .......................................................................................................................... 56
2.2.1. Nâng cao chất lượng mẫu trong đọc, kể diễn cảm cho trẻ ................. 56
2.2.2. Kích thích tính sáng tạo và lòng tự tin trong đọc, kể diễn cảm cho trẻ
...................................................................................................................... 57
2.2.3. Tăng cường bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho trẻ ................. 57
2.2.4. Tăng cường thời lượng tổ chức rèn luyện kỹ năng đọc, kể diễn cảm cho
trẻ .................................................................................................................. 58
2.2.5. Nâng cao hiểu biết của giáo viên về năng lực đọc, kể diễn cảm ........ 59
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM ................................................... 61
1. KẾT LUẬN ...................................................................................................... 61
2. KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM .................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 63
PHỤ LỤC

4


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT

Nội dung

Bảng
1


2

3

4

5

6

Tầm quan trọng của việc đọc, kể diễn cảm trong hoạt động
làm quen với tác phẩm văn học.
Nhận thức của giáo viên về mức độ cần thiết của việc luyện
cho trẻ kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học.
Nhận thức của giáo viên về ý nghĩa khả năng đọc, kể diễn
cảm đối với trẻ.
Yếu tố nào quan trọng nhất đẻ hình thành khả năng đọc, kể
diễn cảm.
Thực trạng tổ chức luyện đọc thơ, kể chuyện diễn cảm cho
trẻ 4 – 5 tuổi.
Ý kiến của giáo viên về số lượng trẻ có khả năng đọc, kể
diễn cảm tốt.

Trang

34

35


36

36

38-40

43

7

Khi trẻ đọc, kể diễn cảm mức độ đạt được thường là.

8

Tiêu chí đánh giá khả năng đọc diễn cảm của trẻ 4 – 5 tuổi.

46-47

9

Tiêu chí đánh giá khả năng kể diễn cảm của trẻ 4 – 5 tuổi.

47-49

10

Thang đánh giá khả năng đọc diễn cảm của trẻ.

49-50


11

Thang đánh giá khả năng kể diễn cảm của trẻ.

50-51

5

44


A. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học là một trong những phương tiện quan trọng trong việc giáo dục
nhân cách trẻ cả về đạo đức, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ… Trẻ mầm non với tâm
hồn thơ ngây, trong trắng chưa có nhiều trải nghiệm; nhận thức về thế giới xung
quanh cịn ở mức cảm tính nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngôn từ
nghệ thuật và thế giới hình tượng trong tác phẩm văn học có một ý nghĩa vơ cùng
to lớn, là nền tảng để hình thành và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, giúp
các em biết rung cảm trước thế giới xung quanh đầy màu sắc, thanh âm, từ đó
biết yêu ghét, biết trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc đời.
Tuy nhiên, khác với người trưởng thành, trẻ em độ tuổi mầm non đến với
tác phẩm văn học bằng một phương cách đặc biệt. Trẻ không thực hiện giải mã
hệ thống kí tự của tác phẩm văn chương để tái tạo nên thế giới nghệ thuật. Với
trẻ, con đường duy nhất để trẻ tiếp xúc với những trang văn, trang thơ chính là
thơng qua hoạt động đọc, kể diễn cảm. Vậy nên, ở nhà trường mầm non, khi cho
trẻ làm quen tác phẩm văn học, hoạt động đọc, kể diễn cảm là hết sức quan trọng.
Tầm quan trọng đó trước hết thể hiện ở vai trị là phương pháp, thủ pháp dạy học
của hoạt động đọc, kể diễn cảm. Nhà văn sáng tạo tác phẩm bằng hệ thống ngơn
từ nghệ thuật. Đến lượt mình, người đọc, kể diễn cảm, bằng trí tưởng tượng

phong phú và khả năng cảm thụ độc đáo, sẽ vẽ lại bức tranh nghệ thuật đó bằng
chính thanh âm trầm bổng linh hoạt của giọng đọc, kể. Chất lượng của bức tranh
ấy sáng hay tối, sinh động hay nghèo nàn phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thể
hiện của chất giọng.
Bên cạnh tư cách là một phương pháp dạy học, trong hoạt động cho trẻ
làm quen văn học ở trường mầm non, đọc, kể diễn cảm còn được nhận thức là
một nhiệm vụ, một mục tiêu cần đạt. Ở đây, giáo viên không chỉ làm công việc
của một người chuyển tải thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học đến với trẻ
thông quan hoạt động đọc, kể diễn cảm. Quan trọng hơn, họ cần phải dạy cho trẻ
biết đọc, kể diễn cảm. Bởi vì, chỉ khi tự mình thể hiện tác phẩm, trẻ mới thực sự
đặt chân vào quá trình tiếp nhận văn học với ý nghĩa đích thực của nó. Chỉ khi trẻ
cất giọng đọc, kể, chỉ khi trẻ phát ra những thanh âm của ngôn từ nghệ thuật với
6


cảm xúc, với sự rung cảm của chính bản thân mình, lúc ấy mới chính là lúc trẻ
thể hiện đầy đủ nhất sự nhận hiểu cũng như sự rung động sâu xa của mình về thế
giới hình tượng của tác phẩm.
Chính vì thế, việc dạy cho trẻ đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học là một
nhiệm vụ, một nội dung dạy học hết sức cơ bản trong hoạt động cho trẻ quen với
văn học. Ý nghĩa của công việc này, như đã phân tích ở trên, khơng chỉ ở chỗ
giáo giúp trẻ nắm những giá trị nội dung trong tác phẩm, giúp cho việc làm giàu
những phẩm chất trí tuệ, cuốn hút trẻ tập trung nghe và phát triển chú ý có chủ
định, phát triển ngơn ngữ mà cịn hình thành ở trẻ năng lực cảm thụ văn học,
năng lực hoạt động văn học nghệ thuật, làm cơ sở cho việc cảm thụ văn học của
trẻ ở bậc học tiếp theo. Đồng thời, quá trình đọc, kể diễn cảm sẽ phát triển ở trẻ
những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ, trí tưởng tượng bay bổng; mặt khác tính tích
cực cá nhân, khả năng độc lập sáng tạo, sự tự tin cũng qua đó được rèn luyện.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc rèn luyện kỹ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ
trong trường mầm non là một công việc phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều yếu

tố như khả năng tiếp nhận của trẻ, năng lực tổ chức hoạt động của giáo viên, môi
trường giáo dục… Tất cả những điều đó khiến cho hoạt động đọc, kể diễn cảm ở
trường mầm non vẫn còn nhiều điểm bất cập dẫn đến chưa khai thác hết các lợi
ích của hoạt động này mang lại trong giáo dục toàn diện cho trẻ. Từ thực tế đó,
chúng tơi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về khả năng đọc, kể diễn cảm của trẻ 4 –
5 tuổi ở một số trường mầm non thuộc địa bàn Thành phố (Tp) Đà Nẵng nhằm
xác định điểm mạnh, điểm yếu, những khó khăn thuận lợi trong hoạt động rèn
khả năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ ở trường mầm non , làm cơ sở cho việc đề
xuất những biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đọc, kể diễn cảm đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển các năng
lực văn học của trẻ, do đó, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, việc
tổ chức hoạt động đọc, kể diễn cảm cho trẻ mầm non luôn là một vấn đề cơ bản
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bàn bạc.
Ở nước ngoài, có thể nói cơng trình“Đọc và kể chuyện văn học ở vườn
trẻ” của hai tác giả người Nga MK.Bogoliupxkaia và V.V.Septsenko do Lê Đức
7


Mẫn dịch, xuất bản năm 1978 là cuốn tài liệu có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến hoạt
động dạy văn ở trường mầm non của nước ta ngay từ những ngày đầu hình thành
bậc học trong hệ thống giáo dục. Nội dung chính của cơng trình là đề cập tới
nghệ thuật đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cũng như vai trị của ngơn ngữ
nghệ thuật trong việc giáo dục trẻ. Đặc biệt là, trong cuốn sách của mình, các tác
giả đã cung cấp một hệ thống thủ thuật cơ bản để đọc và kể chuyện văn học ở
trường mầm non. Đây là tài liệu quan trọng giúp trang bị cho giáo viên những cơ
sở lý luận lẫn các thủ pháp dạy học trong việc đọc các thể loại tác phẩm văn học
cho trẻ.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn
cảm cho trẻ cũng được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm. Điều đó,

được thể hiện ở sự ra đời nhiều cơng trình nghiên cứu.
Trước hết có thể kể đến cuốn tài liệu có nhan đề Cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học - một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Hà Nguyễn Kim Giang
(NXB ĐHQG Hà Nội, 2006). Trong cơng trình này, tác giả đã nêu ra những kết
quả nghiên cứu cơ bản của các nhà khoa học có tên tuổi trên thế giới như: P.M
Iacôp sơn, E.I Trikhiêva, A.V Zapôrôze… về khả năng, năng lực tiếp nhận văn
học của trẻ mầm non, đó là: trẻ mầm non hồn tồn có thể hiểu sâu sắc (ở mức
độ của trẻ) nội dung và tư tưởng tác phẩm văn học, có thể phân biệt được hình
ảnh nghệ thuật với hiện thực, chỉ ra và nhận xét được những phương tiện biểu đạt
hình tượng, ngơn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật, có khả năng nắm bắt được cơ bản
cách xây dựng cốt truyện, cấu trúc và mối quan hệ giữa các nhân vật…
Đi sâu vào hoạt động đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học, Hà Nguyễn Kim
Giang cịn cho xuất bản giáo trình “Phương pháp đọc diễn cảm”. Nội dung
xuyên suốt của tài liệu này là phân tích những quan điểm và cơ sơ lý luận của
việc đọc diễn cảm, một số phương pháp và biện pháp đọc diễn cảm, cách đọc
một số tác phẩm theo thể loại khác nhau. Tác giả đã nhấn mạnh vai trò của đọc
diễn cảm đối với việc hình thành nhân cách cho trẻ, coi việc đọc kể diễn cảm là
hoạt động quan trọng ở các trường mầm non.
Vấn đề đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cũng được đề cập khá cụ thể
và chi tiết trong các cơng trình về phương pháp cho trẻ làm quen tác phẩm văn
8


học ở trường mầm non. Các tác giả Lã Thị Bắc Lý và Lê Thị Ánh Tuyết trong
giáo trình “Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” đã đề cập khá
tỉ mỉ nghệ thuật đọc và kể chuyện diễn cảm, các thủ thuật cơ bản của việc đọc, kể
diễn cảm tác phẩm văn học.
Trong cơng trình “Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”
của Nguyễn Thị Tuyết Nhung và Phạm Thị Việt cũng có nhiều trang bàn về hoạt
động đọc, kể diễn cảm, trong đó các tác giả đặc biệt chú trọng đề cập đến phương

pháp đọc kể diễn cảm tác phẩm văn học, các yêu cầu và thủ thuật cơ bản khi đọc
và kể chuyện văn học, cách thức tổ chức hoạt động đọc, kể diễn cảm nhằm
chuyển tải tác phẩm văn học đến với trẻ.
Gần đây Hà Thị Kim Giang lại cho ra đời một tài liệu liên quan đó là giáo
trình “Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học” (2011).
Tài liệu này đề cập khá chi tiết vai trò của việc dạy trẻ đọc, kể diễn cảm và một
số vấn đề lưu ý của giáo viên khi tổ chức hoạt động này.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đã điểm qua ở trên cơ bản đã giải
quyết được một bộ phận lớn các vấn đề cốt lõi của hoạt động đọc, kể diễn cảm
tác phẩm văn học, xây dựng được một hệ thống cơ sở lí luận tương đối đầy đủ về
đọc, kể diễn cảm. Tuy nhiên, việc tìm hiểu về đọc, kể diễn cảm với tính chất là
một năng lực của hoạt động văn học vẫn là một mảng còn nhiều thiếu khuyết, rất
cần được quan tâm, nghiên cứu thêm để có thể khai thác tối đa sức mạnh của việc
đọc, kể diễn cảm trong việc nâng cao khả năng, chất lượng cảm thụ nghệ thuật
cho người học.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, đánh giá kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4-5
tuổi ở trường Mầm Non tại Tp.Đà Nẵng nhằm có cái nhìn đầy đủ, thấu đáo về
thực trạng kỹ năng đọc, kể diễn cảm của trẻ, làm cơ sở cho việc đề xuất các biện
pháp nâng cao năng lực đọc, kể diễn cảm cho trẻ mầm non.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận liên quan đến kĩ năng đọc kể diễn cảm của trẻ
mầm non.
9


- Tìm hiểu năng lực đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4-5 tuổi ở một số
trường mầm non thuộc tp.Đà Nẵng.
- Bước đầu đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác

phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Hoạt động làm quen tác phẩm văn học trở trường mầm non.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Khả năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện khảo sát để đánh giá năng lực đọc, kể diễn cảm ở trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi tại các trường: trường mầm non Hoa Phượng Đỏ, trường mầm non
Tuổi Thơ, trường Mầm non số 1 Hòa Tiến, trường Mầm non số 2 Hòa Tiến thuộc
thành phố Đà Nẵng.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thu thập, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa
những tài liệu có liên quan đến đề tài, cụ thể hóa lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở
lý luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Dự giờ, quan sát hoạt động dạy đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của
giáo viên cho trẻ 4 - 5 tuổi, khả năng thể hiện tác phẩm văn học bằng giọng đọc,
kể của trẻ nhằm đánh giá thực trạng kỹ năng đọc, kể diễn cảm của trẻ.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng anket
- Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên ở một số trường mầm non
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm: tìm hiểu nhận thức của giáo viên về ý
nghĩa của việc hình thành kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cho trẻ,
10


cách thức thực hiện nhiệm vụ dạy đọc, kể diễn cảm cho trẻ và đánh giá của giáo

viên về năng lực đọc, kể diễn cảm của trẻ 4 – 5 tuổi trên địa bàn nghiên cứu.
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn
- Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu sâu về đánh giá của giáo viên trong
việc rèn luyện kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4 -5 tuổi, lí
giải của giáo viên về chất lượng đọc, kể diễn cảm của trẻ.
7. CẤU TRÚC KHỐ LUẬN
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Khố luận gồm có 2
chương:
Chương 1: Hoạt động đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4-5 tuổi trong
nhà trường mầm non.
Chương 2: Tìm hiểu kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học của trẻ 4-5 tuổi
ở trường mầm non thuộc TP.Đà Nẵng

11


B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỌC, KỂ DIỄN CẢM TÁC
PHẨM VĂN HỌC CỦA TRẺ 4 - 5 TUỔI TRONG NHÀ TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Cơ sở lí luận về đọc, kể diễn cảm
1.1.1. Khái niệm đọc, kể diễn cảm và khả năng đọc, kể diễn cảm
a. Khái niệm đọc, kể
- Khái niệm đọc
Theo nhà nghiên cứu Lê Phương Nga thì đọc là một trong những bốn dạng
hoạt động ngơn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) nhằm chuyển dạng thức chữ viết sang
lời nói có âm thanh và thơng hiểu nó (ứng với các hình thức đọc thành tiếng),
hoặc là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa
khơng có âm thanh (ứng với đọc thầm). Như vậy, đọc nhằm giải một bộ mã gồm
hai bậc: từ chữ sang âm, từ âm sang nghĩa (Phương pháp dạy học Tiếng Việt – Lê
Phương Nga), [tr 7]. Thông qua đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một

phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được thế giới bên trong của người
khác, thơng hiểu được tư tưởng, tình cảm của người khác. Đọc giúp con người
hưởng thụ một cách tích cực các giá trị giáo dục của xã hội, hình thành một nhân
cách toàn diện. Đặc biệt, trong thời đại bùng nổ thơng tin hiện nay, hoạt động
đọc có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa con người tiếp cận với nhiều nguồn
thông tin, kênh truyền thông khác nhau nhằm làm giàu tri thức và kinh nghiệm
sống cho bản thân mình.
Việc đọc cịn mang lại những giá trị to lớn hơn khi tư liệu đọc là các tác
phẩm văn chương, vì những tác phẩm văn chương ln được tác giả viết lại từ
những cuộc sống bình dị, những sự vật hiện tượng hoàn toàn sát với thực tế đời
thường. Bước vào thế giới của những bài thơ, thiên truyện, tức là con người đang
đến một thế giới đầy ắp những điều kì diệu, huyền bí mà trên thực tế con người
chúng ta chưa được khám phá, được ngắm nhìn những vẻ đẹp của những mảnh
đất xa xôi và tiếp xúc những tâm hồn trong trẻo. Từ đó, tâm hồn con người sẽ
nảy mầm những hạt giống yêu thương và kết tinh thành những tình cảm đẹp cũng
như năng lực sáng tạo.
12


- Khái niệm kể và kể chuyện
Kể theo nghĩa thông thường là một động từ biểu thị hành động nói. Kể
chuyện là nói rõ đầu đi, là “kể một chuỗi sự việc có đầu có cuối, có liên quan
đến một hay một số nhân vật, mỗi câu chuyện cần nói lên được một điều gì đó có
nghĩa” (Lê Phương Nga). Với tư cách là một thuật ngữ, kể chuyện là khái niệm
chỉ phương pháp trực quan lời nói, sử dụng ngôn ngữ sinh động và cấu trúc mạch
lạc để thuật lại chuyện nhằm thu hút sự chú ý của người nghe. Như vậy, thuật
ngữ “kể chuyện” được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể về câu
chuyện có hình thức hồn chỉnh.
b. Khái niệm đọc, kể diễn cảm
- Khái niệm đọc diễn cảm

Đọc diễn cảm, về cơ bản, là một hình thức đặc biệt của đọc thành tiếng,
được đặt ra khi đọc các văn bản văn chương hoặc văn bản có chứa các yếu tố của
ngơn từ nghệ thuật. Trong cơng trình “Đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ”,
MK.Bogoliupskaia và V.V.Septsenko mô tả về hoạt động đọc diễn cảm tác phẩm
văn học như sau: “Người đọc sử dụng mọi sắc thái của giọng mình và các
phương tiện biểu cảm khác làm cho tác phẩm của mình cất tiếng nói, tạo cho tác
phẩm một bức tranh âm thanh tương ứng giúp cho người nghe nhìn thấy cái đã
nghe được, làm cho bức tranh và những hình ảnh tương ứng nổi lên chân thực và
đập vào mắt, gợi lên những tình cảm và cảm xúc nhất định”[7,tr.15]
Như vậy, có thể nói, đọc diễn cảm chính là đọc thành tiếng ở chất lượng
cao, thể hiện ở chỗ người đọc làm chủ các yếu tố âm thanh như trọng âm, ngữ
điệu, giọng điệu để tái hiện lại thế giới nghệ thuật của tác phẩm, làm sống dậy tư
tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài đọc, đồng thời, việc đọc đó cịn thể
hiện được sự đồng cảm của chính người đọc đối với những gì được trình bày
trong tác phẩm. Điều này cũng có nghĩa, để đọc diễn cảm, người đọc cần phải
hiểu thấu đáo bài đọc. Chỉ khi thực sự thâm nhập vào tác phẩm, khi mà thế giới
trong sáng tác của nhà văn, nhà thơ chạm được vào tâm hồn người đọc, ngân lên
những rung động thẩm mĩ, chúng ta mới có thể thể hiện thành công việc đọc diễn
cảm, mới thực hiện được nhiệm vụ chuyên chở các tín hiệu thẩm mĩ từ tác phẩm
đến người nghe.
13


- Khái niệm kể diễn cảm
Cũng giống như đọc diễn cảm, kể diễn cảm tác phẩm văn học là một hoạt
động mang tính nghệ thuật. Người kể, bằng ngơn ngữ, giọng điệu, cử chỉ, nét
mặt… đã tạo dựng lại thế giới sinh động của các nhân vật, các biến cố đã được
tác giả xây dựng nên, dẫn dắt người nghe sử dụng trí tưởng tượng phong phú của
mình để hóa thân vào các nhân vật trong câu chuyện, tham gia vào các sự kiện
trong tác phẩm.

c. Khả năng đọc, kể diễn cảm
Khả năng đọc, kể diễn cảm là loại năng lực cảm thụ nghệ thuật thể hiện ở
việc con người sử dụng có kết quả giọng đọc và các yếu tố phi ngôn ngữ vào việc
tái tạo âm thanh, điệu tính, nội dung thích hợp và đúng đắn với tác phẩm; truyền
đạt tư tưởng tình cảm của tác giả gửi gắm trong tác phẩm giúp người nghe nhìn
thấy những gì nghe được và khơi gợi lên ở họ những rung động, cảm xúc dựa
trên những tri thức và kinh nghiệm của cá nhân đã được tích lũy.
Khả năng đọc, kể diễn cảm là yêu cầu cơ bản của hoạt động dạy học thơ
văn. Nó địi hỏi con người phải được rèn luyện và thường xuyên được củng cố
trong các hoạt động hằng ngày. Vì thế, người giáo viên khơng chỉ nhằm giúp trẻ
học thuộc lòng thơ, truyện kể mà còn giúp trẻ hình thành những kĩ năng đọc, kể
diễn cảm, làm nền tảng cho việc tập đọc của trẻ trong những giai đoạn tiếp theo.
Khả năng đọc, kể diễn cảm bao gồm các kĩ năng bộ phận:
Kĩ năng làm chủ hơi thở: Lời nói của con người thường gắng với hơi thở.
Thở là một trình tự các động tác: hít vào, thở ra, nghỉ một chút sau đó lại lặp lại
đúng như vậy. Thở ngơn ngữ khác với thở bình thường, đó là sự thở có lý trí, cịn
thở bình thường là thở sinh lý. Thở lý trí giúp ta điều khiển sự thở khi phát âm,
đọc kể diễn cảm. Khi đọc thơ, kể chuyện, hơi thở phải tự nhiên, bình tĩnh, kín
đáo, khơng gây những tiếng ồn ở mũi và thanh quản. Nếu không lấy hơi đúng
cách, đúng chỗ sẽ làm cho giọng đọc đơn điệu và không diễn cảm, người nghe
khó có thể tiếp thu tác phẩm. Cách thở ngôn ngữ khi đọc, kể diễn cảm được thể
hiện qua việc phát âm các âm, các từ ở mức độ dài - ngắn, to - nhỏ khác nhau
hoặc thông qua việc ngừng nghỉ khi đọc, kể.

14


Kĩ năng phát âm: Một trong những kĩ năng không thể thiếu trong đọc, kể
diễn cảm là tròn vành rõ chữ. Tròn vành là cách sử dụng hơi của người đọc làm
cho âm thanh phát ra tròn trịa, đầy đặn để có độ vang, to và ấm, có sức biểu hiện

cao, tạo nên những hình tượng qua âm thanh, qua từ. Rõ chữ là cách phát âm rõ
lời, chữ nào gọn chữ ấy, rõ vần bằng hay vần trắc. Người đọc, kể diễn cảm trước
hết cần phát âm rõ ràng, trong sáng vì đó là điều kiện để cho người nghe hiểu
được ý nghĩa của bài đọc. Ngược lại, nếu khơng phát âm một cách chính xác thì
sẽ khơng mang lại sự cảm thụ nghệ thuật một cách đầy đủ, gây khó khăn trong
việc hiểu văn bản. Phát âm chính xác từ ngữ cũng góp phần phát triển các kĩ
năng đọc, kể sau này của trẻ em. Do đo, trong quá trình rèn luyện kĩ năng đọc, kể
diễn cảm cần phải dạy trẻ đọc chậm rãi, cố gắng đọc rõ từng âm, phát âm rõ ràng,
trong sáng, tự nhiên.
Kĩ năng làm chủ giọng điệu văn bản: Lã Thị Bắc Lý và Lê Thị Ánh
Tuyết cho rằng: “giọng điệu cơ bản là tính chất chung của giọng đọc khi trình
bày tác phẩm” [4,tr.47]. Cịn Bogoliupxkaia và V.V.Septsenko thì phát biểu:
“Giọng điệu cơ bản là thanh âm cơ bản của tác phẩm văn học nghệ thuật. Nó tựa
hồ như một cái nền, trên đó người đọc dựng nên những bức tranh, những sự kiện
riêng biệt, những nhân vật tham gia vào sự kiện đó” [7,tr.22]. Có thể nói giọng
điệu cơ bản là giọng đọc chung của tác phẩm khi trình bày, trên cơ sở đó người
đọc dựng nên những hình ảnh, sự kiện giúp người nghe cảm nhận được giá trị nội
dung, nghệ thuật của bài thơ. Đó là sự thể hiện thái độ lập trường, cách nhìn của
chủ thể phát ngơn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng
vào. Thơ, truyện viết cho trẻ em rất trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng vô cùng
đa dạng về giọng điệu. Giọng điệu trong thơ viết cho trẻ khi thì hài hước, hóm
hỉnh; khi thì tình cảm triều mến; khi thì mỉa mai, châm biếm. Trước khi đọc, kể
diễn cảm cần phải xác định được giọng điệu cơ bản. Nếu người đọc xác định sai
giọng điệu cơ bản rất có thể người nghe sẽ hiểu sai hoặc khơng hiểu đầy đủ tư
tưởng chủ đạo của tác phẩm. Giọng điệu cơ bản do nội dung và hình thức quy
định. Trong từng bài thơ tùy theo phong cách ngôn ngữ của tác phẩm để định ra
giọng điệu cơ bản khi trình bày.
Trong quá trình rèn kĩ năng đọc, kể diễn cảm cơ giáo cần chú ý phân tích tác
phẩm thật kĩ, lựa chọn tác phẩm khơng q khó để trẻ hiểu được nội dung cơ bản
15



của tác phẩm và ý nghĩa văn bản, qua đó giúp trẻ thể hiện giọng tác phẩm một
cách chính xác.
Kĩ năng làm chủ ngữ điệu: Ngữ điệu là tổng hợp phức tạp các phương tiện
biểu cảm ngữ âm gồm: giai điệu, cường độ, trọng âm, âm sắc… Đó là những
biến đổi về cao độ của giọng nói, sắc thái khi đọc, kể thể hiện ý nghĩa và cảm xúc
của người nói. Ngữ điệu giúp cho người đọc, kể bày ra trước mắt người nghe
nghĩa của tác phẩm, minh họa những hình tượng trong thơ, những cảnh đẹp thiên
nhiên, những bối cảnh xuất hiện các sự kiện. Nếu khơng có ngữ điệu sẽ không
thể truyền đạt được một cách đầy đủ, chính xác tư tưởng, tình tưởng của tác giả
gửi gắm trong tác phẩm.
Thực chất của việc làm chủ ngữ điệu chính là khả năng biết xác định và
thể hiện chỗ ngắt nghỉ, chỗ nhấn giọng, chỗ lên giọng, xuống giọng, chỗ phát âm
mạnh hay yếu khi thể hiện tác phẩm.
Ngắt giọng là cách nghỉ, cách dừng giây lát khi đọc, kể. Nhưng nó khơng
đơn giản là cách nghỉ hay dừng lại. Ngắt giọng là phương tiện để bộc lộ ý tứ của
bài đọc văn học, tăng sức truyền cảm của tác phẩm khi trình bày. Nếu ngắt giọng
sai sẽ dẫn đến hiểu nhầm ý tứ của bài thơ hay câu chuyện. Có 3 loại ngắt giọng
đó là: Ngắt giọng tâm lý, ngắt giọng thi ca và ngắt giọng logic.
Ngắt giọng logic: Là ngắt giọng dựa vào dấu câu: dấu chấm, dấu phẩy,
dấu hai chấm, dấu chấm phẩy…chỉ ra chỗ kết thúc của phách câu. Nhờ ngắt
giọng này mà người nghe hiểu được ý nghĩa của câu nói một cách đầy đủ và rõ
ràng hơn.
Ngắt giọng thi ca: Là ngắt giọng dựa vào nhịp bài thơ, nhờ ngắt giọng này
mà nhịp thơ được giữ vững. Mỗi câu thơ thường có nhịp thơ cùng với vần tạo
nên nhịp điệu của bài thơ. Vì vậy để đọc diễn cảm cần phải tìm ra nhịp điệu của
bài thơ.
Ngắt giọng tâm lý: Ngắt giọng tâm lý có tác dụng truyền cảm, bắt nguồn
từ trạng thái tâm hồn bằng thái độ người đọc, kể, phản ánh sự sáng tạo của người

đọc. Loại ngắt giọng này có tác động lớn tới người nghe, giúp người nghe thấy
được giá trị tác phẩm. Muốn sử dụng cách ngắt giọng này phải dựa trên tính chất
tâm lý của nội dung tác phẩm. Nhưng chú ý rằng ngắt giọng tâm lý tác động
16


mạnh tới tình cảm của người nghe vì vậy khơng nên lạm dụng sẽ không làm cho
nội dung thêm phần sâu sắc mà trái lại làm cho tác phẩm trở nên rời rạc.
Trong việc đọc, kể diễn cảm, ngắt giọng có một vị trí đáng kể. Vì vậy,
việc tập cho trẻ biết ngắt giọng đúng lúc, đúng chỗ trong tác phẩm là rất quan
trọng.
Một yếu tố khác của ngữ điệu chính là nhịp điệu. Nhịp điệu là tốc độ của
việc đọc tác phẩm. Sử dụng sắc thái khác nhau của nhịp điệu sẽ đem đến cho lời
thơ một sức mạnh đặc biệt tạo nên sự sinh động cho giọng đọc, kể diễn cảm. Nếu
như khi đọc thơ hay kể chuyện chỉ sử dụng độc một nhịp điệu đều đều thì sẽ làm
cho tác phẩm trở nên héo hon và hết sức sống. Cũng giống như các thành tố
khác, nhịp điệu khi đọc thơ, kể chuyện phụ thuộc vào tính chất nội dung của câu
chuyện, bài thơ. Vì vậy, có khi nhịp điệu chậm rãi có khi lại khẩn trương. Nhịp
điệu giúp cho ngữ điệu nổi bật lên, tạo cho ngữ điệu thêm rõ ràng. Sử dụng các
sắc thái nhịp điệu khác nhau sẽ làm cho việc trình bày tác phẩm thơ, truyện hết
sức sinh động và biểu cảm đặc biệt.
Cường độ: Trong số những kĩ năng đọc, kể diễn cảm phải kể đến cường
độ. Cường độ của giọng là độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, là khả năng điều
chỉnh giọng làm cho nó có thể nhỏ hoặc to, có thể tạo được các bậc thang chuyển
độ vang từ to đến nhỏ và ngược lại. Cường độ của giọng là một trong những yếu
tố của ngữ điệu, giúp cho người đọc minh họa được rõ nét và sinh động các hình
tượng, hình ảnh trong thơ truyện.
Cao độ: Là một đặc tính của tri giác cho phép người ta có thể sắp xếp
những âm thanh khác nhau thành một chuỗi những âm có mối tương quan với
nhau về tần số dao động, tức cao độ là độ "cao", "thấp" của âm thanh. Cao độ

phụ thuộc vào tần số dao động. Tần số dao động càng lớn thì âm thanh càng
"cao" và ngược lại.
Khi nói đến việc sử dụng cao độ để đọc, kể diễn cảm là muốn nói đến
những chỗ lên giọng, xuống giọng có dụng ý nghệ thuật, các mục đích biểu cảm.
Ví dụ hai câu thơ trong bài thơ Xe chữa cháy – Phạm Hổ: Ai gọi chữa cháy Có … ngay! Có … ngay! cần được lên giọng, thể hiện tư thế luôn sẵn sàng của xe
chữa cháy. Nhưng nhiều trường hợp sự hạ giọng cũng có dụng ý nghệ thuật.
17


Khi thực hiện đọc, kể diễn cảm, cần chú ý về mặt cao độ để tránh rơi vào
một trong hai tình trạng hoặc là đọc đều đều, rời rạc hoặc là lên giọng xuống
giọng ngẫu hứng, không đúng với yêu cầu, thậm chí phá phỡ kết cấu nghệ thuật
của văn bản.
Riêng đối với việc kể diễn cảm, ngoài khả năng xử lí các yếu tố âm thanh
nói trên thì xuất phát từ bản chất của hoạt động, người kể cần phải có khả năng
ghi nhớ cốt truyện, các tình tiết và khả năng cấu trúc lại tác phẩm cũng như tổ
chức ngôn ngữ để chuyển tải nội dung của văn bản đến với người nghe. Câu
chuyện nào cũng có cốt truyện, đó là yếu tố chính của tác phẩm văn học. Ghi nhớ
cốt truyện là việc rất cần thiết vì khi thể hiện một tác phẩm văn học người kể
phải thoát li văn bản và dựa trên cốt truyện để tái hiện lại nội dung câu chuyện
một cách đầy đủ, chính xác. Ví dụ, với câu truyện “Xe lu và xe ca” người kể phải
đảm bảo các tình tiết: xa lu và xe ca cùng đi trên một con đường - xe ca chế diễu
xe lu - đến khi gặp một đoạn đường lầy lội với lô nhô đá cuội, xe ca không thể
qua được nên đành đỗ lại - nhờ sự giúp đỡ của xe lu nên con đường đã trở nên
bằng phẳng và tất cả các phương tiện đi lại dễ dàng - từ đó, xe ca đã biết lỗi của
mình và khơng chế diễu xe lu nữa.
Việc đảm bảo tình tiết trong câu chuyện là rất quan trọng, mặt khác, trong
khi kể chuyện người kể có thể dùng ngôn ngữ một cách linh hoạt để chuyền tải
đến người nghe, có thể sẽ khơng nhất thiết là phải chính xác theo từng câu, từng
chữ như trong tác phẩm. Do đó, khả năng tổ chức ngơn ngữ khi kể chuyện cũng

là một yếu tố quan trọng, mang lại sự phong phú, linh hoạt cho lời kể, tạo sự hấp
dẫn, duyên dáng khi kể chuyện.
1.1.2. Bản chất của hoạt động đọc, kể diễn cảm
Đọc diễn cảm là thể hiện một cách biểu cảm văn bản bằng giọng đọc, qua
đó, chuyển tải được tư tưởng, cảm xúc của tác giả cũng như sự đồng cảm và xúc
cảm riêng có của người đọc đến với người nghe. Đây rõ ràng là một cơng việc
khơng hề đơn giản. Bởi vì, khi đọc người đọc phải lệ thuộc vào văn bản, không
được thêm bớt câu chữ, dấu chấm, dấu phẩy. Do vậy, tài năng của người đọc là
phải làm thế nào để không để sự lệ thuộc ấy hạn chế khả năng sáng tạo của mình,
phải hiểu được, một câu thơ, câu văn dù giữ nguyên số câu chữ, dấu chấm câu
18


cũng có năm bảy cách đọc. Về vấn đề này nhà văn A.P.Tsêkhốp trong truyện
ngắn Những cảm xúc mãnh liệt đã từng nói: “Tơi dám chắc rằng một từ nào cũng
có đến một nghìn nghĩa và sắc thái khi xem sắc từ góc độ nó được đọc lên như
thế nào” (Phương pháp đọc diễn cảm), [2,tr.19].
Đọc diễn cảm là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó khơng lặp lại người
khác, khơng chỉ truyền đạt trung thành máy móc bài văn mà còn thể hiện dấu ấn
sáng tạo của cá nhân người đọc. Đọc như thế nào sẽ gây được chấn động tâm hồn
trên cơ sở những mĩ cảm ngôn ngữ văn học và khả năng biểu diễn của người đọc.
Cách đọc này sẽ có sức hấp dẫn, lơi cuốn người nghe và làm sáng tỏ thêm nội
dung, ý nghĩa của tác phẩm văn học. Nó bộc lộ thiên hướng năng lực và những
phẩm chất cá nhân người đọc. Rõ ràng đọc diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật
của nó.
Đọc diễn cảm là hình thức của đọc văn chương. Nó vượt qua việc đọc
những tín hiệu ngơn ngữ, từ kí hiệu chữ viết sang kí hiệu âm thanh tạo ra năng
lực đọc văn (tức là từ chỗ đọc chính tả tiến tới đọc ngôn ngữ và sau cùng là đọc
văn).
Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ sung

hổ trợ của năng lực diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ, giọng điệu,
ngữ điệu, âm sắc, màu sắc cảm xúc của ngôn ngữ. Các bài thơ, các câu truyện kể
được đọc lên trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là những văn bản
nghệ thuật mà hệ thống ngơn ngữ của nó được tổ chức chặt chẽ theo các quy luật
của tư duy nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm thơ văn vừa là phương
tiện phản ánh đồng thời là đối tượng thẩm mĩ và là phương tiện tự biểu hiện. Vì
vậy, đọc diễn cảm là bước vào lĩnh vực nghệ thuật, nghệ thuật trình tấu hệ thống
hình tượng, âm thanh các tác phẩm văn học. Bản chất của đọc diễn cảm là lao
động sáng tạo, là biểu diễn nghệ thuật đọc và truyền đạt mọi cái hay cho người
nghe.
Cũng giống như đọc diễn cảm, kể diễn cảm cũng là một hoạt động nghệ
thuật nhằm truyền đạt những sự kiện, hành động, xung đột của câu chuyện đến
người nghe bằng lời và có kèm theo các yếu tố phi ngôn ngữ.

19


Kể diễn cảm cũng là quá trình lao động sáng tạo. Trong quá trình kể người
kể sáng tạo nhiều hơn đọc, người kể khơng lệ thuộc hồn tồn vào văn bản mà có
thể phối hợp sử dụng ngơn ngữ tác phẩm và ngơn ngữ của mình. Tuy nhiên, sáng
tạo khơng có nghĩa là tạo câu chuyện khác mà tạo nên hình thức truyền đạt thể
hiện ở lời kể và sự phối hợp nét mặt, cử chỉ… không làm biến dạng nội dung câu
chuyện. Bằng sự cảm thụ riêng, người kể có thể nhấn mạnh ý chính, những tình
tiết hay, hình ảnh đẹp với nhiều cách trình bày khác nhau. Kể chuyện tùy thuộc
rất nhiều vào mục đích, khả năng cảm thụ, khả năng hoạt động nghệ thuật và trí
nhớ của người kể.
Khi kể chuyện, tùy theo từng thể loại mà người kể vận dụng giọng kể
khác nhau. Phần lớn, trong quá trình kể, người kể thường kể bằng giọng chậm
hơn đọc, tính giao tiếp cao hơn cùng với việc trình bày khéo léo làm cho lượng
thông tin được giản ra, làm cho người nghe đỡ căng thẳng khi theo dõi. Đối với

kể chuyện văn học trong trường mầm non, việc phối hợp giọng kể với những cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt… sẽ giúp trẻ cảm nhận sâu hơn, hiểu rõ hơn ý
nghĩa của truyện. Bằng sự cảm thụ riêng của cơ, ý nghĩa tác phẩm đã vượt ra
ngồi văn bản. Lời kể của cô như là sự bổ sung tạo nên mối quan hệ thân tình
giữa cơ và trẻ.
Kể diễn cảm tác phẩm văn học là một loại hình nghệ thuật phức tạp có sự
chuẩn bị kĩ lưỡng. Việc chuẩn bị của người kể (cô giáo) đối với tác phẩm là một
cơng việc sáng tạo. Để có thể kể tốt tác phẩm, người kể phải nghiên cứu kĩ tác
phẩm, cân nhắc nội dung nghệ thuật của tác phẩm, hiểu thấu đáo ý của người viết
và phải có được các kĩ năng, kĩ xảo kể tác phẩm diễn cảm. Sự nhạy cảm, sự quan
tâm đến chủ định của tác giả sẽ giúp cho người kể tìm được ngữ điệu đúng từ đó
xác định giọng điệu cụ thể của từng đoạn, từng phần, từng nhân vật và các lời
bình…Việc chuẩn bị này địi hỏi người kể khơng chỉ có trình độ, có kĩ năng mà
cịn phải có trí tưởng tượng nghệ thuật, thực sự đi sâu vào tác phẩm.
Vì vậy, để thực hiện tốt hoạt động này thì người kể phải nắm được bản
chất của việc kể và tập luyện nhiều để có được kĩ năng, kỉ xảo, phải nắm được
thủ thuật cơ bản của việc kể diễn cảm để khi kể sẽ biểu lộ cảm xúc một cách tốt
nhất vào tác phẩm.
20


1.1.3. Cơ sở khoa học của hoạt động đọc, kể diễn cảm
a. Cơ sở sinh lí của hoạt động đọc, kể diễn cảm
Âm thanh ngôn ngữ được tạo ra do hoạt động của bộ máy cấu âm trong
con người. Bộ máy này gồm phổi, cuống phổi, thanh hầu, yết hầu, khoang mũi,
khoang miệng. Đây đều là những cơ quan vốn mang chức năng sinh lí khác như:
ăn, hơ hấp… và bất kỳ một ai cũng có bộ máy phát âm đó cả.
+ Phổi và khí quản cung cấp và dẫn truyền luồng hơi chứ không trực tiếp tham
gia vào việc phát âm.
+ Thanh hầu là bộ phận trên cùng của khí quản. Thanh hầu giống như một cái

hộp do bốn miếng xương sụn hợp thành: một xương sụn hình giáp, một xương
sụn hình nhẫn, hai xương sụn hình chóp. Giữa hộp có một bộ phận hết sức quan
trọng trong việc cấu âm gọi là dây thanh (vocal cords). Thực ra đây khơng phải là
dây mà là hai màng mỏng, có thể rung động mở ra khép lại, căng lên chùng
xuống theo sự chỉ huy của dây thần kinh. Khoảng trống giữa dây thanh gọi là
thanh môn. Dây thanh của đàn ông dài khoảng 20 đến 24 mm, của phụ nữ
khoảng 19 đến 20 mm. Dây thanh dày lên theo tuổi tác, đặc biệt vào tuổi từ 14
đến 15, dây thanh dày lên rất nhanh gọi là hiện tượng bể tiếng.
Dây thanh tách xa nhau, không rung, cho phép luồng hơi thốt ra tự do dẫn đến
hiện tượng vơ thanh. Dậy thanh khép hẳn lại rồi bật mở ra mà vẫn không rung
dẫn đến âm tắc thanh hầu. Dây thanh khép lại nhưng vẫn chừa một khe hẹp cho
phép luông hơi đi qua, dây thanh rung lên dẫn đến âm hữu thanh.
+ Khoang yết hầu ở ngay trên thanh hầu. Hoạt động của khoang yết hầu có thể
diễn ra theo ít nhất hai cách sau:
Gốc lưỡi kéo lui, chạm vào thành họng, khiến cho luồng hơi bị cản bít tạo nên
âm tắc yết hầu.
Gốc lưỡi lui về sau nhưng vẫn còn một khe hở khiến luồng hơi bị cọ xát vào đó
sinh ra một âm xát yết, có tể hữu thanh hoặc vô thanh.
+ Khoang miệng là nơi diễn ra rất nhiêu hoạt động cấu âm. Trong đó, bộ phận
quan trọng nhất là lưỡi, tiếp đến là môi.
21


+ Khoang mũi có vai trị trong việc cấu âm nhờ vào hoạt động của mạc. Nếu mặt
trên của mạc chạm vào thành họng, luồng hơi bị chặn ở lối thơng lên mũi, chỉ có
thể thốt ra đường miệng thì dẫn đến âm miệng. Nếu âm đi qua cả mũi lẫn miệng
nhờ mạc bng tự do thì dẫn đến âm mũi.
Ở góc độ sinh lí, hoạt động đọc, kể diễn cảm được điều khiển bởi não bộ
với các cơ chế đặc thù. Về cơ bản, hoạt động đọc được tổ chức một cách nghiêm
ngặt với ba thao tác:

1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ.
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng
chữ (đánh vần) hay đọc trơn từng tiếng, từng từ, cụm từ, câu tùy thuộc vào trình
độ nắm kĩ thuật đọc
3. Thơng hiểu những gì đọc được.
Riêng đọc diễn cảm, cơ chế thực hiện có phần phức tạp hơn. Trước hết, người
đọc tri giác văn bản để nhận hiểu giá trị ý nghĩa, cảm xúc, đưa vào trường liên
tưởng, trải nghiệm của bản thân để lí giải và đồng cảm, sau đó là sự thể hiện xúc
cảm ý nghĩa đã được thẩm thấu qua lăng kính chủ quan của người đọc thơng qua
hệ thống âm thanh ngơn ngữ. Chính vì vậy mà các chun gia về đọc diễn cảm
ln khẳng định việc đọc này chỉ được thực hiện trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc.
Đối với hoạt động kể văn học thì cơ chế có phần khác biệt và phức tạp
hơn. Trước tiên, người kể tri giác văn bản để cảm nhận tổng hợp nội dung ý
nghĩa tác phẩm, sau đó tiến tới nghiên cứu để ghi nhớ cốt truyện, hệ thống nhân
vật, các tình tiết chủ yếu, người kể sẽ tiếp tục tổ chức lại tác phẩm đồng thời xác
lập giọng điệu cho tác phẩm. Cuối cùng là thao tác kể lại: sử dụng trí nhớ của
mình kết hợp với năng lực ngôn ngữ, đặc biệt là khả năng điều khiển giọng, để
trình bày lại nội dung truyện kể một cách biểu cảm cho người nghe.
b. Cơ sở tâm lí
Hoạt động đọc, kể diễn cảm, từ góc độ tâm lí học, là một hoạt động mang
tính giao tiếp và ở đây, quy luật lây lan của tình cảm chính là cơ sở của việc đọc,
22


kể diễn cảm tác phẩm văn học, là cội nguồn của việc “thể hiện cảm xúc qua
giọng đọc”.
Việc đọc, kể diễn cảm có thể thực hiện được đối với tất cả mọi người
khơng phải những người có năng khiếu mới có thể đoc, kể diễn cảm tốt. Có
những trường hợp khơng có sự bẩm sinh nhưng sự nỗ lực trong quá trình rèn
luyện, trải qua một thời gian dài bỏ cơng sức họ đã gặt hái được thành cơng, ví

dụ những tấm gương thành tài từ rèn luyện như Cao Bá Qt, Đêmơxtenết chính
là minh chứng xác thực.Thực tế, tài năng là yếu tố không chỉ được thể hiện qua
quá trình hoạt động mà quan trọng hơn, nó cịn được hình thành ngay trong quá
trình hoạt động. Vấn đề là, trong q trình hoạt động đó chúng ta phải biết sử
dụng phương pháp nào, thủ pháp nào để luyện đọc, kể diễn cảm một cách hiệu
quả, thành công.
c. Cơ sở ngôn ngữ học và văn học
- Cơ sở ngôn ngữ học
Đọc, kể diễn cảm là hoạt động lời nói, hoạt động phát âm, do đó, về mặt
ngơn ngữ học, nó được thực hiện trước hết dựa trên chuẩn chính âm của tiếng Việt.
Chính âm được hiểu là “các chuẩn mực về mặt phát âm có giá trị và hiệu
lực về mặt xã hội”. Nói một cách đơn giản, chính âm chính là phát âm đúng với
chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt. Điều này cũng đồng nghĩa, hoạt động đọc, kể diễn
cảm chỉ có thể được thực hiện một cách chất lượng trên cơ sở đọc đúng. Nếu
người đọc phát âm đớt, ngọng, làm biến đổi âm thanh của ngôn ngữ thì sẽ gây ra
việc nhiễu âm, ảnh hưởng đến sự nhận hiểu của người nghe, đồng thời điều đó
cũng chi phối đến tâm lí tiếp nhận của người lĩnh hội. Khó lịng các xúc cảm đi
được vào tâm hồn người nghe khi nghe câu thơ “Chẳng đâu bằng chính nhà em –
Có đàn chim sẻ bên thềm líu lo” được thể hiện thành “Chẳng đâu bằng chính nhà
em – Có đàn chim sẻ bên thềm níu no”.
Cơ sở ngơn ngữ học thứ hai của hoạt động đọc, kể diễn cảm chính là khả
năng biểu đạt ngữ nghĩa của các yếu tố ngơn ngữ siêu đoạn tính. Bởi vì đọc, kể
diễn cảm, ở một góc độ nào đó, chính là sự xử lí các yếu tố siêu đoạn của ngơn
23


ngữ nhằm chuyển đạt ý nghĩa. Khi những lời văn, lời thơ nằm trên giấy, chúng
chỉ là những con chữ khô cứng và đơn điệu. Nhưng khi được đọc lên một cách
diễn cảm, chúng bổng sống động hơn với nhiều tầng ý nghĩa. Rõ ràng, đọc, kể
diễn cảm – một hình thức đặc biệt của tiếp nhận văn chương – có khả năng

chuyển đạt to lớn bởi nó vượt qua việc đọc những kí hiệu chữ viết để sang kí
hiệu âm thanh. Mà kí hiệu âm thanh, với những thay đổi hết sức tính tế về cao
độ, cường độ, trọng âm,… cũng có khả năng mang đến xúc cảm mạnh mẽ trong
lịng người.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Xe lu và xe ca” – Phong Thu
“Bấy giờ xe lu mới tiến đến, lăn qua lăn lại nhiều lần trên đống đá cuội.
Chẳng mấy chốc, đoạn đường trở nên bằng phẳng. Nhờ vậy mà xe ca mới có thể
đi qua được, xe ca hiểu ra rằng tuy xe lu chậm chạp, dáng vẻ lù lù nhưng nhờ có
xe lu mọi con đường trở nên bằng phẳng để các phương tiện khác đi lại dễ dàng.
Từ đó, xe ca khơng bao giờ chế diễu xe lu nữa”
Ở đoạn truyện trên, chúng ta có thể nhấn trọng âm tại một số từ “lăn qua, lăn
lại”, để thấy được hình ảnh của xe lu khi thực hiện cơng việc của mình và
“khơng bao giờ” để xe lu nhận ra rằng mình đã có những hành động sai và sẽ
không tái phạm một lần nào nữa.
- Cơ sở văn học
Chất liệu của hoạt động đọc, kể diễn cảm là tác phẩm văn chương. Văn
chương là ngôn từ nghệ thuật với tất cả các phẩm chất đặc biệt của nó. Ở tất cả
các cấp độ trong tác phẩm văn học đều chứa đựng chất dung môi thổi bùng ngọn
lửa cảm xúc, yếu tố then chốt của đọc và kể diễn cảm.
Trước hết chúng ta xét về phương diện âm thanh: Ngôn từ trong tác phẩm
văn chương tràn đầy nhạc tính, các câu văn, câu thơ xơn xao âm thanh và nhịp
điệu. Đó có thể là âm điệu du dương nhẹ nhàng trong veo của những xúc cảm.
Nhạc tính trong ngơn từ của văn thơ, khi được đọc lên, hịa với nhạc tính của âm
thanh biểu cảm từ giọng đọc tạo ra những âm hưởng miên man trong lòng người.
24


Xét về phương diện từ vựng: Từ ngữ trong văn bản văn chương thường
mang tính gợi tả, gợi cảm. Hệ thống các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh được
sử dụng dày đặc khiến cho cảnh vật, con người trong tác phẩm trở nên sinh động,

lôi cuốn. Về ngữ nghĩa, từ trong văn bản văn chương có biên độ nghĩa được mở
rộng đến mức tối đa, tạo ra những nghĩa văn cảnh, nghĩa bóng vơ cùng đa dạng.
Chính tính mơ hồ đó đã làm lung linh thêm thế giới biểu hiện của văn bản nghệ thuật.
Mặt khác, các biện pháp tu từ cũng là một phương diện quan trọng của
ngôn ngữ văn chương từ góc độ đọc, kể diễn cảm. Những hình ảnh nhân hóa, ẩn
dụ, so sánh sinh động như “tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh”, “mặt trời của
bắp thì nằm trên đồi, mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”… cộng với cách kết hợp
bất thường đầy ấn tượng như “chỉ cịn tiéng hót làm xanh da trời” mang lại sức
gợi mạnh mẽ, có khả năng khơi lên trong lòng người đọc, kể và người nghe
những rung động thẩm mĩ lớn lao.
1.2. Hoạt động đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cho trẻ 4-5 tuổi ở trường
mầm non
1.2.1. Vai trò của đọc, kể diễn cảm đối với việc phát triển nhân cách toàn diện
cho trẻ
Chúng ta thụ cảm ngôn ngữ nghệ thuật bằng cách đọc và nghe. Khi đọc ta
thụ cảm trực tiếp, khi nghe là ta thụ cảm qua người đọc hay người kể.
Đọc và kể chuyện văn học là một loại hình nghệ thuật có từ lâu. Ngày
xưa, cịn trước cả khi có chữ viết, ngôn ngữ sống được thể hiện qua truyền miệng
từ những người kể chuyện nổi tiếng trong dân gian. Nhiều thế hệ tiếp nhận được
trong tuổi thơ ấu của mình những ấn tượng khơng bao giờ mờ phai từ những tác
phẩm nghệ thuật dân gian để lại qua cách trình bày của những người kể chuyện
có tài. Nhiều nhà văn qua kinh nghiệm bản thân đều nhận thấy sức tác động của
ngôn ngữ được đọc lên theo lối nghệ thuật.
Trong thời đại chúng ta, nghệ thuật đọc tác phẩm văn học đã bám rễ chắc
chắn trong cuộc ssống nhờ có những phương tiện hịa nhạc, phát thanh, truyền
hình, …

25



×