Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.03 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------

LÊ THƢƠNG HUYỀN

QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Ngành : Luật hiến pháp và hành chính
Mã số : 9 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


Cơng trình đƣợc hồn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hƣơng

Phản biện 1: GS.TSKH. Đào Trí Úc

Phản biện 2: PGS.TS. Lê Thị Hƣơng

Phản biện 3: GS.TS. Nguyễn Minh Đoan

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
tại: Học viện khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xn, Hà Nội
Vào hồi



giờ , ngày

tháng

năm 2021

Có thể tìm hiểu luận án tại:
-

Thƣ viện quốc gia Hà Nội

-

Thƣ viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ
1. Lê Thương Huyền - Lê Quang Thưởng, Một số vấn đề về quản lý nhà
nước đối với hội, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 263 năm 2017
2. Lê Thương Huyền, Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do lập hội ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Nghề luật, số 6 năm 2018.
3. Lê Thương Huyền - Lê Quang Thưởng, Giám sát của các tổ chức xã hội đối
với hoạt động của cơ quan nhà nước, Tạp chí Khoa học nội vụ, số 27 năm 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền TDLH là quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong nhiều
văn kiện chính trị - pháp luật quốc tế. Trên tinh thần đó, khn khổ pháp luật nhằm thực

thi quyền TDLH và các cơ chế, thủ tục nhằm thực thi quyền TDLH đã có những điều
chỉnh từ rất sớm trong lịch sử lập hiến và hệ thống văn bản pháp luật liên quan. Gần đây
nhất, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013 đã tái khẳng định mọi cơng
dân có quyền hội họp, lập hội (Điều 25)
Mặc dù vậy, pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật về quyền TDLH
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Trên phương diện xây dựng pháp luật, đáng chú ý
là: pháp luật chưa kịp thời thể chế hố những chính sách của Đảng và Nhà nước về
hội, nội dung văn bản điều chỉnh quyền TDLH thiếu đồng bộ, chưa theo sát yêu
cầu của thực tiễn, một số văn bản chưa thực sự phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế
về quyền con người… Trên phương diện thực thi pháp luật, nhiều vướng mắc, bất
cập nảy sinh xuất phát từ những hạn chế của hệ thống pháp luật. Trên thực tế, các tổ
chức hội đang loay hoay với các quy định về chức năng và nhiệm vụ của mình nói riêng cũng
như tồn bộ khung pháp lý quản lý hội nói chung. Chính hạn chế, bất cập của pháp luật hiện
hành điều chỉnh những vấn đề về hội đã tác động ở các mức độ khác nhau đến thực tiễn thực
thi quyền TDLH.
Đáp ứng yêu cầu nói trên, đã có một số cơng trình nghiên cứu ở các mức
độ khác nhau hướng tới mục tiêu xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật về hội ở Việt Nam.Tuy nhiên, đang tồn tại khoảng trống đáng kể trong
nghiên cứu có tính liên kết giữa quyền TDLH và xây dựng, hồn thiện khung pháp
lý nhằm tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền TDLH hiện nay.
Đây chính là nhận thức để nghiên cứu sinh lựa chọn và triển khai nghiên
cứu đề tài luận án “Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích tổng quát của luận án là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề
xuất các giải pháp, trọng tâm là các giải pháp pháp lý, nhằm tôn trọng, thúc đẩy và
bảo vệ quyền TDLH ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
- Tâp hợp, phân tích làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận về Hội và quyền
TDLH ở Việt Nam.

- Tìm hiểu pháp luật một số quốc gia về quyền TDLH, làm sáng tỏ các
khuyến nghị và kinh nghiệm của thế giới về tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền
TDLH.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về quyền
TDLH ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền
TDLH ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu
1


- Các quan điểm khoa học về quyền con người và quyền TDLH.
- Các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền TDLH trong ICCPR và các văn
bản chính trị - pháp lý liên quan.
- Thực tiễn điều chỉnh phảp luật về quyền TDLH ở một số nước trên thế giới.
- Hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về quyền TDLH.
- Thực tiễn tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền TDLH ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: trong phạm vi nghiên cứu của luận án, quyền TDLH
được nghiên cứu gắn với cách hiểu phổ biến trên thế giới về hội và không bao gồm
06 tổ chức có chính trị - xã hội, tính chất đặc thù ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 1945 đến nay, trọng tâm là
thời kỳ đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay).
- Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu các Công ước quốc tế
về quyền con người, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật ở một số nước trên thế giới
và thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý thuyết và phương pháp luận
Luận án triển khai nghiên cứu trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác –

Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
quyền con người, về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa nhà nước và cá
nhân, về vai trò của các tổ chức xã hội.
Chủ đề nghiên cứu quyền TDLH ở Việt Nam cũng được triển khai trên cơ sở
tiếp nhận quan điểm khoa học trong một số lý thuyết phổ biến trên thế giới hiện
nay như: Học thuyết về quyền con người, Học thuyết Nhà nước pháp quyền, Lý
thuyết về quản trị quốc gia.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án này bao gồm các
phương pháp: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, phương pháp thu thập số
liệu từ tài liệu tham khảo...Cụ thể:
- Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích tổng hợp: đây là phương
pháp rất quan trọng được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận án để làm rõ cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hiện thực hóa
quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và tham khảo ý kiến chuyên
gia, phương pháp thu thập số liệu từ tài liệu tham khảo được sử dụng ở các
chương 2,3,4 để xâu chuỗi các mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận - thực tiễn trong
và ngoài nước từ đó, so sánh, đối chiếu tại chương 2, 3 về những vẫn đề lý luận
với thực tiễn trong nước, rút ra những gởi mở có thể chọn lọc cho Việt Nam tạo cơ
sở hình thành những kiến nghị tại chương 4.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đưa ra khái niệm đầy đủ về quyền TDLH trên cơ sở phân tích các quan
niệm về quyền con người, về hội và về quyền TDLH trên thế giới và ở Việt Nam;
2


- Luận án nhận diện đặc điểm và các nội dung của quyền TDLH và xác định
những giới hạn chính đáng của quyền TDLH; Luận án chỉ ra tương đối toàn diện

các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi quyền TDLH ở Việt Nam;
- Từ góc độ chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính, luận án
nghiên cứu toàn diện về thực trạng quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay trên hai
phương diện chính: 1/Thực trạng ghi nhận quyền TDLH và 2/Thực tiễn thực thi
các quy định pháp luật về quyền TDLH;
- Luận án xây dựng hệ thống các giải pháp tương đối tồn diện, trong đó
trọng tâm là các giải pháp pháp lý nhằm hiện thực hoá quyền TDLH ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án hệ thống hố và làm sảng tỏ thêm những khía cạnh lý luận cơ bản
về quyền TDLH, qua đó góp phần bổ sung nhận thức lý luận về quyền con người
nói chung, quyền TDLH nói riêng, giúp đổi mới tư duy chính trị và quan điểm
hoạch định chính sách pháp luật về hội và quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng trong hoạt động của các
cơ quan của Quốc hội đối với việc thẩm tra các dự án luật về quyền con người,
trực tiếp là Luật về Hội cũng như các văn bản dưới luật nhằm bảo đảm thực hiện
quyền con người nói chung, quyền TDLH, tự do hội họp của cơng dân nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo hữu ích cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật
học, hành chính học.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về quyền tự do lập hội
Chương 3. Thực trạng quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 4. Quan điểm và giải pháp tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập
hội ở Việt Nam hiện nay
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu về đề tài luận án
1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Liên quan đến quyền cơ bản của con người và quyền TDLH, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu từ các góc độ tiếp cận khác nhau. Về cơ bản, có thể gom
thành ba nhóm như sau:
1.1.1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu chung về quyền con người
Các cơng trình trên đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, lịch sử,
pháp luật và thực tiễn về quyền con người đó là những vấn đề: khái niệm, nguồn
gốc, đặc điểm và bản chất của quyền con người, quyền con người trong lịch sử tư
tưởng chính trị - pháp lý của nhân loại; quy chế pháp lý của quyền con người; các
3


quyền cơ bản của con người và các thế hệ quyền con người; mối quan hệ của quyền
con người với quyền cơng dân, với quốc tịch, với chính trị, đạo đức, với kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, XHDS; pháp luật quốc tế, pháp luật khu vực, pháp
luật quốc gia về quyền con người, mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế, pháp luật khu
vực, pháp luật quốc gia về quyền con người; cơ chế pháp lý quốc tế, khu vực và
quốc gia về quyền con người, luật quốc tế về quyền của một số nhóm người dễ bị tổn
thương; lịch sử phát triển và quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về quyền con người; pháp luật và cơ chế thực hiện, thúc đẩy quyền con người ở
Việt Nam.
1.1.1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về hội và điều chỉnh pháp luật về hội
Các tổ chức xã hội dân sự hiện nay đang phát triển một cách phong phú,
đa dạng và cũng tác động lớn đến xã hội với sự tham gia rộng rãi hơn vào các lĩnh
vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, nghiên cứu khoa học. Các tổ chức này cịn
đóng một vai trị rất lớn trong việc phát triển cộng đồng, tư vấn phản biện chính
sách cho Nhà nước, phát triển các dịch vụ cộng đồng cũng như trong hoạt động
giám sát đối với những tiêu cực của xã hội, của Nhà nước..
Các cơng trình đã cập nhiều nội dung phong phú về lược sử xã hội dân sự,

cấu trúc của xã hội dân sự… trong đó có nội dung liên quan đến vị trí, vai trị của
các hội quần chúng đối với sự hình thành, phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam;
đã đưa ra bức tranh khái quát về những vấn đề lý luận cơ bản về Hội, pháp luật về
Hội, hoàn thiện pháp luật về Hội, đồng thời đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật về Hội ở Việt Nam hiện nay.
1.1.1.3 Nhóm các cơng trình nghiên cứu trực diện về quyền tự do lập
hội và quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm trước đây, việc xây dựng luật về hội đã được khởi động
và được một số cơ quan thực hiện việc khảo sát, nghiên cứu. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu đó mới chỉ tập trung trực diện vào những vấn đề liên quan đến quyền
lập hội và hội họp mà chưa đề cập đến cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đó.
Một cách tổng quát cho thấy các cơng trình nghiên cứu tiếng Việt về
quyền hội họp, TDLH đã có đề cập những nét cơ bản về quyền nhưng chủ yếu
được tiếp cận dưới dạng cung cấp thơng tin mà chưa có những đánh giá chuyên
sâu, đặc biệt là chưa có những so sánh mức độ tương thích giữa pháp luật hiện
hành của Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, cùng với mối quan tâm đến hai quyền lập hội, hội họp tương
đối sớm, đã có nhiều nghiên cứu về các chuẩn mực quốc tế, pháp luật và thực hành
tại các quốc gia liên quan đến hai quyền tự do quan trọng này. Nhìn chung, mặc dù
các nghiên cứu trên thế giới đã tương đối đa dạng, phong phú, vẫn rất thiếu các
nghiên cứu tại Việt Nam đi sâu về quyền TDLH.
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2.1 Những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án cần kế thừa và
tiếp tục phát triển

4


Nhiều cơng trình đã đầu tư phân tích khá chi tiết khái niệm, đặc điểm, tính

chất của hội đối với xã hội, nhà nước và công dân. Về cơ bản, khái niệm “Hội”
được hiểu là tổ chức tự nguyện của cơng dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề,
sở thích và giới có chung mục đích tập hợp, đồn kết hội viên, hoạt động thường
xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và của
cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Trong hầu hết các cơng trình nghiên cứu về hội và quyền
TDLH ở Việt Nam, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Cơng đồn
Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam) không được nhìn nhận
với tư cách là hội.
Liên quan đến quyền TDLH và cơ chế pháp lý bảo đảm quyền TDLH,
cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đánh giá khá đầy đủ, chi tiết về thực trạng
pháp luật về hội ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, thực tiễn thực hiện pháp luật về
quyền TDLH cũng đã được nhìn nhận ở mức độ nhất định.
Trong số các đề xuất, giải pháp nhằm tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền
TDLH được đưa ra bởi các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam, khía cạnh trách
nhiệm của nhà nước trong thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền TDLH đã dành
được sự chú ý thích đáng. Bên cạnh đó, từ khía cạnh pháp lý, nhiều cơng trình
nghiên cứu đã đề cập sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về hội dưới hình thức
một văn bản luật.
1.2.2. Những vấn đề đã được đặt ra nghiên cứu nhưng chưa được giải
quyết thấu đáo
Kết quả của hoạt động nghiên cứu về quyền TDLH và pháp luật về hội là
tư liệu vật chất rất quan trọng để triển khai nghiên cứu đề tài luận án. Trong số các
cơng trình nghiên cứu liên quan, vẫn chưa đạt được sự thống nhất trên những vấn
đề sau:
- Về khái niệm “Hội”: cách tiếp cận hiện nay đều nghiêng nhiều về góc độ
quản lý hành chính, chưa thực sự phù hợp với tinh thần phát huy dân chủ của trong
việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.
- Về nội hàm, nội dung, đặc điểm, giới hạn của quyền TDLH: Các cơng

trình nghiên cứu chưa có sự phân tích đầy đủ, có hệ thống, chưa thực sự tồn diện
- Về cơ chế pháp lý quốc tế và Việt Nam trong bảo đảm quyền TDLH: Kết
quả nghiên cứu chưa làm rõ bối cảnh và nhu cầu thực tiễn của Việt Nam và sự
tương thích giữa các quy định của pháp luật quốc tế với các quy định của pháp luật
Việt Nam đối với quyền TDLH, cũng như yêu cầu cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp Việt Nam về quyền TDLH.
- Về thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật liên quan đến quyền
TDLH: phần lớn các cơng trình nghiên cứu mới dừng lại ở mức giới thiệu khái
quát một số văn bản pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo vệ quyền TDLH, chưa
chỉ ra một cách rõ nét về các nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong thực hiện
quyền TDLH ở Việt Nam.

5


- Về các giải pháp, kiến nghị nhằm tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền
TDLH ở Việt Nam: Các giải pháp được đề xuất mang tính chất đơn lẻ, thiếu đồng
bộ, chủ yếu tập trung vào việc xây dựng khung pháp luật về hội. Đặc biệt, các
cơng trình nghiên cứu chưa chú ý đúng mức các giải pháp liên quan đến tạo lập
điều kiện để hiện thực hoá pháp luật về hội nói riêng, quyền TDLH nói chung.
1.2.3. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án
Trên phương diện lý luận, luận án cần phân tích một cách sâu sắc, toàn
diện các quan điểm khoa học để đưa ra cách hiểu đầy đủ về khái niệm về Hội và
quyền TDLH. Luận án cần nhận diện đầy đủ hơn về chủ thể, nội hàm, giới hạn,
mối quan hệ và các yếu tố ảnh hưởng tới quyền TDLH.
Trên phương diện thực tiễn, luận án cần trình bày một cách có hệ thống về quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội, về quyền TDLH cũng như cách
tiếp cận trong QLNN đối với hội và bảo đảm quyền TDLH ở Việt Nam.
1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu của luận án
1.3.1. Giả thuyết nghiên cứu

Hoạt động nghiên cứu của luận án được triển khai trên cơ sở giả định rằng,
trong một thời gian dài, quyền TDLH ở Việt Nam chưa được đề cao và thực hiện
đầy đủ trên thực tế do nhận thức chính trị, chính sách pháp luật và các quy định
pháp luật hiện hành về quyền TDLH ở Việt Nam chưa thực sự phù hợp với quan
niệm của gia đình nhân loại và các chuẩn mực pháp lý quốc tế được thể hiện trong
các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia với tư cách
thành viên.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận thức như thế nào là đúng đắn về quyền TDLH?
- Quyền TDLH có cấu trúc nội dung như thế nào? Khả năng giới hạn đối với
quyền TDLH và các mối quan hệ giữa quyền TDLH với các quyền con người khác?
- Thực tiễn pháp lý của quyền TDLH ở Việt Nam (thực trạng ghi nhận
bằng pháp luật và thực tiễn thực thi các quy định pháp luật về quyền TDLH)?
Những vấn đề gì đang đặt ra trước yêu cầu tiếp tục tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ
quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay?
- Cần có những giải pháp nào (đặc biệt là các giải pháp pháp lý) để tiếp tục
tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay?
1.3.3 Hướng tiếp cận cuả luận án
Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đề tài này
trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ nhất có thể đối với các cơng trình khoa
học có liên quan đến vấn đề quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận về bảo đảm quyền con người nói chung,
luận án sẽ tập trung hướng nghiên cứu việc bảo đảm quyền TDLH ở góc độ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính trong mối tương quan với các
quyền dân sự, chính trị khác.
Luận án nghiên cứu, rút ra những điểm chung về bảo đảm quyền con
người ở các nước trên thế giới để từ đó đưa ra những giải pháp tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta nhằm góp
6



phần hồn thiện pháp luật, tiếp tục tơn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người
tại Việt Nam.
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI
2.1. Khái niệm, đặc điểm và các mối quan hệ của quyền tự do lập hội
2.1.1. Khái niệm quyền tự do lập hội
2.1.1.1. Khái niệm Hội
Quan niệm chung trên thế giới cho rằng hội được thành lập từ nhu cầu liên
kết và hợp tác có tính chất tất yếu của con người trước những thách thức của đời
sống kinh tế, cũng như đời sống chính trị – văn hóa – xã hội. Hội có thể được
phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau:Căn cứ vào mục đích liên kết, cách thức
thành lập, địa vị pháp lý, tính chất hoạt động, phạm vi hoạt động, căn cứ vào
nguồn kinh phí hoạt động.
Ở Việt Nam, nhận thức về hội là vấn đề đang có nhiều tranh luận, xuất
phát từ những góc nhìn khác nhau. Mặc dù có những khác biệt nhất định nhưng trên
những nét chung nhất, quan niệm về hội ở Việt Nam được đề cập với những đặc trưng cơ
bản sau: (i) là tổ chức tự nguyện của quần chúng; (ii) tập hợp đông đảo những người cùng
ngành nghề, hoặc cùng giới, hoặc cùng sở thích…; (iii) hoạt động thường xun, liên tục;
(iv) khơng vì mục đích lợi nhuận; (v) mục đích hoạt động khơng trái với lợi ích dân tộc, lợi
ích tổ quốc và trong khn khổ pháp luật. Về cơ bản, các hội ở Việt Nam gồm 04 nhóm
lớn: (1) Các tổ chức quần chúng; (2) Các hội nghề nghiệp và các tổ chức bảo trợ; (3) NGO
Việt Nam; (4) Các tổ chức tại cộng đồng.
Tổng hợp các cách hiểu nói trên và đối chiếu với thực tiễn xây dựng, phát
triển các Hội trên thế giới và ở Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa về Hội như sau:
Hội là tổ chức có tính cộng đồng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện của cơng
dân có chung tơn chỉ, mục đích; tự chủ, tự quản; hoạt động thường xun, liên tục;
khơng vì lợi nhuận, nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Hội bao gồm hội có nghĩa vụ đăng ký và hội khơng có nghĩa vụ đăng ký theo quy
định của pháp luật.

2.1.1.2. Quyền tự do lập hội
Trên phương diện pháp lý, tự do biểu hiện một cách tập trung và thực tế ở
các quyền con người, trong đó có quyền tự do cá nhân. Tự do được hiểu là những
quyền bất khả xâm phạm, không bị giới hạn trừ sự giới hạn vì lợi ích của cá nhân
khác và cộng đồng. Quyền tự do nói chung có tính chất “không thể chuyển nhượng
được”, không tách rời chủ thể bằng bất kỳ hình thức nào, khơng thể là đối tượng
của trao đổi, mua bán, tặng cho…mà phải gắn với những con người cụ thể.
TDLH được nhìn nhận là một trong những quyền con người trong nhóm
quyền tự do. Theo UDHR, ngồi việc quy định: “Mọi người có quyền tự do hội
họp và lập hội một cách hịa bình”, khoản 2 Điều 20 cịn nêu rõ: “Khơng ai bị ép
buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó, ICCPR đã tái khẳng định và
cụ thể hóa tại Điều 22, trong đó nêu rõ: “Mọi người có quyền TDLH với những
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của
mình”. Theo tinh thần của các quy định trên thì quyền TDLH bao gồm ba khía
7


cạnh: (i) quyền thành lập hội; (ii) quyền gia nhập hội; và (iii) quyền hoạt động,
điều hành hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh phí.
Phân tích các quan điểm và thực tiễn pháp lý trong và ngoài nước, theo quan
điểm của tác giả, quyền TDLH cần được hiểu là: “quyền của các cá nhân được tự
do liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để theo đuổi những hoạt động tập thể
hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung, bao gồm quyền thành
lập, tham gia một hội, nhóm; quyền khơng tham gia một hội, nhóm; quyền được ra
khỏi hội, nhóm đó.
2.1.2. Đặc điểm của quyền tự do lập hội
2.1.2.1. Quyền tự do lập hội là quyền chính trị - dân sự cơ bản của
con người
Quyền TDLH là một quyền chính trị quan trọng. Quyền chính trị là những
quyền liên quan đến giá trị mà mỗi người được hưởng như quyền tự do tự do ngôn

luận, quyền tham gia vào quản lý đất nước, quyền bầu cử, quyền hội họp hồ
bình…và trong đó có quyền TDLH. TDLH có mối liên hệ chặt chẽ với các thành
tố của xã hội hiện đại như: hoạt động chính trị, nền dân chủ.
Quyền TDLH cũng mang tính chất là một quyền dân sự. Nó như một bản
hợp đồng kí kết giữa các thành viên với nhau, gắn liền với ý chí tự nguyện của
từng cá nhân mà không thể ép buộc được.
2.1.2.2. Quyền tự do lập hội gắn liền với chế định quốc tịch
Quyền TDLH là quyền thuộc về con người và được quy định khác nhau
trong pháp luật của các quốc gia. Mỗi một nhà nước sẽ dành những bảo đảm đối
với quyền TDLH ở mức độ khác nhau. Đó chính là đặc điểm phái sinh từ quyền
chính trị.
2.1.2.3. Phạm vi của quyền tự do lập hội phụ thuộc vào thể chế chính trị,
quan điểm, thái độ của lực lượng cầm quyền ở mỗi quốc gia và có thể bị giới hạn
Trong mối quan hệ giữa chính trị và quyền con người nói chung, quyền
TDLH nói riêng, chính trị đóng vai trị tiên quyết trong việc bảo đảm thực hiện
quyền. Văn hóa chính trị chính là nền tảng tinh thần và đạo đức cho những tư duy
và hành động sáng suốt của các nhà chính trị trong q trình đưa quyền con người
vào đời sống, trong đó có quyền TDLH.
2.1.2.4. Quyền tự do lập hội biểu thị tập trung ở số lượng, tính chất,
mức độ kiểm sốt và vai trị của các tổ chức hội trong đời sống hiện thực tại
mỗi quốc gia
Quyền TDLH thể hiện trên nhiều phương diện nhưng rõ nét nhất là ở sự
tồn tại và vai trò của các hội. Có các nấc thang kiểm sốt, tuỳ thuộc vào độ mở của
nền dân chủ dẫn đến việc nhà nước công nhận, cho phép đăng ký, cấp phép thành
lập hay cấm thành lập các tổ chức hội.
Quyền TDLH có thể được đánh giá qua sự phát triển và thực tiễn hoạt
động của các hội trên thực tế. Tổ chức xã hội có một vai trị quan trọng trong việc
địi hỏi và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của nhà nước đối với cơng dân của mình
thơng qua giám sát và phản biện chính sách.


8


2.1.2.5. Việc thực hiện quyền tự do lập hội đòi hỏi trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định chặt chẽ
Các thủ tục được tiến hành theo những trình tự nhất định vừa cho phép các
công dân thực hiện quyền TDLH vừa tạo điều kiện để nhà nước có thể kiểm sốt
q trình thành lập, hoạt động và chấm dứt các hội và hiệp hội.
2.1.3. Mối quan hệ giữa quyền tự do lập hội và một số quyền dân sự chính trị cơ bản của con người
2.1.3.1. Quyền tự do lập hội và quyền tự do hội họp
Trong mối quan hệ với quyền TDLH, quyền tự do hội họp đóng vai trị là
tiền đề để các nhóm có thể thảo luận, trao đổi về việc lên kế hoạch, hình thành,
triển khai các hoạt động, chương trình của các hội. Thực hiện quyền tự do hội họp
cũng là phương tiện quan trọng để các hội đồn có thể triển khai các hoạt động của
mình tại các địa bàn khác nhau.
2.1.3.2. Quyền tự do lập hội và quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin
Trong mối quan hệ với quyền TDLH, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do
thông tin giúp cho các cá nhân có được thơng tin chính xác, đầy đủ, cơng khai,
minh bạch, từ đó tạo ra sự tin cậy lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội.
2.1.3.3. Quyền tự do lập hội và quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Bình luận chung số 25 của Ủy ban Nhân quyền LHQ đã khẳng định quyền tự do
biểu đạt, hội họp và lập hội là những điều kiện quan trọng cho việc thực hiện hiệu quả
quyền bầu cử và phải được bảo vệ đầy đủ (đoạn 12). Báo cáo năm 2013 của Báo cáo
viên độc lập về TDLH và hội họp (A/68/299) cũng đã tập trung nhấn mạnh tầm quan
trọng của hội họp và lập hội đối với các cuộc bầu cử công bằng và tự do.
2.1.3.4. Quyền tự do lập hội và quyền tự do liên kết của người lao động
Quyền TDLH và quyền tự do liên kết của NLĐ có nhiều điểm tương đồng.
Theo đó, tổ chức cơng đồn của NLĐ là một loại hội đặc biệt, đáp ứng đủ những
tiêu chí về hội nhưng lại có những nét rất đặc thù mà khơng hội và hiệp hội nào có,
ví như quyền đình cơng của tập thể lao động.

2.2. Chủ thể, nội dung, giới hạn chính đáng của quyền tự do lập hội
2.2.1. Chủ thể của quyền tự do lập hội
Tại Khoản 1 Điều 22 ICCPR thì: “Mọi người có quyền TDLH với những
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của
mình”. Nhìn chung, tinh thần này đều được thừa nhận và thể hiện rõ trong quy
định của pháp luật các quốc gia. Hiến pháp của một số quốc gia cũng giới hạn chủ
thể quyền TDLH là công dân. Ở Việt Nam, chủ thể của quyền TDLH là công dân
Việt Nam (Điều 25 Hiến pháp 2013), có nghĩa quyền TDLH thuộc về những người
mang quốc tịch Việt Nam.
2.2.2. Nội dung của quyền tự do lập hội
2.2.2.1. Quyền thành lập, gia nhập, rút khỏi hội
Quyền thành lập, gia nhập và rút khỏi các hội là nội dung chủ yếu của
quyền TDLH. Quyền này bao hàm cả quyền thành lập, gia nhập, rút khỏi các
công đồn để bảo vệ lợi ích của người lao động (Điều 8 ICESCR).
2.2.2.2. Quyền hoạt động tự do và được bảo vệ trước sự can thiệp vô lý
9


Quyền tự do hoạt động và điều hành hội bao gồm rất nhiều quyền khác nhau
như quyền tự do triển khai các hình thức hoạt động, quyền tự do vận hành, quyền
tham gia các hoạt động tố tụng…, trong đó quan trọng nhất là các quyền về tài
chính và tài sản, quyền chủ động và tự chủ về nhân sự và tổ chức. Tự do hội họp,
triển khai các dự án, hoạt động tại các địa bàn khác nhau cũng là thành tố quan
trọng của TDLH.
2.2.3 Giới hạn chính đáng của quyền tự do lập hội
2.2.3.1. Nguyên tắc giới hạn quyền tự do lập hội
Là một quyền con người, quyền TDLH cũng bị giới hạn bởi những chuẩn
mực chung về giới hạn quyền con người. Tuy nhiên, việc giới hạn quyền TDLH
cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, việc giới hạn quyền phải được quy định rõ ràng trong luật.

Thứ hai, việc giới hạn quyền phải cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi
ích an ninh quốc gia hoặc an tồn, trật tự cơng cộng; bảo vệ sức khỏe và đạo đức
xã hội; bảo vệ các quyền và tự do của người khác.
2.2.3.2. Phạm vi giới hạn chính đáng của quyền tự do lập hội
Một là, giới hạn minh thị (express limitations)
Những điều này liệt kê các mục đích lý giải cho việc hạn chế quyền, ví dụ
như để bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự công cộng, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và
xã hội hoặc để bảo vệ tự do của người khác chẳng hạn như quyền tự do ngơn luận
có thể bị giới hạn vì mục đích bảo vệ tự do của người khác như quyền về bí mật
đời tư, bí mật kinh doanh (Điều 19 ICCPR).
Hai là, giới hạn ngầm định (implied limitations)
Những giới hạn ngầm định là kết quả của việc diễn giải những thuật ngữ
“công bằng” (Điều 14 ICCPR), “tùy tiện” (Điều 17 ICCPR), “hợp lý” (Điều 25
ICCPR). Có những điều khoản khơng nêu sự giới hạn của quyền có liên quan,
nhưng khi giải thích về quyền đó các cơ quan nhân quyền quốc tế có thể nêu ra hạn
chế của nó. Ngồi ra, tồn tại một giới hạn khác không đến từ cơ quan công quyền,
mà xuất phát từ bản chất của TDLH, đó là nguyên tắc tự do, tự nguyện hợp đồng.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do lập hội
2.3.1. Yếu tố chính trị
Trong mối quan hệ giữa chính trị và quyền con người nói chung, quyền
TDLH nói riêng, chính trị đóng vai trò tiên quyết trong việc bảo đảm thực hiện
quyền. Trước hết, điều kiện chính trị thể hiện ở chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ,
coi trọng và đề cao quyền con người.Tác động của yếu tố chính trị đến quyền
TDLH cịn thể hiện ở tương quan quyền lực chính trị giữa các nhóm lợi ích khác
nhau trong xã hội, phản ánh mức độ nhu cầu chính trị của quần chúng và áp lực
chính trị lên giới cầm quyền. .
2.3.2. Yếu tố pháp luật
Pháp luật vừa đóng vai trị thu hẹp khoảng cách đó vừa tạo kênh dẫn cho các
quyền pháp định của con người đi vào đời sống thông qua việc ghi nhận trong
pháp luật và tạo cơ chế pháp lý đảm bảo việc thực thi các quyền con người.


10


2.3.4. Yếu tố kinh tế - văn hóa – xã hội
Kinh tế chính là một trong những yếu tố tiền đề về vật chất để quyền TLDH được
thực hiện. Bản thân các nhu cầu tự do sẽ khó có thể phát triển và các giá trị tự do sẽ không
được nhìn nhận đúng trong một xã hội lạc hậu và thiếu thốn vật chất.
Bên cạnh yếu tố kinh tế, văn hoá cũng là yếu tố tác động đến thực hiện
quyền TDLH, cụ thể là văn hoá nhân quyền.
Trạng thái xã hội cịn thể hiện ở những yếu tố mang tính chất truyền thống,
chẳng hạn như thói quen sống và hoạt động trong tập thể. Điều này, như một tất
yếu, tác động đến nhu cầu thành lập và hoạt động của các hội, nhóm, và gắn với nó
là nhu cầu được thừa nhận và bảo đảm trong thực tế quyền TDLH của các cá nhân.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Hội là tổ chức có tính cộng đồng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện của
cơng dân có chung tơn chỉ, mục đích; tự chủ, tự quản, hoạt động thường xuyên,
liên tục, không vì lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội
viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật.
Quyền TDLH là một quyền cơ bản của con người. Quyền TDLH được hiểu
là “quyền của các cá nhân được tự do liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để
theo đuổi những hoạt động tập thể hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan
tâm chung. Quyền TDLH của công dân gồm hai nội dung cơ bản: (1) quyền thành
lập, tham gia và rút khỏi hội; (2) Quyền hoạt động tự do và được bảo vệ trước sự
can thiệp vô lý.
Việc bảo đảm thực hiện quyền TDLH là trách nhiệm của nhà nước ở mọi
quốc gia. Quyền TDLH của công dân thường được các quốc gia thể hiện trong
Hiến pháp hoặc trong các luật gốc. Ở Việt Nam, quyền TDLH của công dân được
nhà nước ghi nhận trong các bản Hiến pháp Việt Nam. Quyền TDLH là một quyền
dân sự - chính trị, chính vì thế nó có mối quan hệ mật thiết với một số quyền khác

như quyền tự do hội họp, quyền tham gia QLNN và xã hội, quyền tự do liên kết
của NLĐ…Những nhóm quyền này tạo tiền đề cùng nhau song hành và phát triển.
Quyền TDLH không phải là một quyền tuyệt đối, có thể bị giới hạn vì
những lý do được ghi nhận trong luật ở mỗi quốc gia, chủ yếu gắn với an ninh, trật
tự, an toàn xã hội và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác. Trong pháp luật Việt
Nam, nhà nước cũng đặt ra những giới hạn nhất định, mặc dù liên quan đến vấn đề
này đang cịn có những tranh luận khác nhau.
Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền TDLH chịu ảnh hưởng của
những yếu tố khác nhau (chính trị, pháp luật, kinh tế - xã hội). Các yếu tố này có
thể thay đổi theo chiều hướng tích cực dưới tác động của nhà nước để trở thành các
điều kiện bảo đảm q trình hiện thực hố quyền TDLH. Tuy nhiên, không thể đặt
vấn đề ngược lại là chỉ khi nào có đầy đủ tất cả các điều kiện cần thiết mới tôn
trọng và thực thi quyền.

11


CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền tự do lập hội
Nhiều văn kiện do Đảng ban hành trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân
tộc (1930-1945) đã nêu rõ những đòi hỏi về quyền lập hội. Về mặt đường lối, Đại
hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 đã xác định
phương hướng: “mở rộng và đa dạng hố các hình thức tập hợp nhân dân tham
gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu
nghị, từ thiện – nhân đạo”.
Điểm đặc thù trong tư duy, nhận thức của Đảng ta về hội và quyền TDLH
là sự thừa nhận tính chất chính trị - xã hội của một số tổ chức có tầm quan trọng
đặc biệt: MTTQ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân, Hội Cựu

chiến binh. Do vậy, ở Việt Nam từ sau khi chính quyền được thành lập cho đến
nay đã có sự hiện diện của các tổ chức chính trị - xã hội bên cạnh các hội thơng
thường, làm hình thành hai loại hình cơ bản về tổ chức hội mà giữa chúng vừa có
những điểm tương đồng và những điểm khác biệt.
3.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng hiến định về quyền tự do lập hội
Ngay từ rất sớm, quyền TDLH ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến pháp
và trải qua các thời kỳ, Hiến pháp với vai trò là đạo luật tối cao của quốc gia, luôn
bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân ở “cấp độ” cao nhất. Mặc dù có nhiều
thay đổi, phát triển, song các bản Hiến pháp của nước ta đều nhất quán ghi nhận
quyền TDLH, coi đây là một trong những quyền cơ bản và quan trọng của công
dân.
Điều 69 Hiến pháp năm 1992 Quy định “Công dân có quyền tự do ngơn luận,
tự do báo chí, có quyền được thơng tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình”. Hiến
pháp 2013, tại Điều 25 đã quy định: “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”. So với Hiến pháp năm 1992, kỹ thuật lập hiến tại Điều
25 Hiến pháp năm 2013 có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, giúp chính xác
hố tên gọi và qua đó làm rõ hơn nội hàm của quyền TDLH. Như vậy, trên phương
diện hiến định, quyền TDLH với tư cách là một quyền cơ bản của công dân luôn
được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, như một sự đảm bảo quan trọng về mặt pháp lý cho việc thực hiện quyền
TDLH của người dân. .
3.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền tự do lập hội
. Bước vào thời kỳ đổi mới, đã có rất nhiều các văn bản quan trọng liên quan
trực tiếp đến hội. Trên cơ sở hệ thống hoá các văn bản điều chỉnh những vấn đề
liên quan đến quyền TDLH, có thể thấy nổi lên một số nội dung chủ yếu sau:
3.2.2.1. Về chủ thể quyền tự do lập hội

12



Thứ nhất, chủ thể của quyền TDLH theo pháp luật được xác định là cơng
dân Việt Nam. Người nước ngồi và người không quốc tịch bị hạn chế quyền
TDLH ở Việt Nam.
Thứ hai, về độ tuổi công dân được thành lập hội và tham gia hội, trẻ em
(người dưới 18 tuổi) có quyền lập hội và tham gia sinh hoạt hội.
Thứ ba, chủ thể quyền TDLH có thể là pháp nhân.
Thứ tư, điều kiện đối với sáng lập viên đang bị hạn chế .
3.2.2.2. Quyền thành lập và gia nhập hội \
Thứ nhất, để thành lập hội thì phải “xin phép” cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đăng ký thành lập hội phải trải qua hai quy trình. Làm mất đi tính chất liên
kết một cách tự nguyện của quyền TDLH.
Thứ hai, việc thành lập hội phải đáp ứng các điều kiện như: mục đích hoạt
động khơng trái luật, tên hội và lĩnh vực hoạt động chính của hội khơng trùng với
hội đã được thành lập trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ; có điều lệ, có trụ sở và
có đủ hội viên đăng ký tham gia.
Thứ ba, người sáng lập hội phải thành lập Ban vận động thành lập hội.
Thứ tư, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về quyền gia nhập và
thành lập của công dân chưa có sự thống nhất, động bộ.
Thứ năm,
3.2.2.3. Quyền tự do hoạt động hội và bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý
Quyền tự do hoạt động hội được thể hiện khá tập trung trong Điều 23 Nghị
định số 45/2010/NĐ-CP khi đưa ra các quy định về quyền của hội
Quyền tự do hoạt động hội được thể hiện cơ bản trong Điều lệ hội. Sự can
thiệp của nhà nước trong nội dung này vừa quá sâu, vừa không cần thiết.
Quyền tự do hoạt động hội gắn liền với quy định về quyền và nghĩa vụ của
tổ chức hội. Nội dung này đã được quy định khá đầy đủ tại Điều 23 và Điều 24 của
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, nhưng theo cách thức liệt kê các quyền cũng như
nghĩa vụ cụ thể của hội.

Quyền tự do hoạt động hội phụ thuộc khá nhiều vào cơ cấu tổ chức hội. Tuy
nhiên, đây là khoảng trống trong quy định của pháp luật hiện hành về hội.
Quyền tự do hoạt động hội cũng được pháp luật Việt Nam ghi nhận thông
qua một số quy định liên quan đến phương thức hoạt động của hội. Nhìn từ
phương diện QLNN, quy định này của Nghị định dường như hành chính hố vai
trị, chức năng, hình thức hoạt động của hội; làm hạn chế tính dân chủ rộng rãi của
các hội; làm giảm hiệu quả chức năng giám sát, giám định, phản biện của các hội
trên từng lĩnh vực; làm giảm sự gắn kết theo hệ thống dọc của các hội; làm ảnh
hưởng lớn đến việc trao đổi thơng tin mang tính đặc trưng của hội, sự giao lưu
giữa các hội cùng cấp trong cả nước...
Quyền tự do hoạt động hội có liên quan nhiều tới cơ chế giám sát tài chính
của hội (Điều 23 và 24 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP) thì hội được nhận các nguồn
tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của
pháp luật. Quyền giám sát tài chỉnh của hội thuộc về nhà nước và hội, các nhà tài

13


trợ khơng có vai trị trong giám sát tài chính của hội. Điều này khiến cho trên thực
tế, khó có thể kiểm tra, đánh giá và giám sát việc sử dụng tài chính của hội, dẫn
đến nguy cơ hiện hữu là các hội khơng sử dụng nguồn thu của mình đúng với mục
đích, điều lệ hội.
Quyền tự do hoạt động hội cũng liên quan đáng kể đến các quy định về việc
hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể hội. Theo quy định hiện hành, việc chia
tách, sáp nhập hay hợp nhất, giải thể có rất nhiều căn cứ để thực hiện, tạo điều kiện
dễ dàng cho các hội tự quyết định cách thức tổ chức và hoạt động của mình. Tuy
nhiên, so với pháp luật của đa số các nước trên thế giới thì cịn nhiều nội dung liên
quan chưa được đề cập.
Như đã nói ở trên, quyền TDLH không phải là một quyền tuyệt đối. Khoản
2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc giới hạn quyền như sau:

“Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Một trong những nội dung quan trọng để bảo vệ quyền TDLH đã được bước
đầu được cụ thể hóa trong các quy định pháp luật hiện hành là việc xử lý các hành
vi vi phạm quyền TDLH. Pháp luật quy định cụ thể về các hành vi vi phạm hành
chính, hình sự và chế tài áp dụng cho các hành vi đó khi nó xảy ra trên thực tế.
Đáng chú ý là BLHS năm 2015 đã đặc biệt quan tâm đến việc điều chỉnh các hành
vi xâm phạm quyền TDLH của công dân để xây dựng thành một điều luật riêng
biệt về Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân.
Bên cạnh chế tài hình sự, chủ thể có hành vi vi phạm quyền TDLH và hội
họp của cơng dân có thể phải chịu chế tài hành chính, chế tài kỷ luật trong một số
trường hợp. Chế tài kỷ luật mà chủ thể có hành vi vi phạm quyền TDLH sẽ phải
gánh chịu là quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong hệ thống chính
trị khi áp dụng các biện pháp như khiển trách, cảnh cáo, cách chức, hạ bậc lương,
buộc chuyển cơng tác, buộc thơi việc…Ngồi ra, các hành vi vi phạm quyền
TDLH của công dân của chủ thể vi phạm có thể cịn phải gánh chịu hậu quả pháp lí
thơng qua quyết định xử phạt hành chính của cơ quan quản lý hành chính nhà nước
có thẩm quyền.
3.3. Thực tiễn thực hiện quyền tự do lập hội ở Việt Nam
3.3.1. Thực hiện quyền tự do lập hội trong thực tiễn thành lập và hoạt
động của các hội ở Việt Nam
Hiện nay, theo một thống kê chưa thật đầy đủ đến năm 2016, Việt Nam có
khoảng 68.128 hội trong đó có 498 hội hoạt động trong phạm vi cả nước có 67.627
hội hoạt động ở phạm vi địa phương cụ thể 3639 hội hoạt động ở cấp tỉnh, 7526 hội
hoạt động ở cấp huyện, 56462 hội hoạt động ở cấp xã. Trong số các hội hoạt động
trên cả nước, có 45.703 hội khơng phải là hội đặc thù, 22.422 hội đặc thù. Như vậy
số lượng hội với 11.871 biên chế, nội dung, hình thức hoạt động nhanh, đa
dạng,phong phú [nguồn Bộ Nội Vụ].
Các hội phát triển đa dạng với quy mơ, phạm vi và tính chất hoạt động khác

nhau. Hệ thống tổ chức của hội rất đa dạng. Hoạt động của các hội tập trung nhiều
14


trên các mặt xã hội, nhân đạo, từ thiện, đặc biệt là cung ứng dịch vụ trong một số
lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo vệ mơi
trường. Nhìn chung, các hội đã có nhiều đóng góp vào q trình xây dựng và phát
triển đất nước, thể hiện vai trò là cầu nối giữa các hội viên với cơ quan chính quvền,
qua đó phản ánh nguyện vọng của hội viên, hỗ trợ hội viên trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương
mại, cung cấp thông tin tư vấn về sản xuất và thị trường...
Ngồi ra, các hội cịn được tạo điều kiện tham gia các hoạt động xã hội
hóa, từ thiện, nhân đạo; được hỗ trợ hoạt động, thông tin về chiến lược phát triển
ngành; được giao thực hiện công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội; cung
ứng dịch vụ cơng, đặc biệt chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến
khích, phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngồi cơng lập thơng qua hệ thống
chính sách về thuế, đất, kinh phí thực hiện các đề án nhà nước. Tuy nhiên, trong
một số lĩnh vực hiệu quả chưa thực sự như mong muốn, nhu cầu của hội viên bới các
quy định về quyền và nghĩa vụ của các hội chưa thực sự cụ thể.
Thực trạng thành lập và tồn tại của các hội ở Việt Nam là một chỉ số nói lên
mức độ thực hiện quyền TDLH của công dân Việt Nam. Một nghiên cứu từ năm
2006 đã cho thấy có 65 - 70 triệu/82 triệu (chiếm khoảng 77%) người dân Việt
Nam đang tham gia ít nhất một hội (tổ chức xã hội dân sự), nhiều người tham gia
đồng thời hai đến ba hội.
Tuy nhiên, thực tiễn thành lập và hoạt động của hội ở Việt Nam cũng đang
bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền TDLH.
Ở địa phương, vì nhiều lý do khác nhau, một số hội được công nhận là hội
đặc thù và giao biên chế không đúng với quy định.
Trong thực tiễn quyền tự do hoạt động cũng đã xảy ra trạng thái bất bình
đẳng giữa các hội. Nhìn từ phía hoạt động của các hội, quyền TDLH của công dân

cũng chưa được thực hiện một cách đầy đủ. Điều này thể hiện qua hoạt động của các
hội cịn mang tính hình thức, nguyện vọng của các hội viên chưa được quan tâm và
chưa phản ánh đầy đủ, chính xác.
Trong khi đó, cũng xuất hiện hiện tượng các “Hội chui”, Hội trái pháp
luật.
Nhìn từ phương diện khác, chính người dân đơi khi cũng tạo ra những rào
cản cho việc thực hiện đầy đủ quyền TDLH của mình. Để được cấp phép thành lập
hội và muốn nhanh chóng “được việc”, khơng ít người dân sẵn sàng chấp nhận bỏ
một khoản kinh phí nhất định để để “bơi trơn” guồng máy hoạt động của nhà nước,
gây ra những hệ luỵ tiêu cực trong bộ máy công quyền.
3.3.2. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về hội
Công tác QLNN đối với hội từng bước được đổi mới, bảo đảm các hội thành
lập đúng quy định. Một số bộ, ngành đã tích cực hỗ trợ hội hoạt động, mạnh dạn
giao đề tài nghiên cứu khoa học cho hội, tạo điều kiện cho hội tham gia các ban soạn
thảo luật, pháp lệnh, nghị định... hoặc giao hội cấp chứng chỉ hành nghề.

15


Về biên chế, theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/215 của Bộ Chính
trị khóa XI đã ghi rõ: “Giữ ổn định biên chế của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp” và không quy định đối với hội có tính chất đặc thù.
Về hoạt động phê duyệt điều lệ của cơ quan nhà nước các cấp đối với hội đã
phần nào đáp ứng đầy đủ so với nhu cầu của người dân.
Thực hiện chức năng QLNN về hội, nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều
văn bản, tạo điều kiện cho mọi cơng dân có quyền tham gia thành lập, tổ chức và
điều hành hội của mình.
Về chế độ, chính sách đối với hội viên, quyết định số 30/2011QĐ-TTg đã
tạo cơ sở pháp lý, quy định rõ về chính sách, mức chi trả thù lao đối với người đã
nghỉ hưu làm việc tại hội.

Về bảo vệ quyền TDLH, các hội có thể sử dụng các cơ chế khiếu nại, tố cáo
hoặc khởi kiện theo thủ tục hành chính hay tư pháp.
Nhìn chung, QLNN về hội trong thời gian vừa qua đã có nhiều tiến bộ theo
hướng đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền TDLH ở Việt Nam. Xét theo nghĩa rộng,
Việt Nam hiện đã có cơ chế pháp lý tương đối khả quan về quyền TDLH.
Tuy nhiên, QLNN về hội ở Việt Nam cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết. Trước hết là vấn đề liên quan đến giới hạn của quyền TDLH. Có thể nhận
thấy sự khơng hồn tồn tương thích giữa quy định này với các nguyên tắc về giới
hạn quyền được ghi nhận tại khoản 2 điều 22 công ước ICCPR cả về lời văn và ý
nghĩa.
Việc thành lập các hội gắn liền với nhu cầu của một nhóm người dân thường
phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ cá nhân hoặc năng lực vận động thành viên của ban
sáng lập. Những nhóm yếu thế, khơng phải là hội của những người từng làm thủ
trưởng ở CQNN khi về hưu, khơng có nguồn lực hoặc quan hệ hẹp thì thường rất
khó khăn khi muốn thành lập một tổ chức
Cơ chế “quản lý kép” đối với hội bao gồm QLNN của Bộ Nội vụ (đối với các
hội có phạm vi hoạt động tồn quốc) hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với các hội
có phạm vi hoạt động cấp tỉnh) và một hoặc nhiều bộ, ngành chủ quản chưa được cụ
thể hóa.
Về việc cấp kinh phí hoạt động cho hội, nhiều cơ quan, địa phương chưa
thực hiện đúng quy định của nhà nước, dẫn đến tình trạng phân biệt, khơng cơng
bằng giữa các hội. Nhiều hội được cấp kinh phí từ NSNN cịn là sân sau của các lãnh
đạo cấp cao, cơng chức, viên chức nhà nước khi về hưu. Thực tế cho thấy niềm tin
của công dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành
chính nói riêng đã phần nào suy giảm. Các hội “ảo” trên nền tảng internet tuy có tầm
ảnh hưởng lớn với xã hội cũng chưa có phương thức quản lý đúng đắn, hiệu quả với
loại hội này.
Xét về phía hội, một số hội được thành lập ra nhưng còn hoạt động mang
tính hình thức, khơng tập hợp, thu hút được quần chúng, hội viên tham gia vào hoạt
động của hội. Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về hội chưa cụ thể và bao

quát hết những vấn đề mới phát sinh do đó các cơ quan QLNN chưa có đủ căn cứ
pháp lý để áp dụng pháp luật.
16


Đáng chú ý nữa là, vấn đề giải quyết khiếu nại về quyền TDLH của công
dân chưa được các cơ quan hành chính giải quyết kịp thời, thấu đáo. Trong khi
đó, khiếu kiện về quyền TDLH chưa phổ biến. Cho đến nay, toà án Việt Nam
chưa thụ lý giải quyết vụ việc nào liên quan đến quyền TDLH.
3.4. Đánh giá chung về thực trạng quyền tự do lập hội ở Việt Nam
3.4.1 Ưu điểm và nguyên nhân
3.4.1.1 Ưu điểm
Thứ nhất, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền TDLH đã được hồn thiện
từng bước.
Thứ hai, các khía cạnh cơ bản của quyền TDLH đã được thực hiện trong
thực tế ở các mức độ khác nhau.
Thứ ba, đã xây dựng được cơ chế quản lý tương đối chặt chẽ đối với các
hội, các cơ quan nhà nước đã chủ động hơn trong việc kiểm soát tổ chức và hoạt
động của các hội, góp phần đảm bảo cho quyền TDLH được thực hiện.
Thứ tư, năng lực thực hiện quyền của các chủ thể mang quyền và các điều
kiện đảm bảo thực hiện quyền đã có chuyển biến đáng kể.
3.4.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, sự thay đổi nhận thức theo chiều hướng tích cực và đường lối, chính
sách đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về thực hiện quyền TDLH và
tổ chức hội.
Hai là, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã giúp hệ thống pháp luật Việt
Nam điều chỉnh về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng
tiệm cận với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người nói chung, quyền
TDLH nói riêng.
Ba là, sự phát triển của kinh tế cũng như mức độ lành mạnh hoá của các

quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay giúp tạo ra tiền đề cần thiết cho việc hiện thực
hoá quyền TDLH.
3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.4.2.1 Hạn chế
Thứ nhất, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền TDLH còn nhiều điểm
thiếu hụt và chưa phù hợp.
Thứ hai, quyền TDLH chưa được bảo đảm đầy đủ trong thực tế.
Thứ ba, thiếu một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ khi quyền TDLH bị xâm hại.
Thứ tư, năng lực thực thi quyền TDLH của cơng dân chưa thực sự tương
thích với yêu cầu thực hiện quyền TDLH.
3.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, nhận thức của các chủ thể về quyền TDLH và hội chưa đầy đủ, có
độ vênh nhất định với quan điểm của phổ biến hiện nay trên thế giới.
Hai là, quan điểm lập pháp trong xây dựng pháp luật về hội, quyền TDLH
chưa thực sự minh định, nghiêng nhiều hơn về khía cạnh QLNN về hội.
Ba là, thiếu nhiều điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền TDLH được thực
hiện trong thực tế.

17


Bốn là, có sự lúng túng trong lựa chọn mơ hình tổ chức bảo đảm, bảo vệ
quyền con người nói chung, quyền TDLH nói riêng
Năm là, vị trí của XHDS chưa được đề cao, các yếu tố của XHDS chưa thực
sự định hình đầy đủ.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay đã phần nào được thực thi trên thực tế
thông qua sự ghi nhận của Hiến pháp, khung pháp lý đã có cấu trúc khá tồn diện,
đầy đủ, quy định trực tiếp và liên quan quyền TDLH. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật cũng bộc lộ những hạn chế bất cấp sau: nhiều quy định chồng chéo, chưa

thống nhất, không đồng bộ; các văn bản này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn cuộc sống; một số quy định bất hợp lý, khắt khe - chính là rào cản để hạn
chế quyền TDLH; thiếu đi sự bình đẳng giữa các tổ chúc, hội đồn trong xã hội và
đặc biệt nhất là chưa có Luật về Hội - văn bản pháp lý quan trọng để hiện thực hóa
quyền TDLH trong thực tế…Thực tiễn thực thi quyền TDLH tương ứng với thực
trạng tổ chức, hoạt động của hội và QLNN đối với hội. Ở Việt Nam hiện nay, các
hội phát triển rất phong phú và đa dạng về loại hình, quy mơ, phạm vi và lĩnh
vực hoạt động cả ở trung ương lẫn địa phương. Với mục đích tôn trọng và thúc
đẩy quyền TDLH, các hội đã được Nhà nước tạo điều kiện về cơ sở pháp lý,
kinh phí, biên chế và giao các nhiệm vụ cho hội hoạt động trên thực tế. Nhà
nước cũng thừa nhận chức năng phản biện xã hội, giám định xã hộ i của các hội,
thực hiện các dịch vụ công…Tuy nhiên, QLNN về hội cũng tồn tại một số hạn
chế cần khắc phục như: chưa thống nhất được đầu mối QLNN đối với hội, s ự
phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tồn tại sự thiếu bình đẳng
giữa các hội; QLNN còn thiên hướng “ban phát” quyền hơn là tôn trọng và thúc đẩy
quyền, đặt ra nhiều hàng rào phi kĩ thuật để hạn chế quyền TDLH…Ngoài ra, cơ chế
bảo vệ quyền TDLH khi bị xâm phạm chưa thực sự hữu hiệu. Để xây dựng được một
cơ chế bảo đảm quyền TDLH ở Việt Nam hiện nay cần phải khắc phục được những
hạn chế nêu trên, cân nhắc tới một số các yếu tố: nhận thức của các chủ thể mang
quyền, phương thức thực thi dân chủ, vị trí của XHDS, kỹ năng thực hiện quyền của
người dân, mơ hình bảo vệ quyền TDLH khi bị vi phạm…
CHƢƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC TÔN TRỌNG
THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm đảm bảo quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay
4.1.1. Tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội phù hợp với mục
tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa và các ngun tắc của NNPQ
Hồn thiện tơn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền TDLH của công dân ở
Việt Nam phải gắn liền với xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Nên nó phải được tiến hành theo những yêu cầu và nguyên tắc của việc xây

dựng NNPQ dân chủ.
4.1.3. Tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội không làm
phương hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội

18


TDLH và tự do cộng đồng luôn phải được kết hợp hài hịa trong đó lợi ích
của từng cá nhân con người riêng lẻ có thể phải nhường chỗ cho lợi ích cộng đồng
và ngược lại lợi ích cộng đồng ln đặt trong sự đáp ứng nhu cầu chính đáng của
từng thành viên.
4.2.4. Tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội phù hợp với pháp
luật quốc tế và tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới
Với điều kiện hoàn cảnh của nước ta cùng với sự khác biệt về mặt thể chế
chính trị so với nhiều nước trên thế giới thì việc xây dựng các cơ chế tôn trọng,
thúc đẩy và bảo vệ quyền TDLH một mặt cần đảm bảo tối thiểu các chuẩn mực
quốc tế, mặt khác cần học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm quốc tế một cách có chọn
lọc những thành tựu văn minh của nhân loại.
4.2.5. Tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội vì quyền và lợi
ích hợp pháp của hội viên
Nhà nước khi bảm đảm, bảo vệ quyền TDLH cũng phải cân bằng lợi ích
của các bên trong đó có lợi ích hợp pháp của từng hội viên, tránh tình trạng đánh
mất niềm tin từ phía hội viên đối với nhà nước và chính tổ chức hội.
4.1.6. Tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội tiếp thu phải phù
hợp với truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam
Từ lịch sử hình thành và phát triển các hội, có thể nhìn nhận những yếu tố
văn hóa - lịch sử được duy trì và có ảnh hưởng rõ nét đối với các hội ở Việt
Nam, đó là tính cộng đồng của dân cư làng xã, tính dân chủ, tự quản trong sinh
hoạt cộng đồng, thể hiện ý thức trách nhiệm cao của hội đối với cộng đồng.
4.2. Giải pháp tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do lập hội ở Việt

Nam hiện nay
4.2.1. Đổi mới tư duy nhận thức về quyền tự do lập hội
Từ phía nhà nước và các cơ quan nhà nước, đổi mới tư duy cũng có nghĩa
tiếp tục đổi mới nhận thức lý luận về quyền con người và chuyển đổi tư duy theo
hướng bảo đảm quyền:
- Chuyển từ nhận thức về vai trò quản lý tồn diện của nhà nước sang mơ
hình quản lý dân chủ với sự tham gia của người dân, đưa nhận thức này vào việc
xây dựng luật;
- Chú trọng đầy đủ các quyền con người cơ bản, cả quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa, cả quyền chính trị, dân sự. Chuyển trọng tâm chú ý từ việc thực hiện
quyền mang tính hình thức sang thực chất hơn. Chuyển từ tư duy nhấn mạnh nghĩa
vụ sang tư duy tạo điều kiện và trao quyền cho người dân tham gia, thực hiện song
song cả quyền và trách nhiệm của mọi lực lượng xã hội.
- Chuyển từ nhận thức xóa đói nghèo là mục tiêu sang nhận thức coi đó là
cơng bằng xã hội, gắn kết giữa thực thi quyền với việc giải quyết các vấn đề đặt ra
trong cuộc sống;
Đổi mới tư duy không chỉ là trách nhiệm riêng của nhà nước. Quyền
TLDH muốn được hiện thực hóa thành cơng trên thực tế, bản thân công dân và các
tổ chức hội cũng cần đổi mới nhận thức về quyền và hưởng thụ quyền của chính
mình. Chuyển tư duy tiếp cận lấy nhà nước làm trung tâm sang tư duy tiếp cận đa
19


nguyên, đa tác nhân – trách nhiệm không chỉ là của nhà nước mà là của tất cả các
lực lượng xã hội trong việc thực hiện nhân quyền vì mục tiêu phát triển con người.
Qua đó, cần triển khai tốt một số giải pháp sau:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về nhân quyền và pháp luật về
quyền con người nói chung, quyền TDLH nói riêng nhằm nâng cao văn hoá nhân
quyền, ý thức pháp luật và kỹ năng thực hiện quyền của người dân;
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về hội, quyền con người, quyền

TDLH…theo hướng xác lập cơ sở khoa học cho việc thừa nhận rộng rãi vai trò
của các tổ chức xã hội, tiến tới thừa nhận vị trí của xã hội dân sự như một trụ cột
cơ bản của xã hội phát triển.
4.2.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do lập hội
4.2.2.1.Xây dựng Luật về hội
Để hồn thiện khn khổ pháp lý về quyền TDLH ở Việt Nam, bố cục của
Luật về hội cần tập trung quy định những nội dung sau:
Chương I Những quy định chung
Chương này tập trung quy định về đối tượng và phạm vi điều chỉnh, Định
nghĩa hội, nội dung quyền TDKH, nguyên tắc tổ chức và hoạt động hội, chính sách
của nhà nước đối với hội, các hành vi bị nghiêm cấm, các trường hợp bị hạn chế
quyền TDLH.
Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật về hội
Luật nên quy định đối tượng điều chỉnh của Luật khơng chỉ có các hội có
tư cách pháp nhân mà cịn bao gồm cả hội khơng có tư cách pháp nhân trong cộng
đồng để bảo đảm cho các tổ chức này hoạt động phù hợp với pháp luật và nhà
nước có cơ sở quản lý hoạt động, phát huy vai trị của các tổ chức này.
- Về các hội khơng có hội viên: Trên thực tế những hội này vẫn hoạt động
tích cực mặc dù khơng có hội viên.
Về các tổ chức không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.
Khoản 3, Điều 1 quy định trong Dự thảo Luật về hội không áp dụng đối
với: a) MTTQ Việt Nam, Công đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam; b) Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tơn giáo tại Việt Nam.
Khái niệm hội: Đối chiếu với thực tiễn xây dựng và phát triển trên thế giới
và ở Việt Nam, Hội được hiểu là “tổ chức có tính cộng đồng, được thành lập trên
cơ sở tự nguyện của cơng dân có chung tơn chỉ, mục đích; tự chủ, tự quản; hoạt
động thường xuyên, liên tục; khơng vì lợi nhuận, nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích
hợp pháp của các thành viên”.
Về chủ thể của quyền lập hội, cần mở rộng chủ thể quyền từ công dân

sang mọi người.
Về các trường hợp vị hạn chế quyền TDLH và các hành vi bị nghiêm cấm
Theo đó cần quy định, liệt kê chính xác những hoạt động “bị hạn chế”
hoặc “cấm” đối với các hội. Cùng với trách nhiệm tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ
quyền TDLH của công dân, ở đa số các quốc gia trên thế giới, nhà nước vẫn quy

20


định một số hành vi nghiêm cấm trong quá trình thực hiện quyền TDLH của cơng
dân có thể tập trung vào các hành vi sau:
- Cản trở hoặc ép buộc công dân phải thực hiện quyền lập hội không dựa
trên sự tự nguyện;
- Can thiệp trái pháp luật vào việc tổ chức và hoạt động của hội, không
tuân thủ các quy định của điều lệ hội đã được đại hội thơng qua và cơ quan có
thẩm quyền cơng nhận;
- Làm phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội;
ảnh hưởng xấu đến lợi ích của dân tộc, của nhà nước;
- Gây tác động xấu đến đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng;
- Làm ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc; gây ảnh
hưởng xấu đến hình ảnh của đất nước;
- Làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân khác;
- Gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc;
- Vi phạm Hiến pháp và pháp luật; tài trợ khủng bố, rửa tiền.
Chương II Thành lập hội
Chương này như tên gọi của chương, nội dung chủ yếu sẽ tập trung quy
định liên quan đến điều kiện thành lập hội, trình tự thủ tục đăng ký thành lập hội,
và thẩm quyền công nhận điều lệ hội và cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp
nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội.
Về điều kiện lập hội, gia nhập hội: Điều kiện lập hội thường có các quy định

liên quan đến: mục đích, trụ sở và tài sản, điều lệ và thành viên. Các quy định liên
quan đến điều kiện về thành viên rất đa dạng, như: Thứ nhất, quyền TDLH đương
nhiên thuộc về mọi công dân của quốc gia, trừ một số trường hợp luật định. Chẳng
hạn như cán bộ công chức, lực lượng vũ trang...
Vấn đề đăng ký và cấp phép: Hội khi có đủ tiêu chuẩn theo quy định thì
được “thừa nhận” và chỉ cần công bố thành lập và làm thủ tục thông báo với cơ
quan QLNN có thẩm quyền (theo phạm vi và lĩnh vực hoạt động). Khi hội có nhu
cầu trở thành pháp nhân thì mới cần đăng ký và cho phép thành lập từ cơ quan nhà
nước.
Vấn đề người đại diên theo pháp luật của hội: Luật về hội cũng nên đưa ra
tiêu chuẩn của người đại diện theo pháp luật của hội phải là “công dân Việt Nam
từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp bị hạn chế quyền lập hội, có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, khơng có án tích”.
Về yếu tố trụ sở và tài sản bảo đảm hoạt động của hội cũng là yếu tố cần
cân nhắc vì có thể gây khó khăn cho việc thành lập hội.
Về công nhận người đứng đầu hội: nhà nước không cần can thiệp quá sâu
vào hoạt động nội bộ của hôi, không cần quy định về việc công nhận người đứng
đầu bởi lẽ chức danh người đứng đầu.
Về các thời hạn quy định cần rút ngắn lại so với các bản dự thảo (60 ngày
đối với đăng ký thành lập hội). Cũng
Chương III Về hội viên, quy định về các vấn đề sau: Hội viên của hội gồm
hội viên chính thức, hội viên liên kết, hội viên danh dự; quyền và nghĩa vụ của hội
21


viên do điều lệ hội quy định; chấm dứt tư cách hội viên, giải quyết quyền và nghĩa
vụ đối với hội viên do điều lệ hội quy định.
Chương IV Về tổ chức, hoạt động của hội quy định các vấn đề sau: cơ cấu
tổ chức của hội gồm đại hội; ban lãnh đạo; ban kiểm tra; đơn vị, tổ chức thuộc hội;
quyền và nghĩa vụ của hội.

Quy định rõ ràng, cụ thể quyền và nghĩa vụ của các hội theo hướng đảm bảo
nguyên tắc “hội được làm những gì pháp luật không cấm; đồng thời xây dựng hệ
thống tiêu chuẩn chuyên môn trong các lĩnh vực đặc thù mà hội phải tuân thủ; quy
định trách nhiệm giải trình của hội trước các cơ quan nhà nước cũng như quyền
khiếu nại và khởi kiện của hội đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội.
Chương V Về hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, tạm đình chỉ, giải thể hội.
quy định về các vấn đề sau: hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội; tạm đình chỉ hoạt
động hội; giải thể hội.
Chương VI Tài sản và tài chính của hội quy định về tài sản, tài chính của
hội; quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội phải cơng khai, minh bạch theo điều
lệ hội và quy định của pháp luật; được sử dụng để thực hiện tơn chỉ, mục đích, quyền
và nghĩa vụ của hội, không được chia cho hội viên.
Với mục tiêu cuối cùng là giải thoát cho NSNN, Luật về hội cần phải quy
định nhằm hạn chế tối đa sự bao cấp, trông chờ vào ngân sách nhà nước. Kể cả
trường hợp tiếp tục duy trình cơ chế giao nhiệm vụ và kinh phí từ NSNN cho các
hội thì phải xây dựng tiêu chí minh bạch và cụ thể để phân loại hội. Trên cơ sở
phân loại như vậy theo từng nhóm sẽ quy định có chế độ tài chính phù hợp và giải
quyết dứt điểm vấn đề kinh phí hoạt động.
Chương VII Quản lý nhà nước về hội quy định về nội dung quản lý nhà
nước về hội; trách nhiệm quản lý nhà nước về hội; khen thưởng, giải quyết tranh
chấp, khiếu nại
Quy định rõ nội dung và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội; kiểm tra việc tn thủ tơn chỉ,
mục đích đã được phê duyệt và việc quản lý và sử dụng tài sản, tài chính của các tổ
chức, nhất là đối với việc sử dụng nguồn tài trợ của nước ngoài và tổ chức quốc tế
đối với các hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về hội.
4.2.2.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật khác theo hướng toàn diện, đồng
bộ, khả thi trong điều chỉnh quyền THLH
Bên cạnh Luật về Hội, Quốc hội cũng cần sớm ban hành các Luật về biểu

tình; Luật Tổ chức tín ngưỡng, Tơn giáo, Luật Bầu cử, Luật Báo chí, Bộ luật Lao
động, Luật Cơng đồn.
4.3.3. Giải pháp về tổ chức thực hiện quyền tự do lập hội
4.3.3.1 Nâng cao trách nhiệm của các thiết chế nhà nước trong việc tổ chức việc
đưa quy định pháp luật về quyền tự do lập hội vào đời sống và trong QLNN về hội
Hoàn thiện hệ thống bộ máy QLNN theo quan điểm tập trung, thống nhất,
có phân cơng phối hợp. Xác định rõ chức năng, tránh chồng chéo. Đẩy mạnh sự
phân quyền, ủy quyền.
22


×