Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Vận dụng lý luận giá trị lao động của c mác trong việc hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.65 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Tên đề tài:
VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC
TRONG VIỆC HOÀN THIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện

: Huỳnh Thị Phương Thảo

Lớp

: 12 SGC

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Trần Phan Hiếu

Đà Nẵng, 5/2016


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
3.1 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4
6. Những đóng góp của đề tài ................................................................................... 4
7. Kết cấu của đề tài .................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ............ 6
1.1. Khái quát lý luận giá trị lao động của C.Mác .................................................... 6
1.1.1 Hàng hóa .......................................................................................................... 6
1.1.1.1 Định nghĩa hàng hóa ..................................................................................... 6
1.1.1.2 Hai thuộc tính của hàng hóa ......................................................................... 6
1.1.1.3 Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của phát hiện này
................................................................................................................................... 8
1.1.1.4 Lượng giá trị của hàng hóa......................................................................... 11
1.1.2 Sản xuất hàng hóa, điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa, các
loại hình sản xuất hàng hóa .................................................................................... 14
1.1.2.1 Sản xuất hàng hóa ....................................................................................... 14
1.1.2.2 Điều kiện ra đời sản xuất hàng hóa ............................................................ 15
1.1.2.3 Các loại hình sản xuất hàng hóa phổ biến trong nền kinh tế. .................... 17
1.1.3 Nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ .................................................. 17
1.1.3.1 Sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa ........................................ 17
1.1.3.2 Chức năng của tiền tệ.................................................................................. 20
1.1.3.3 Quy luật lưu thông của tiền và vấn đề lạm phát. ........................................ 22
1.1.4 Các quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. ..................................... 23


1.1.4.1 Quy luật giá trị ........................................................................................... 23
1.1.4.2 Quy luật cạnh tranh, quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa ...................... 25
1.2. Ý nghĩa của lý luận giá trị lao động của C.Mác đối với việc phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam.............................................................................................. 26
1.2.1 Nhận thức điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa có ý nghĩa lý luận đối với

đổi mới kinh tế ở Việt Nam ...................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC
ĐỂ HOÀN THIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT
NAM........................................................................................................................ 29
2.1. Khái quát kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .......... 29
2.1.1 Bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...................... 29
2.1.2 Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............. 30
2.1.3 Các bộ phận cấu thành và cơ chế vận hành của thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................... 31
2.2. Vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác để hoàn thiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. .............................................................. 32
2.2.1 Lý luận giá trị lao động của C.Mác với việc hình thành tư duy kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................... 32
2.2.2 Lý luận giá trị của C.Mác với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam........................................................................ 35
2.3 Những vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác
trong giai đoạn hiện nay. ......................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 48


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và Việt Nam có những biến đổi to
lớn, đặc biệt là sự khủng hoảng trầm trọng của CNXH hiện thực và khủng hoảng kinh tếxã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng vẫn kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế.
Năm 1991, Đại hội VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản”.1

Qua gần 30 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù thế
giới có những diễn biến hết sức phức tạp, đất nước cịn nhiều khó khăn, nhưng nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, với ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Đất nước thực
hiện thành công bước đầu cơng cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đồn kết tồn dân tộc được
củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao; sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục
phát triển mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn phong phú và những
thành tựu to lớn đã đạt được, một lần nữa chúng ta khẳng định rằng, nhờ được trang bị vũ
khí lý luận bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ với
tinh hoa truyền thống của dân tộc và nhân loại, Đảng Cộng sản Việt Nam suốt 85 năm
qua đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, làm cho đất nước
ngày càng phát triển. Đó là thực tế khơng thể phủ nhận và đồng thời cũng là lý do giải
thích vì sao Đảng ta tiếp tục phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin.
Những chủ trương, đường lối, chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại…là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hồn cảnh của Việt Nam và trong đó có
lĩnh vực kinh tế. Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng ta đã chuyển đổi từ mơ hình tập trung
1

Đảng Cơng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.88

1


bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với
việc chuyển đổi này đã đem lại cho Việt Nam nhiều thành tựu to lớn: Chúng ta đã khẳng
định, nền kinh tế nước ta bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và đa

dạng các loại hình sản xuất kinh doanh; trong đó, cơng ty cổ phần với sở hữu hỗn hợp
ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân là một trong
những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích
phát triển; nhận thức về phân phối đã được định hình, các hình thức phân phối được đa
dạng hóa, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được coi trọng. Bên cạnh
những thành tựu to lớn đạt được, nhiều tồn tại hạn chế trong việc hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường như: hồn thiện thể chế kinh tế cịn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và đồng bộ, chất lượng khơng cao, chưa đáp ứng
được u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá
chiến lược. Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu học thuyết kinh tế C.Mác nói chung và lý
luận giá trị lao động nói riêng là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam. Xuất phát từ thực tế đó tơi đã chọn đè tài “Vận dụng lý luận giá trị lao động của
C.Mác trong việc hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” làm khóa luận tốt nghiệp cuối khóa.
2. Tình hình nghiên cứu
Xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng ta. Việc nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn là yêu cầu đặt ra và có nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Vũ Cơng Chính “Cơ sở khoa học và thực tiễn hình thành giá cả sức lao động ở
nước ta”. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, với một số quan điểm lý luận, thực
trạng giá cả sức lao động ở nước ta hiện nay cúng như những giải pháp điều tiết giá cả và
thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay.
- Đoàn Trọng Nhã “Học thuyết giá trị và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta” (1994), Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác – Lênin, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội
- Vũ Hữu Ngoạn “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” (1991), Nxb thông tin lý luận Hà Nội.

2



- Đỗ Thế Tùng “Những nguyên lý về hàng hóa tiền tệ trong tác phẩm Tư bản của
C.Mác và ý nghĩa thực sự của chúng” (1994), Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy
Mác – Lênin, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
- PGS.TS Phạm Văn Dũng “Vận dụng học thuyết kinh tế Mác – Lênin trong xây
dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”, Các vấn đề kinh tế và kinh doanh
(phần II). Bài viết phân tích khái quát quá trình nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế
Mác – Lênin trong xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, đưa ra một số
nhận xét, đánh giá và kiến nghị liên quan đến vấn đề.
- Nguyễn Hữu Thảo “ Phương pháp tiếp cận giá trị lao động của C.Mác trong nền
KTTT ở Việt Nam”. Bài viết nêu lên một số suy nghĩ về cách tiếp cận học thuyết giá trị
lao động của C.Mác, chủ yếu những nhân tố cấu thành lượng giá trị và những biểu hiện
mới, liên quan đến giá trị hàng hóa.
- Phạm Văn Chiến và Phạm Quốc Trung “Bàn về điều kiện xuất hiện hàng hóa xuất
lao động”, Giáo dục lý luận. Bài viết xuất hiện trên diễn đàn – tranh luận nhằm bảo vệ
tính khoa học, lịch sử của lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác. Đặc biệt là những
giả định về điều kiện xuất hiện hàng hóa sức lao động trong điều kiện ở Việt Nam.
Ngồi ra, cịn có một số luận án, luận văn: Bùi Thị Xuyến “Vận dụng lý luận hàng
hóa sức lao động của C.Mác vào thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Nguyễn Văn Dũng “Lý luận hàng hóa sức lao động và việc vận dụng lý luận đó vào phát
triển thị trường lao động ở nước ta”, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Kinh tế - ĐHĐN;
Đặng Thị Hồng “Lý luận hàng hóa của C.Mác và việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam”, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Nơng ngiệp Hà Nội; Nguyễn Thị Dậu
“Vai trị của quy luật giá trị đối với sự phát triển KTTT ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn
tốt nghiệp, Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu khác ít nhiều có bàn đến
vấn đề vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác trong việc hoàn thiện kinh tế thị
trường. Nhìn chung, các cơng trình trên đã kiến giải, làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan

đến lí luận giá trị lao động của C.Mác vào hoàn thiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tất
cả các công trình trên là nguồn tài liệu tham khảo quý báu, gợi mở cho tôi hướng tiếp cận
khi nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, trong q trình nghiên cứu tơi chưa thấy có bài viết
nào và cơng trình nào tập trung nghiên cứu lý luận giá trị lao động C.Mác trong việc hoàn

3


thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ý nghĩa lý luận giá trị
lao động với việc hình thành tư duy lý luận từ khơng thừa nhận đến thừa nhận sản xuất
hàng hóa. Vì vậy, đây là vấn đề tác giả thấy cần phải nghiên cứu, là lý do giúp em lựa
chọn và cũng là động lực thúc đẩy em hồn thành cơng trình nghiên cứu này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận giá trị lao động của C.Mác, xác định cơ sở khoa học để
vận dụng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận giá trị lao động của C.Mác và ý nghĩa của nó đối với phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác trong việc hoàn thiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Đề tài xác định những vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng lý luận giá trị lao động
của C.Mác trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận giá trị lao động của
C.Mác.
- Phạm vi nghiên cứu: vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác trong việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc trưng của kinh tế chính trị học là

phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp logic kết hợp với lịch sử. Đồng thời
sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê đối chiếu, so
sánh để nghiên cứu và trình bày bản chất của vấn đề.
6. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm về lý luận giá trị lao động của C.Mác trong việc hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Ý nghĩa và các vấn đề đặt ra khi vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác trong
việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 2 chương:

4


Chương 1: Lý luận về giá trị lao động của C.Mác và ý nghĩa của nó đối với phát triển
kinh tế thị trường
Chương 2: Vận dụng lý luận giá trị lao động của C.Mác để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái quát lý luận giá trị lao động của C.Mác
Học thuyết giá trị (giá trị lao động) là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế
của Mác. Trong học thuyết này Mác nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, có
liên quan tới vật và biểu hiện dưới hình thái quan hệ giữa vật với vật. Cơ sở về kinh tế để
xác lập quan hệ giữa người với người thông qua quan hệ giữa vật với vật ở đây chính là

lao động, cái thực thể, yếu tố cấu thành giá trị của hàng hóa. Đó chính là trọng tâm của
học thuyết này. Sự thực thì sản xuất hàng hóa và gắn liền với nó là các phạm trù: giá trị,
hàng hóa, tiền tệ đã từng có trước chủ nghĩa tư bản. Nó là những điều kiện tiền đề cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển. Dựa trên nền tảng học thuyết
giá trị, Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu học thuyết
giá trị của Mác cũng cần phải hiểu rằng: đó là ta đã bắt đầu nghiên cứu về phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng mới chỉ ở dạng đơn giản nhất và chung nhất.
1.1.1 Hàng hóa
1.1.1.1 Định nghĩa hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
và được sản xuất ra để trao đổi, mua để bán.
Dấu hiệu quan trọng nhất của hàng hóa đó là trước khi đi vào tiêu dùng phải qua
mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình: lương thực, quần áo, tư liệu sản xuất…hoặc ở
dạng vơ hình: dịch vụ vận tải, dịch vụ chữa bệnh…
1.1.1.2 Hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm mà nhờ đó có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, nhu
cầu dán tiếp như: các tư liệu sản xuất…) Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số
cơng dụng nhất định. Chính cơng dụng đó, làm cho nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo
để ăn, áo để mặc, nhà để ở, xe để đi lại, máy móc để sản xuất…Cở sở của giá trị sử dụng
của mỗi hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên của vật thể hóa đó quyết định. Tuy

6


nhiên, việc phát hiện ra từng thuộc tính tự nhiên có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển
của xã hội, của con người.

Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong q trình phát triển của
lực lượng sản xuất. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng
giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú, chất
lượng sử dụng giá trị ngày càng cao.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội, giá trị sử dụng của hàng hóa
khơng phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã
hội thơng qua trao đổi, mua bán. Nó buộc người sản xuất hàng hóa phải quan tâm đến
nhu cầu xủa xã hội, làm cho sản phẩm của mình để đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình cịn có những
hàng hóa vơ hình, hàng hóa dịch vụ. Dịch vụ có những đặc điểm sau:
+ Giá trị sử dụng của dịch vụ khơng có hình thái vật thể mà tồn tại dưới hình thái
phi vật thể
+ Sản xuất ra hàng hóa dịch vụ hầu hết hướng vào phục vụ trực tiếp người tiêu dùng
như chữa bệnh, dạy học, cắt tóc, chăm sóc sức khỏe, thẩm mỹ,… Và như vậy, thì quá
trình sản xuất cũng đồng thời với q trình tiêu dùng các hàng hóa dịch vụ đó.
+ Dịch vụ với tư cách là hàng hóa đang ngày càng đóng vai trị quan trọng đối với
sản xuất và đời sống hiện đại.
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị trao
đổi.
- Giá trị hàng hóa
Để hiểu giá trị của hàng hóa cần bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một
quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ mà theo đó một giá trị sử dụng này được trao đổi với
những giá trị trao đổi khác. Ví dụ: 1 rìu = 20 kg thóc, tức 1 rìu có giá trị trao đổi bằng 5
kg thóc.
Hai hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng chúng lại có thể trao
đổi được với nhau, vì giữa chúng có một cơ sở chung: đều là sản phẩm của lao động, đều
được kết tinh bởi lao động. Nhờ cở sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với
nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của họ
ẩn dấu trong những giá trị sử dụng của hàng hóa ấy. Chính lao động hao phí để tạo ra
hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và tạo thành giá trị của hàng hóa.


7


Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi mà chúng ta đề cập ở trên, chẳng qua là hình thức
biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị
biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy,
giá trị là một phạm trù lịch sử, nó tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
Vì giá trị là lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa, nên nếu khơng kể
đến tính chất có ích của sản phẩm thì mọi hàng hóa đều giống nhau, đều khơng có sự
phân biệt. Nhờ giá trị của hàng hóa mà quan hệ kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa
được diễn ra
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính trên vì lao động sản xuất ra nó có tính hai mặt: lao
động cụ thể và lao động trừu tượng. Trong đó, lao động cụ thể tạo ra thuộc tính giá trị sử
dụng của hàng hóa, cịn lao động trừu tượng tạo ra thuộc tính giá trị của hàng hóa
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Hai thuộc tính của hàng hóa vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhau.
Thống nhất vì cùng tồn tại trong cùng một hàng hóa. Một vật phẩm chỉ khi có đầy
đủ hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị mới được gọi là hàng hóa.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính hàng hóa thể hiện ở chỗ: với tư cách là giá trị sử
dụng thì các hàng hóa khơng đồng nhất với chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị,
các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là “kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức
đều là sự kết tinh của lao động hay là lao động đã được vật hóa, nhưng q trình thực
hiện chúng lại tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian: giá trị được thực hiện
trước – trong lĩnh vực lưu thơng, cịn giá trị sử dụng được thực hiện sau – trong lĩnh vực
tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa khơng thực hiện được, tức hàng hóa khơng bán
được, thì giá trị sử dụng của nó khơng được thực hiện. Giá trị sử dụng vận động cùng
chiều với sức sản xuất của lao động, cịn giá trị thì vận động ngược chiều với sức sản
xuất của lao động.

1.1.1.3 Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của phát hiện
này
* Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Lao động sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng
- Lao động cụ thể: là lao động có ích biểu hiện dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chun mơn nhất định, có mục đích, phương pháp lao động, đối tượng lao

8


động và kết quả lao động riêng. Ví dụ, hoạt động của người thợ mộc, thợ xây, thợ
may…là những lao động cụ thể.
Mỗi lao động cụ thể tạo ra những sản phẩm nhất định, tức là tạo ra một loại giá trị
sử dụng nhất định. Lao động cụ thể giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa.
Lao động cụ thể biểu hiện là một nghề chun mơn nên nó phụ thuộc vào phân cơng
lao động xã hội, tức là vào trình độ của lực lượng sản xuất. Khoa học, công nghệ và lực
lượng sản xuất càng phát triển càng có nhiều hình thức cụ thể của lao động, do đó xã hội
càng sản xuất ra nhiều loại hàng hóa, cơ cấu hàng hóa ngày càng phong phú đa dạng hơn.
Năng suất lao động càng tăng, trình độ khoa học – cơng nghệ càng hiện đại thì số lượng
hàng hóa sản xuất ra càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn.
- Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói chung của
người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Giá trị hàng hóa chính là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng
hóa. Nhờ lao động trừu tượng mà tìm thấy sự đồng nhất giữa những người sản xuất, thấy
được cơ sở quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng là
cơ sở để người sản xuất trao đổi sản phẩm với nhau.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ, chúng là hai mặt của cùng một lao động sản xuất hàng

hóa. Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ, với tư cách là lao động cụ thể, lao động của người
sản xuất hàng hóa đã tạo ra một giá trị sử dụng với số lượng và chất lượng nhất định cho
xã hội, những với tư cách là lao động trừu tượng, sự hao phí lao động của người sản xuất
hàng hóa có thể khơng phù hợp so với mức hao phí lao động của xã hội.
Lực lượng xã hội càng phát triển, năng suất lao động càng tăng thì sự tiêu hao sức
lực của người sản xuất vào hàng hóa càng giảm, do đó, lượng giá trị của một đơn vị hàng
hóa ngày càng giảm xuống. Trong trường hợp này giá cả của hàng hóa ngày càng rẻ hơn.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tư nhân
và tính chất xã hội của lao động. Lao động tư nhân là lao động riêng của từng cá nhân
chủ thể kinh tế, của người sản xuất hàng hóa. Họ làm gì, làm như thế nào, hao phí bao
nhiêu là hoạt động tư nhân của họ. Nhưng đồng thời, hoạt động sản xuất của họ lại là một
bộ phận nằm trong sự phân cơng xã hội, do đó, lao động của họ cũng đang lao động cho

9


xã hội. Lao động xã hội là sự thừa nhận của xã hội đối với lao động tư nhân, tức là xã hội
cũng thừa nhận sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Tức là, hàng hóa do tư nhân sản
xuất ra có thể được xã hội thừa nhận hoặc khơng thừa nhận. Nếu hàng hóa bán được tức
là xã hội thừa nhận việc sản xuất của tư nhân. Ngược lại, nếu hàng hóa khơng bán được,
tức là hàng hóa của tư nhân khơng được xã hội thừa nhận. Lao động tư nhân và lao động
xã hội, do đó có mâu thuẫn với nhau. Đây là mâu thuẫn cơ bản của kinh tế hàng hóa.
* Ý nghĩa của việc phát hiện này.
C.Mác là người phát hiện ra tính chất hai mặt của sản xuất hàng hóa. Nhờ phát hiện
này mà Mác đã tìm ra cơ sở để giải quyết triệt để lý luận giá trị - lao động. Trước Mác,
tuy đã có một số nhà kinh tế đã tìm ra được nguồn gốc của giá trị hàng hóa là lao động,
nhưng họ chỉ mới nhận thấy rằng đó là lao động không chỉ tạo ra giá trị mà cịn tạo ra giá
trị sử dụng của hàng hóa. Họ chưa thể tìm ra được thực thể của giá trị, chưa thể hiểu
nguồn gốc cuối cùng của giá trị hàng hóa, nên lý luận của họ bị bế tắc.
Nhờ phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã vạch rõ

nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa. Với tư cách là lao động trừu tượng,
mọi hàng hóa đều giống nhau, khơng có sự phân biệt. Số lượng giá trị của hàng hóa được
quyết định bởi số lượng lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh vào hàng hóa, đo
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Số lượng lao động trừu tượng tiêu dùng vào sản
xuất hàng hóa càng nhiều thì lượng giá trị của nó càng lớn và ngược lại. Lao động trừu
tượng là cơ sở để những người sản xuất hàng hóa thiết lập quan hệ kinh tế, tiến hành trao
đổi sản phẩm cho nhau. Thực chất trao đổi hàng hóa là trao đổi các giá trị sử dụng khác
nhau với lượng giá trị bằng nhau.
Nhờ phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã chỉ ra xu
hướng vận động ngược chiều nhau giữa khối lượng hàng hóa với lượng giá trị của nó khi
có sự biến đổi về năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng lên thì khối lượng hàng
hóa được sản xuất ra tăng lên, những lượng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa lại giảm
xuống.
Nhờ phát hiện tính chất hai mặt của sản xuất hàng hóa, Mác đã phát hiện ra tính
chất tư nhân và tính chất xã hội cũ nền kinh tế hàng hóa và mâu thuẫn cơ bản của nền
kinh tế này.
Nhờ phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã giải thích
đúng nguồn gốc của giá trị thặng dư, chỉ ra giá trị thặng dư thực chất là giá trị của hàng

10


hóa kéo dài quan điểm thời gian lao động cần thiết của cơng nhân. Qua đó, chỉ ra bản
chất đích thực của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với lao động làm thuê.
1.1.1.4 Lượng giá trị của hàng hóa.
Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa, được đo bằng thời gian lao động hao phí để sản xuất hàng hóa bao gồm lao
động vật hóa (tư liệu sản xuất) và lao động sống.
Mỗi chủ thể kinh tế có một lượng hao phí lao động thực tế nhất định trong q trình
sản xuất hàng hóa, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này, xác định giá trị cá biệt

của hàng hóa. Trên thị trường, khơng thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để tiến hành
trao đổi, mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa được
tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa.
* Thời gian lao động xã hội cần thiết.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội, trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa phải tính theo lượng lao động hao
phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động hao phí đó được tính bằng thời gian lao
động. Vậy, lượng giá trị phải tính theo thời gian lao động, nhưng khơng phải tính theo
thời gian lao động cá biệt.
Nếu như vậy “thì người ta có thể lầm tưởng rằng người sản xuất ra hàng hóa càng
lười biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của anh ta lại càng lớn
bấy nhiêu. Nhưng cái lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao dộng giống nhau
của con người, là chi phí của cùng một sức lao động của con người…, nó có tính chất
một sức lao động xã hội trung bình…, do đó, để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, nó
chỉ dùng một thời gian lao động trung bình cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần
thiết”2. Lượng giá trị của hàng hóa khơng phải do mức hao phí lao động cá biệt hay, mà
nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra một hàng
hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất trung bình của xã hội: với một trình độ thành
thạo trung bình, với một trình độ trang thiết bị trung bình và một cường độ lao động trung
bình trong xã hội đó.
Thực chất thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động xã hội
trung bình để sản xuất hoặc tái sản xuất ra hàng hóa đó. Thơng thường thời gian lao động
2

C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.1993, tập 23, tr.67,68,69

11



xã hội cần thiết được xác định gần sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất ra
hàng hóa chiếm đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử
dụng ấy.
Thời gian lao động xã hội cần thiết lại thay đổi theo sự thay đổi trong sức sản xuất
của lao động. Sức sản xuất của lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, trong đó có
“trình độ khéo léo trung bình của người cơng nhân, mức độ phát triển của khoa học và
trình độ áp dụng của khoa học vào q trình cơng nghệ, sự kết hợp của q trình sản xuất,
quy mơ và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện thiên nhiên”.
Nói chung, sức sản xuất của lao động càng lớn thì thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một vật phẩm đó càng ít, khối lượng lao động kết tinh trong vật phẩm
đó càng nhỏ thì lượng giá trị của vật phẩm đó càng ít và ngược lại. Như vậy, đại lượng
giá trị của một hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động kết tinh trong hàng
hóa đó và tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động đó.
* Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa có ba nhân tố chủ yếu: năng suất lao
động, cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động
- Năng suất lao động: là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số
lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng lao động hao
phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa giảm xuống, hoặc cũng trong một thời gian lao động như vậy, nhưng
khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì
lượng giá trị của một hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Như vậy, lượng giá trị của một
đơn vị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Sự vận động trái ngược đó là do tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Năng suất lao động là kết quả hoạt động của sức
sản xuất của lao động, nhưng năng suất lao động cũng có thể là kết quả của tăng cường
độ lao động, nhất là khi năng suất lao động chưa đạt mức trung bình của xã hội hoặc do
giảm bớt tiêu dùng sức lao động một cách không sản xuất. Như vậy, năng suất lao động

là kết quả của cả sức sản xuất của lao động và cường độ lao động.

12


- Cường độ lao động: là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương lao động trong một
đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ nặng nhọc hay căng thẳng của lao động trong một
khoản thời gian nhất định.
Cường độ lao động tăng lên là mức hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian
tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu
cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên, vì tăng cường độ
lao động, thực chất cũng giống như việc kéo dài thời gian lao động, để có nhiều sản phẩm
hơn, đồng thời hao phí lao động trừu tượng cũng tăng lên. Do đó, khi tăng cường độ lao
động thì hầu như lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi.
Như vậy, tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ: đều
dẫn đến số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng khác
nhau ở chỗ: tăng năng suất lao động không chỉ làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian tăng lên, mà còn làm cho lượng giá trị của một hàng hóa giảm
xuống. Tăng năng suất lao động dựa trên cơ sở vận dụng nhiều nhân tố, do đó, nó gần
như một yếu tố sức sản xuất vơ hạn, cịn tăng cường độ lao động là hao phí thêm lao
động trừu tượng để có số lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều. Do đó, nếu năng suất lao
động khơng đổi mà chỉ tăng cường độ lao động thì lượng giá trị của một hàng hóa khơng
giảm. Hơn nữa, tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào huy động thể chất và tinh
thần của người lao động, do đó, nó là một yếu tố sức sản xuất có giới hạn nhất định.
Chính vì vậy, tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh
tế.
- Mức độ phức tạp của lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng khác nhau đến số lượng giá trị của
hàng hóa, theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản
đơn và lao động phức tạp.

+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động có sức khỏe bình
thường, khơng cần phải trải qua đào tạo, tích lũy kinh nghiệm cũng có thể thực hiện
được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện chuyên mơn
lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian tự nhiên, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Xét về mặt lượng giá trị, thì lao động phức tạp là lao động giản đơn được

13


nhân bội lên. Trong q trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy
thành lao động giản đơn trung bình. Tỷ lệ quy đổi được tiến hành một cách tự phát sau
lưng những người sản xuất hàng hóa, thơng qua cạnh tranh, quan hệ cung cầu mà tự xác
định trên thị trường.
Đến đây, có thể hiểu giá trị hàng hóa một cách đầy đủ là: giá trị của hàng hóa là lao
động xã hội, trừu tượng, giản đơn trung bình của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Giá trị là quan hệ xã hội ẩn chứa, kết tinh trong hàng hóa. Cịn lượng giá trị của
một hàng hóa là: Thời gian lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa đó. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với thời gian lao
động xã hội cần thiết và tỷ lệ nghịch với sản xuất của lao động để làm ra hàng hóa đó.
Lượng giá trị hàng hóa cịn phải tính đến mức độ phức tạp của lao động sản xuất ra loại
hàng hóa đó.
1.1.2 Sản xuất hàng hóa, điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa, các loại
hình sản xuất hàng hóa
1.1.2.1 Sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để trao dổi thơng qua mua bán. Sản xuất
hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

So với sản xuất tự túc, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn đó là:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất, do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội,kỹ thuật của
từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương.Khi sản xuất và trao đổi
hàng hóa mở rộng càng tạo điều kiện để mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ, tính chất tổ chức sản xuất không giới
hạn chật hẹp mà nó được xã hội hóa ngày càng cao dựa trên cơ sở ngày càng tăng nhu
cầu và khả năng thảo mãn đáp ứng nhu cầu của xã hội. Điều đó tạo điều kiện ứng dụng
những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động cần những quy luật vốn có của nó
như quy luật giá trị ,cung-cầu,cạnh tranh….., buộc người sản xuất phải luôn luôn năng
động, nhạy bén, tính tốn, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,nâng cao năng xuất, chất

14


lượng và hiệu quả kinh tế. Chính cạnh tranh buộc mọi chủ thể kinh tế phải luôn thúc đẩy
ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa phát triển trở thành một tron những điều kiện để nâng cao
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho mọi người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt tiêu
cực của nó như: phân hóa những người sản xuất thành giàu nghèo, tiềm ẩn những khả
năng khủng hoảng, chạy theo lợi nhuận cục bộ phát sinh nhiều tệ nạn xã hội,phá hại môi
trường sinh thái, xã hội, vv………
1.1.2.2 Điều kiện ra đời sản xuất hàng hóa
Hai điều kiện của sản xuất hàng hóa
Để có sản xuất hàng hóa cần có hai điều kiện:
Thứ nhất, có sự phân cơng lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chun
mơn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác

nhau.
Phân công lao động xã hội làm cho mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một
vài thứ sản phẩm nhất định. Phân công lao động xã hội chuyên môn hóa sản xuất làm
cho năng xuất lao động tăng lên, sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều và trao đổi
sản xuất ngày càng trở nên phổ biến. Chính sự phân công lao động xã hội làm cho những
người sản xuất chỉ sản xuất ra một số sản phẩm, thậm chí một chi tiết nào đó của sản
phẩm, nhưng cuộc sống tự nhiên họ cần đến nhiều thứ, do đó, họ phải sống dựa và nhau,
phụ thuộc vào nhau, có mối quan hệ kinh tế với nhau.
Song, chỉ có phân cơng lao động xã hội khơng thơi thì chưa đủ điều kiện ra đời, tồn
tại của sản xuất hàng hóa. Khi nhấn mạnh phân cơng lao động xã hội là điều kiện của sản
xuất hàng hóa C.Mác đồng thời chỉ rõ rằng, trong các công xã Ấn Độ và trong các cơng
xưởng hiện đại, tuy lao động đã có sự phân công, nhưng sản phẩm của lao động không
trở thành hàng hóa. Vì vậy, phải có điều kiện thứ hai nữa thì sản phẩm của lao động mới
trở thành hàng hóa.
Thứ hai, có sự tách biệt về mặt kinh tế của những người sản xuất. Theo C.Mác: “chỉ
có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối
diện với nhau như là những hàng hóa”. Người lao động tư nhân, độc lập có thể là một
người lao động cá thể, có thể là một người lao động tổng thể, mà chỉ sản phẩm của cả
tổng thể mới trở thành hàng hóa. Lao động tư nhân không đồng nhất với tư hữu. C.Mác

15


đã từng nêu: ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, của vua chúa như ở Châu Á. Ở đây,
“không có quyền sở hữu tư nhân đối với ruộng đất, mặc dù vẫn còn quyền chiếm hữu
ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất, quyền này hoặc là của tư nhân hoặc là của công
cộng”3. Lênin cho rằng: “khi giả định rằng nông nghiệp sản xuất theo lối tư bản của chủ
nghĩa, tất nhiên cũng bao hàm cả cái ý giả định rằng tất cả ruộng đất đều bị các doanh
nghiệp tư nhân riêng rẽ chiếm giữ: nhưng tuyệt nhiên khơng bao hàm cả cái ý giả định
rằng tồn bộ ruộng đất là tài sản tư hữu của những nghiệp chủ đó hay của những người

khác, họ giả định rằng đó là sở hữu tư nhân nói chung”4. Như vậy, lao động tư nhân độc
độc lập không chiếm hữu và quyền sử dụng riêng lẽ. Cùng là công hữu hay tư hữu, nhưng
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tách biệt, độc lập tương đối với nhau thì muốn sử dụng
sản phẩm của nhau, những người sản xuất phải công nhận nhau là những chủ thể tư nhân
đối với những vật thể trao đổi, chuyển nhượng hàng hóa.
Theo dịng lịch sử, thoạt đầu, trao đổi hàng hóa được diễn ra giữa các bộ lạc, về sau,
chế độ công xã nguyên thủy mới xuất hiện sở hữu tư nhân. Đó là một trong những nhân
tố càng làm cho lao động của người sản xuất tách biệt nhau thành lao động tư nhân, độc
lập. Và cùng với sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, sự tách biệt đó càng
thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất này mà
nảy sinh xu hướng tách biệt về mặt pháp lý với quyền chiếm hữu, sử dụng đối với tư liệu
sản xuất. C.Mác đã chỉ ra sự phân biệt sở hữu về mặt pháp lý với chiếm hữu thực tế: Ở
đây, người sản xuất chỉ có thể là người sở hữu danh nghĩa. Sự tách biệt về quyền sử
dụng, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế đối với tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự tách biệt
về quyền chiếm hữu kết quả sản xuất, đó là cơ sở tồn tại thứ hai của trao đổi và sản xuất
hàng hóa. Về mặt pháp lý, có thể thuộc quyền sở hữu cơng cộng (nhà nước, tập thể), có
thể thuộc quyền sở hữu tư hữu, song người chiếm hữu, sử dụng tư liệu sản xuất ấy vẫn có
thể độc lập với tư cách là người sản xuất hàng hóa. Ví dụ, ruộng đất thuộc sở hữu toàn
dân, nhà nước đại diện, thống nhất quản lý, nhưng giao quyền sử dụng lâu dài cho từng
chủ thể hộ nông dân, hợp tác xã., nông trường quốc doanh…đều có thể là sản xuất hàng
hóa.
Khi nghiên cứu sự chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa,
V.I.Lênin viết: sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức của kinh tế xã hội, trong đó sản
3
4

C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2002,tập 23, tr.72, 132-133
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1995,tập 5,tr.139

16



phẩm đều do những người sản xuất cá thể, riêng lẻ, sản xuất ra mỗi người chuyên làm ra
ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thõa mãn nhu cầu của xã hội thì cần có
mua bán sản phẩm trên thị trường.
Sự ra đời, tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa là một bước tiến lớn trong sự
phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thốt khỏi tình trạng mơng muội, xóa dần
kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất.
1.1.2.3 Các loại hình sản xuất hàng hóa phổ biến trong nền kinh tế.
Sản xuất chàng hóa có thể được xem xét theo các loại hình cơ bản: sản xuất hàng
hóa giản đơn, sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa và
sự đan xen giữa các loại hình sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
1.1.3 Nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ
1.1.3.1 Sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa
* Bốn hình thái giá trị hàng hóa
Nếu giá trị sử dụng của hàng hóa có thể nhận biết được bằng các giác quan, thì giá
trị của hàng hóa chỉ có thể nhận biết được qua giá trị trao đổi, tức là qua các hình thái giá
trị. Trong lịch sử phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị cũng đã từng phát triển
từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, hình thái mở rộng, hình thái giá trị
chung tới hình thái tiền tệ.
Giá trị khơng tự bộc lộ, mà phải được thể hiện thông qua giá trị trao đổi, mua bán
giữa những người sản xuất hàng hóa. Nghiên cứu q trình phát triển của các hình thái
biểu hiện của giá trị mới hiểu nguồn gốc, bản chất của tiền tệ. Có bốn hình thái biểu hiện
của giá trị
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
Hình thái này là những “mầm mống đầu tiên của trao đổi, khi mà các sản phẩm
của lao động chỉ biến thành hàng hóa trong những hành vi đơn nhất và ngẫu nhiên”5
Công thức tổng quát xH1 = yH2 . Ở hình thái này, hàng hóa H1 biểu hiện giá trị
của nó ở H2. H1 là hình thái giá trị tương đối,cịn H2 đóng vai trị là vật ngang giá.

Ví dụ: 1 cái áo = 5 đấu thóc. Ở đây giá trị của hàng hóa này (cái áo) chỉ biểu
hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác (thóc), và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu
nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi cũng ngẫu nhiên được hình thành. Hàng hóa
5

C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 23, tr.106

17


thứ nhất (áo) đóng vai trị hình thái giá trị tương đối. Hình thái thứ hai (thóc) đóng vai trị
hình thái vật ngang giá. Hình thái giá trị tương đối đóng vai trị chủ đạo, thể hiện giá trị
qua so sánh với hàng hóa khác.
Lượng của hình thái giá trị tương đối tỷ lệ thuận với lượng giá trị của chính
hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với lượng giá trị hàng hóa vật ngang giá.
Hình thái vật ngang giá khơng tự nói được giá trị của nó nhưng với hình thái giá
trị sử dụng của nó, vật ngang giá lại thể hiện giá trị của hàng hóa khác so sánh với vật
ngang giá đó.
Mặc dù, lúc đầu quan hệ trao đổi mang tính ngẫu nhiên, nhưng sự trao đổi đó
dần dần trở thành một q trình xã hội đều đặn, thường xuyên thúc đẩy sản xuất hàng hóa
ra đời và phát triển. Khi đó, xuất hiện hình thái thứ hai – hình thái đầy đủ hay mở rộng
của giá trị
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị.
Khi có nhiều hàng hóa trao đổi trên thị trường thì một hàng hóa có thể đem trao
đổi với nhiều hàng hóa khác, làm ra đời hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị. Phương
trình:
xH1 = yH2
hoặc = zH3
hoặc = …


Ví dụ:
5 đấu thóc
1 cái áo =

1 đấu chè
2 đấu cà phê
0,2 gam vàng

Ở đây giá trị tương đối của một hàng hóa (1 cái áo) được biểu hiện ở nhiều hàng
hóa khác nhau đóng vai trị làm vật ngang giá, nhờ đó, tỷ lệ trao đổi khơng cịn mang tính
chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lượng hao phí lao động quy định. Vì ở đây ngay từ
đầu, người ta sản xuất ra với mục đích là để trao đổi, do đó, trong trao đổi họ phải tính
tốn đến mức lao động hao phí.

18


Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, địi hỏi phải có một vật ngang giá
chung, xuất hiện hình thái thứ ba – hình thái chung của giá trị.
- Hình thái chung của giá trị.
Khi sản xuất hàng hóa phát triển, quan hệ trao đổi trở nên thường xun rộng rãi
hơn, thì có một hàng hóa tách ra làm vật ngang giá chung, làm ra đời hình thái chung của
giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hóa bất kỳ. Nó trở
thành mơi giới và phương tiện để trao đổi. Phương trình:
xH1
hoặc yH2
hoặc zH3

= nH5


hoặc v.v.

H5 là vật ngang giá chung

Lúc đầu, mỗi dân tộc hoặc mỗi địa phương có một loại sản phẩm được quy định
làm vật ngang giá chung.
Ví dụ:
1 cáo áo
1 đấu chè
2 đấu cà phê

= 5 đấu thóc

0,2 gam vàng
Ở đây giá trị tương đối của nhiều hàng hóa đều biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai
trị làm vật ngang giá chung “vật ngang giá phổ biến” (5đấu thóc). Lúc này, các hàng đóa
được đổi lấy vật ngang giá chung trước, sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng, nhờ
đó khắc phục được nhược điểm của hình thái trước đó, vật ngang giá chung trở thành mơi
giới, mục đích thành phương tiện trong trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, ở hình thái này, vật
ngang giá chung chưa thật sự cố định ở một hàng hóa nào cả và vẫn trao đổi trực tiếp,
hàng đổi hàng (H – H’)
Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa thì vật ngang giá chung được cố
định, “gắn một cách vững chắc với một số loại hàng hóa đặc biệt”, khi đó xuất hiện hình
thái thứ tư – hình thái tiền tệ.
- Hình thái tiền tệ của giá trị: Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn
nữa,thị trường được mở rộng thì vật ngang giá chung dần dần được cố định ở vàng hoặc
bạc,làm xuất hiện tiền. Phương trình trao đổi
xH1

19



hoặc yH2
hoặc zH3

= n gram vàng (vàng trở thành tiền)

hoặc v.v.
Ví dụ
1 cái áo
5 đấu thóc
1 đấu chè

= 0,2 gram vàng

2 đấu cà phê
Ở đây giá trị của tất cả mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai
trị tiền tệ (0,2 gam vàng).
Lúc đầu, có nhiều loại hàng hóa đóng vai trị tiền tệ, và “những dân du mục là
những người đầu tiên phát triển hình thái tiền”. Nhưng dần dần vai trị tiền tệ được
chuyển sang các kim loại quý như đồng rồi tới bạc và cuối cùng là ở vàng.
Tiền ra đời làm cho thế giới hàng hóa chia thành 2 cực: một bên là vàng với tư cách
là vật ngang giá chung, cịn một bên là các hàng hóa khác, chúng soi mình vào vàng để
xác định giá trị.
* Nguồn gốc và bản chất của tiền
Tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cố định cho tất cả
các hàng hóa. Đó là nguồn gốc của tiền. Hình thái tiền tệ chính là sự thể hiện chung của
giá trị, nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Đó chính là
bản chất của tiền tệ. Với sự xuất hiện của hình thái tiền tệ, thì thế giới hàng hóa được chia

làm hai: một bên là tất thảy mọi hàng hóa và dịch vụ, một bên là tiền. Giá trị hàng hóa thể
hiện bằng tiền gọi là giá cả của hàng hóa đó.
Bản chất của tiền còn được thể hiện rõ qua 5 chức năng của nó:
1.1.3.2 Chức năng của tiền tệ
Tiền có 5 chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thong, phương tiện cất trữ,
phương tiện thanh toán và tiền thế giới.
- Thước đo giá trị: dùng tiền để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Với chức
năng này, tiền chỉ cần là một lượng vàng tưởng tượng, không cần vàng thật. Nó được thể
hiện bằng giá cả thị trường.

20


Giá cả thị trường là hình thức tiền tệ của giá trị hàng hóa, là kết quả của sự thỏa
thuận giữa người mua và người bán hàng hóa trên thị trường. Giá trị là cở sở của giá cả.
Tuy nhiên,do tác động của các quy luật thị trường nên tại một thời điểm nào đó,mức giá
cả hàng hóa có thể thay đổi lên xuống; cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của nó. Mặc dù vậy,
về xu hướng,giá cả vận động xoay quanh giá trị, tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị
của các hàng hóa.
- Phương tiện lưu thông: tiền làm vật môi giới trong lưu thông hàng hóa. Cơng thức
xH1 – T –yH2 .Với chức năng này, phải có một lượng tiền thật (vàng hoặc đại diện của
vàng là tiền giấy)
Với chức năng là phương tiện lưu thơng, lúc đầu xuất hiện trực tiếp dưới hình thức
vàng thoi, bạc nén, sau đó là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy ra đời. Tiền giấy chỉ là kí
hiệu giá trị do nhà nước phát hành và buộc xã hội cơng nhận. Tiền giấy khơng có giá trị
thực.
Thực hiện chức năng này, tiền làm cho quá trình mua, bán diễn ra được thuận lợi,
nhưng nó cũng làm cho việc mua bán tách rời nhau về cả không gian, thời gian và số
lượng, do đó đã bao hàm khả năng khủng hoảng kinh tế.
- Phương tiện cất trữ: khi sản xuất kém phát triển, tiền được rút khỏi kênh lưu

thông trở thành phương tiện cất trữ. Với chức năng này, nhất thiết tiền phải có đủ giá trị,
tức phải là vàng. Tiền giấy muốn làm chức năng này, nó phải chuyển hóa ra vàng. Điều
đó có nghĩa vì sao giá vàng tăng lên khi lạm phát tiền giấy và giúp ta phân biệt được tác
dụng khác nhau giữa tiền vàng và tiền giấy. Khi sản xuất phát triển, tiền lại được tung ra
lưu thông, giúp tiêu thụ sản phẩm và trở thành điều kiện sản xuất.
- Phương tiện thanh toán: dùng tiền để thực hiện mua, bán chịu. Khi đó tiền tệ có
chức năng là phương tiện thanh toán, thực hiện trả tiền mua chịu trả nợ v.v.. Chức năng
này được thực hiện thơng thanh tốn bằng tiền mặt và thanh tốn khơng dùng bằng tiền
mặt. Trong đó, thanh tốn khơng dùng tiền mặt phát triển nhanh và mang tính phổ biến.
Sự phát triển chức năng này làm tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể hàng
hóa.
- Tiền tệ thế giới: dùng tiền để thực hiện thanh toán các khoản chênh lệch về mậu
dịch và phi mậu dịch. Với chức năng này, tiền phải là vàng thỏi, vàng nén hoặc các ngoại
tệ mạnh. Tiền giấy muốn thực hiện chức năng này, phải chuyển đổi thành vàng và ngoại
tệ mạnh. Điều đó làm cho giá vàng trên thị trường thay đổi, thường tăng lên và tỷ giá hối

21


đối cũng thay đổi do tình hình cung – cầu thay đổi. Tỷ giá hối đoái là giá cả của các
đồng tiền mang quốc tịch khác nhau.
Ví dụ, tỷ giá hối đối của đồng Việt Nam so với đơ la Mỹ vào thời điểm 9 giờ 47
phút ngày 13-4-2016 là 1 USD =22,230 VND.
Năm chức năng của tiền có mối quan hệ với nhau, phản ánh bản chất của tiền.
1.1.3.3 Quy luật lưu thông của tiền và vấn đề lạm phát.
- Quy luật lưu thông của tiền
Quy luật lưu thông của tiền là quy luật xác định số lượng tiền cần thiết cho lưu
thơng hàng hóa trong một thời kỳ nhất định.
Cơng thức tổng qt:


PxQ

M=

V
Trong đó: M là lượng tiền cần thiết phát hành cho lưu thông, P là mức giá cả, Q là
khối lượng hàng hóa, dịch vụ đem ra lưu thơng trên thị trường, V là số vịng chu chuyển
trung bình của tiền cùng loại.
Khi có quan hệ mua bán chịu, thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thơng được tính
theo cơng thức:
PQ – (PQ1 + PQ2) + PQ3
M=
V
Trong đó: P,Q là tổng giá cả hàng hóa đem bán, P,Q1 là tổng giá cả hàng hóa bán
chịu; P,Q2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; P,Q3 là tổng giá cả đến kỳ thanh
toán.
Việc xác định quy luật lưu thơng của tiền có ý nghĩa to lớn đến việc quản lý nền
kinh tế thị trường. Nó là căn cứ khoa học làm chổ dựa để chính phủ phát hành lượng tiền
cần thiết cho lưu thơng trong từng thời kỳ; căn cứ để ngân hàng giúp nhà nước tiến hành
điều hòa mức cung tiền; và để ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động kinh
doanh.
- Vấn đề lạm phát.
Lạm phát là hiện tượng kinh tế xuất hiện khi mức giá chung tại thời điểm này cao
hơn với thời điểm trước (tháng trước, quý trước hoặc năm trước). Mức lạm phát được
tính theo tỷ lệ phần trăm giữa mứa tăng giá chung tại thời điểm cần xác định với mức giá
chung ở thời điểm trước. Để xác định mức lạm phát người ta thường căn cứ vào chỉ số
giá cả sản xuất (PPI) hoặc chỉ số giá cả hàng tiêu dùng (CPI)

22



×