Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 thông qua môn tiếng việt bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống ở trường tiểu học nga yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HOÁ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KỸ NĂNG NÓI
CHO HỌC SINH LỚP TÊN
1 THÔNG
QUA MÔN TIẾNG VIỆTĐỀ TÀI
BỘ SÁCH “KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG”
MỘTỞSỐ
KINH NGHIỆM
DẠY
HỌC
VẦN
TRƯỜNG
TIỂU HỌC
NGA
YÊN
CHO HỌC SINH LỚP 1 ĐẠT KẾT QUẢ CAO
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN HUYỆN CẨM THỦY
Người thực hiện: Trần Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Yên
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ: Giáo viên


Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy
SKKN thuộc mơn: Tiếng Việt

THANH HỐ NĂM 2021


TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

11
12
13
14

17

18
19

MỤC LỤC
Nội dung

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.3. Các giải pháp đã sử dụng
2.3.1. Giải pháp 1: Hệ thống và phân loại các dạng bài luyện nói
được thể hiện trong sách giáo khoa Tiến Việt 1 bộ sách “ Kết nối
tri thức với cuộc sống”.
2.3.2. Giải pháp 2: Chú trọng việc rèn kỹ năng nói đủ câu, đủ ý
cho học sinh.
2.3.3. Giải pháp 3: Hình thành kỹ năng nói thành đoạn cho học
sinh
2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện nói theo từng chủ
đề, từng dạng bài cụ thể.
2.3.5. Giải pháp 5: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, đồ
dùng dạy học phù hợp với mỗi chủ đề để tạo hứng thú cho học
sinh luyện nói theo khả năng.
2.3.6. Giải pháp 6: Giúp học sinh tự tin khi luyện nói.
2.3.7. Giải pháp 7: Phối hợp với phụ huynh rèn kỹ năng nói cho
học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:


Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
4
4

5
6
7
10

15
16
17
17


Trong bất cứ thời đại nào, con đường dẫn đến thành cơng của mỗi người
ln có sự đóng góp khơng nhỏ của giao tiếp. Hoạt động giao tiếp không chỉ
được hiểu đơn giản là quá trình trao đổi, truyền đạt và thụ nhận thơng tin, mà đó
chính là sự tác động qua lại giữa con người với con người. Nhờ có hoạt động
giao tiếp con người mới có thể lao động tạo ra sản phẩm, thúc đẩy xã hội phát
triển.
Nhưng để giao tiếp tốt trước hết phải nói tốt. Việc nói tốt hay khơng lại phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố như khả năng ngôn ngữ, mức độ nhận thức của mỗi
người đối với từng vấn đề trong cuộc sống...Chính vì thế ngay từ khi cịn nhỏ
mỗi người đều cần học nói và rèn kỹ năng nói để hồn thiện bản thân tạo cơ hội
cho chính mình bước tới thành cơng.
Ở lớp 1, rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngơn ngữ nói, đặt nền
móng cho việc phát triển ngơn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này.
Tuy nhiên đối với học sinh lớp 1, các em mới chuyển từ mầm non lên, được tiếp
xúc với mơi trường giáo dục, hình thức tiếp cận kiến thức hoàn toàn khác của
một giai đoạn học tập mới so với bậc học Mầm non. Mức độ nhận thức, khả
năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của các em cịn hạn chế. Nhiều em nói khơng
thành câu, diễn đạt lủng củng khơng rõ ý, khi nói chuyện với người lớn cũng nói
giống như đang nói cùng bạn bè. Nhất là khi nói về một chủ đề nào đó các em
rất khó nói rõ được nội dung của chủ đề làm người nghe khó hiểu, đơi khi hiểu
sai vấn đề.
Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay, phần đa giáo viên đã nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng nói cho học sinh tiểu học, nhưng đối với
giáo viên dạy lớp1do phải đầu tư cho việc nghiên cứu chương trình mới để thực
hiện giảng dạy tất cả các môn học đáp ứng với yêu cầu nên dạy học nói và rèn
kỹ năng nói cho học sinh cũng có phần hạn chế.
Vì thế, để rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói lưu lốt, đủ ý, thành câu,
thành một đoạn cho học sinh lớp 1 một cách có hiệu quả giúp học sinh có kỹ
năng nói tốt để vận dụng trong giao tiếp, tôi đã tiến hành nghiên cứu tìm ra Một
số biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 thơng qua tiết 2 của môn
Tiếng việt “Bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống” ở trường Tiểu học Nga
Yên.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn về kỹ năng nói của học sinh lớp 1 từ đó đề
ra một số giải pháp giúp học sinh lớp1có kĩ năng nói tốt, diễn đạt được ý một
cách rõ ràng, mạch lạc, tự tin khi giao tiếp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Lý luận dạy môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
2


- Sách Tiếng Việt lớp 1 bộ sách : “Kết nối tri thức với cuộc sống”.
- Thực tiễn về kỹ năng nói của học sinh lớp 1; việc dạy và học nói cho học
sinh lớp1trường Tiểu học Nga Yên trong môn Tiếng việt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến kỹ năng nói và rèn kỹ năng nói cho học sinh.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Điều tra thực
trạng, thu thập các thơng tin về kỹ năng nói của học sinh lớp 1 và thực tiễn dạy học nói ở lớp 1 trường Tiểu học Nga Yên.
+ Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với học sinh, phụ huynh
học sinh để tham mưu cùng rèn kỹ năng nói cho học sinh.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của học sinh để đánh
giá khả năng nói của các em.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích các tài liệu, số liệu thu
thập được, tìm nguyên nhân và giải pháp để xây dựng các biện pháp rèn kỹ năng
nói cho học sinh thơng qua mơn Tiếng Việt phần luyện nói ở tiết 2 của mỗi bài.
Tổng hợp kết quả đạt được để khẳng định hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Như chúng ta đã biết, đặc trưng của môn Tiếng Việt là tập trung vào sự
hình thành và phát triển các kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào hình
thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề; Tự
chiếm lĩnh tri thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân....
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện
qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Đối với lớp Một, Tiếng Việt là một mơn
học có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm bước đầu

tiên cho học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng. Trong đó, “nói” là một kĩ
năng hết sức quan trọng của bậc tiểu học. Bởi vì nói là một hoạt động diễn ra
thường xuyên của con người nhằm truyền tải những nội dung, suy nghĩ cần trao
đổi của người nói. Như vậy, luyện nói tốt tức là tạo được cơ sở nền móng cho
việc phát triển ngơn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này cho học sinh.
Ở bậc Tiểu học, nói là 1 trong bốn kỹ năng cơ bản cần được rèn luyện và
phải đạt được khi hồn thành chương trình lớp 1, sau đó sẽ được phát triển, hồn
thiện ở các lớp tiếp theo. Chính vì thế khi biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt
lớp 1, cả ở chương trình năm 2000 hay chương trình năm 2018, ở phần học vần
các tác giả đều chú ý tới kỹ năng nói, giành hẳn một phần trình bày riêng về chủ
3


đề luyện nói trong mỗi bài học. Sang phần tập đọc, ở chương trình năm 2000,
sách giáo khoa trình bày chủ yếu để tập đọc và luyện đọc, nhưng chương trình
năm 2018, với bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” ở mỗi bài, mỗi chủ đề
đều có luyện nói để người giáo viên khi lên lớp có thể dựa vào đó rèn kỹ năng
nói cho học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Những năm gần đây việc luyện nói cho học sinh đã được quan tâm nhiều
hơn. Điều đó thể hiện ngay trong cách biên soạn sách giáo khoa lớp 1 chương
trình giáo dục 2000 cũng như chương trình giáo dục 2018. Tuy nhiên, năm học
2020-2021 là năm đầu tiên thay sách theo chương trình phổ thơng mới 2018.
Lượng kiến thức trong mỗi tiết học môn Tiếng Việt lớp 1 nhiều hơn so với
chương trình giáo dục năm 2000 nên khơng tránh khỏi khó khăn cho giáo viên
trong q trình lên lớp. Giáo viên vừa phải nghiên cứu để tiếp cận với sách giáo
khoa mới, vừa lo sao để học sinh đọc thơng viết thạo kịp với u cầu của
chương trình mà khơng cịn thời gian để đầu tư cho phần luyện nói. Do vậy hoạt
động luyện nói trong mơn Tiếng Việt khơng được chú trọng, thời gian dành cho
luyện nói ít, chỉ mang tính chiếu lệ, hình thức. Giáo viên thường hay lúng túng

khơng biết hướng dẫn học sinh luyện nói như thế nào cho hiệu quả, thường
hướng dẫn luyện nói theo tranh một cách sơ sài, hoặc đôi khi đi quá xa dễ lẫn
sang như dạy học đạo đức, tự nhiên xã hội hay hoạt động trải nghiệm. Khi thực
hiện thao giảng, thi giáo viên giỏi, các đồng chí giáo viên cũng rất ngại phải dạy
tiết Tiếng Việt có phần luyện nói, phần mà các đồng chí ít đầu tư để nghiên cứu,
hướng dẫn học sinh, ngại chuẩn bị đồ dùng dạy học, trong khi kỹ năng nói của
các em rất thấp.
Đối với học sinh lớp 1, khả năng quan sát các sự vật, hiện tượng của các em
còn hạn chế, thường thì học sinh khơng quan sát các sự vật được chi tiết. Trong
khi đó vốn sống, vốn từ ngữ của học sinh cịn ít, nghèo nàn nên đơi khi quan sát
được nhưng lại không biết dùng từ để miêu tả, gọi tên, diễn đạt cho sự việc đó.
Ở giai đoạn này, tư duy của các em chủ yếu là tư duy trực quan. Vậy nên nhiều
học sinh khi nói về một vấn đề gì thường bắt chước theo người lớn chứ chưa
biết cách sắp xếp diễn đạt ý và thường nói một cách cộc lốc.
Học sinh trường Tiểu học Nga Yên phần lớn là con của gia đình thuần
nơng, một số ít là con gia đình bn bán hoặc con gia đình cán bộ, viên chức.
Trong giao tiếp hàng ngày, các em thường có thói quen nói tự do, không đủ câu,
đủ ý. Khi được hỏi, các em chỉ trả lời trống không, không biết trả lời thế là chưa
đủ câu nhưng ít được quan tâm để uốn nắn, sửa chữa. Các em thường hay rụt rè,
chưa mạnh dạn tự tin nói trước đơng người. Khi đến lớp các em thường nhút
nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói. Bên cạnh đó các em cũng ít được
4


tham gia các hoạt động trải nghiệm, ít có cơ hội được nói trước đơng người nên
cũng hạn chế khả năng luyện nói của các em.
Năm học 2020 - 2021, tôi được ban giám hiệu nhà trường phân công
giảng dạy lớp 1C. Trước những thực trạng mà thực tế dạy học của khối lớp 1
gặp phải, tôi đã theo dõi và đã tiến hành khảo sát khả năng nói của học sinh qua
các giai đoạn học tập đầu năm học 2020 - 2021 kết quả thu được như sau:


Sĩ số

26

Thời
Điểm
Đầu năm học
Sau 1 tháng học
(hết tháng 9)

Nói thành câu, đủ
ý, thành đoạn lưu
lốt đúng chủ đề
Số
lượng
2
3

Nói đủ câu, đủ ý,
đúng chủ đề

7,7

Số
lượng
5

11,5


6

Tỉ lệ

Nói chưa đủ câu,
chưa đủ ý, chưa
lưu lốt, chưa
đúng chủ đề

19,2

Số
lượng
19

23,1

17

Tỉ lệ

Tỉ lệ
73,1
65,4

Kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh có kỹ năng nói rất thấp, tỷ lệ học sinh nói
chưa đủ câu, chưa đủ ý, chưa lưu lốt, chưa đúng chủ đề cịn nhiều. Từ thực
trạng trên, với mong muốn nâng cao kỹ năng nói cho học sinh, giúp các em tự
tin khi giao tiếp, tôi đã tiến hành áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói
cho học sinh lớp 1C trường Tiểu học Nga Yên.

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Hệ thống và phân loại các dạng bài luyện nói được
thể hiện trong sách giáo khoa Tiến Việt 1 bộ sách “ Kết nối tri thức với cuộc
sống”.
Việc phân loại các dạng bài luyện nói chính là để làm cơ sở cho việc xác
định phương pháp và hình thức tổ chức luyện nói cho học sinh được tốt hơn.
Chính vì thế tơi đã tiến hành thống kê và phân loại các dạng bài luyện nói được
trình bày trong sách giáo khoa với mục đích định hướng cho bản thân trong quá
trình lựa chọn cách thức tổ chức hoạt động luyện nói sao cho có hiệu quả nhất.
Khi lựa chọn sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 để thực hiện chương trình
giáo dục phổ thơng năm 2018, trường tôi đã chọn bộ sách “ Kết nối tri thức với
cuộc sống”. Phần luyện nói được trình bày thành ba dạng bài.
Dạng thứ nhất là “Luyện nói theo chủ đề”. Đây cũng là một dạng bài
tương tự dạng bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 chương trình giáo dục năm
2000. Dạng bài này được trình bày trong toàn bộ phần học vần của sách tiếng
Việt 1 tập 1 gồm 73 bài và 18 bài ở sách Tiếng Việt 1 tập 2. Trong sách Tiếng
Việt 1 tập 1 hầu hết trong mỗi bài học đều có phần luyện nói theo chủ đề được
trình bày thành một mục riêng định hướng cho hoạt động luyện nói ở tiết 2.
5


Sang cuốn sách Tiếng Việt 1 tập 2 dạng bài này được trình bày xen kẽ với các
dạng bài khác.
Dạng thứ hai là “Nói theo tranh” cùng với những từ ngữ cho trước gồm
25 bài được trình bày ở sách Tiếng Việt 1 tập 2. Đây là một dạng bài hồn tồn
mới so với sách giáo khoa của chương trình giáo dục năm 2000. Ở dạng bài này
ngoài các tranh cịn có một số từ ngữ đều thuộc một chủ đề cho trước với mục
đích giúp học sinh nhận diện và nói đúng chủ đề. Dạng bài này thường được dạy
ở tiết 3 hoặc tiết 4 của mỗi bài học.
Dạng thứ ba là “Kể chuyện theo tranh” hoặc “Một chủ đề cho sẵn với các

câu hỏi gợi ý” được trình bày ở cả sách Tiếng Việt 1 tập 1 và Tiếng Việt 1 tập 2
gồm 17 bài. Dạng bài này cũng là dạng bài đã được sách giáo khoa của chương
trình giáo dục năm 2000 đề cập đến.
2.3.2. Giải pháp 2: Chú trọng việc rèn kỹ năng nói đủ câu, đủ ý cho
học sinh.
Muốn học sinh có kỹ năng nói tốt, việc đầu tiên người giáo viên phải làm
là rèn kỹ năng nói đủ ý, đủ câu cho học sinh. Đây khơng phải là giải pháp mới
nhưng nó là bước rất quan trọng trong q trình rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Việc làm này phải được tiến hành ngay từ đầu năm và liên tục trong suốt cả quá
trình học lớp 1 vì nó khơng chỉ hình thành cho học sinh nề nếp thói quen giao
tiếp trong cuộc sống hằng ngày mà nó cịn giúp cho học sinh học tập và làm văn
ở các lớp trên.
Đối với học sinh lớp 1, do thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả
năng nhớ nội dung câu hỏi của học sinh còn hạn chế nên khi trả lời giáo viên
hoặc trả lời các câu hỏi bài tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt
lủn, nói trống khơng, khơng đầy đủ câu. Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu năm
học, với những bài học đầu tiên, tôi đã tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng
nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 6: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan sát và hỏi:
Em hãy cho biết “Bức tranh vẽ gì ?” (cho học sinh trả lời)
Nếu học sinh trả lời “Đàn bị gặm cỏ” hoặc khơng biết cách trả lời thì giáo
viên hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời
phải kèm theo lời thưa cô (thầy). M: Thưa cô, tranh vẽ Đàn bị gặm cỏ. Sau đó
cho học sinh nhắc lại.
Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại
câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đơi khi cho học sinh đọc câu trả lời
đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần
hình thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy
đủ câu.
6



Khơng chỉ hướng dẫn uốn nắn các em nói đủ câu, đủ ý trong tiết Tiếng
Việt, tơi cịn quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất
kỳ môn học nào. Giúp các em luyện nói ở mọi lúc, mọi nơi khi cảm thấy cần
thiết, khi trò chuyện trao đổi, trò chuyện với các bạn, tơi quan tâm để ý từng lời
nói, hành động của các em để các em sửa sai kịp thời. Hướng dẫn cho các em
cách nói, xưng hơ với người lớn, với thầy cơ, bạn bè. Tập cách nói thành câu trả
lời khi người lớn hỏi, câu nói phải có chủ ngữ. Sau nhiều lần được cô giáo nhắc
nhở, sửa lỗi các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu.
Mặt khác học sinh lớp 1 luôn bắt chước người lớn, các em còn rất ngây
thơ, trong tâm trí các em cơ giáo ln là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Mỗi lời nói,
cử chỉ, việc làm của cơ giáo luôn được các em để ý và làm theo. Chính vì vậy
giáo viên cần phải sử dụng câu, từ thật sự chuẩn mực trong quá trình lên lớp
cũng như trong giao tiếp hàng ngày.
Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh đọc bài giáo viên nên nói: “Cơ mời em đọc
bài” thay vì “em đọc bài”. Khi chào hỏi đồng nghiệp… nên nói: “Em chào anh
(Chị)!” chứ khơng nói: Chào anh (chị)! …
*Với cách làm như trên, dần dần học sinh lớp tôi đã biết cách trả lời câu
hỏi đủ ý, đủ câu. Các em khơng cịn nói trống khơng, trả lời câu hỏi của giáo
viên cụt lủn như trước nữa. Sau nhiều tiết thao giảng dự giờ tại lớp tôi, học sinh
lớp tôi được đồng nghiệp và BGH nhà trường đánh giá là học sinh có kỹ năng
trình bày và trả lời câu hỏi tốt. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng để các em
có thể nói thành đoạn, nói theo chủ đề được tốt hơn.
2.3.3. Giải pháp 3: Hình thành kỹ năng nói thành đoạn cho học sinh
Đối với học sinh lớp 1, để giúp học sinh nói, diễn đạt về một chủ đề nào
đó thành đoạn là việc làm vơ cùng khó khăn, bởi học sinh chủ yếu là sống ở
vùng nông thôn, vốn từ của các em rất hạn chế, ngơn ngữ giao tiếp ít. Chính vì
vậy mà khi diễn đạt một vấn đề nào đó các em thường lúng túng, diễn đạt khơng
rõ ràng khiến người nghe khó hiểu.

Trong mơn Tiếng Việt, sau mỗi chủ đề luyện nói thì mục tiêu cuối cùng là
học sinh phải nói được 3 đến 4 câu về chủ đề đó. Chẳng hạn như mục tiêu cuối
cùng của bài luyện nói : “Rừng xanh vui nhộn” này là học sinh phải nói được:
Bức tranh vẽ cảnh ở rừng vào buổi sáng. Có những con vật: chồn, gấu, lợn, sóc,
thỏ, khỉ đứng thành vòng tròn, cầm tay nhau nhảy múa. Khỉ một tay đu cành
cây, một tay bắt bướm. Chim và bướm đang bay lượn. Mặt trời có hình trịn.
Nâng cao hơn đối với học sinh nói tốt thì học sinh phải nói được: Bức
tranh vẽ cảnh ở rừng, vào buổi sáng. Có những con vật: chồn, gấu, lợn, sóc,
thỏ, khỉ. Các con vật đứng thành vòng tròn, cầm tay nhau nhảy múa. Khỉ một
tay đu cành cây, một tay bắt bướm. Chim và bướm đang bay lượn. Khung cảnh
7


khu rừng vào buổi sáng thật vui nhộn. Tuy nhiên phần đa học sinh chỉ có thể
nói: “Tranh vẽ chồn, gấu, lợn, sóc, thỏ, khỉ đang đứng thành vịng trịn nhảy
múa ”.
Chính vì vậy, giáo viên cần phải rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt chủ đề
luyện nói thành đoạn ngắn trên cơ sở học sinh đã biết nói đủ câu, đủ ý, biết cách
trả lời câu hỏi của giáo viên ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1.
Ví dụ: Ở bài 32 chủ đề luyện nói là: “Rừng xanh vui nhộn”. Phần đa học
sinh chỉ có thể nói: “Tranh vẽ chồn, gấu, lợn, sóc, thỏ, khỉ đang đứng thành
vịng trịn nhảy múa”. Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề
trên, trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu
hỏi gợi ý giáo viên đưa ra Bức tranh vẽ cảnh ở đâu? Cảnh buổi sáng hay buổi
chiều? Dựa vào đâu mà em biết? Có những con vật nào trong khu rừng? Các con
vật đang làm gì? Mặt trời có hình gì? Khung cảnh khu rừng vào buổi sáng như
thế nào? Với việc kết hợp các câu hỏi làm điểm tựa để giúp các em trả lời các
vấn đề xoay quanh chủ đề luyện nói, khi hướng dẫn học sinh luyện nói giáo viên
phải thường xuyên chú ý cách trình bày, sửa cho các em câu, từ, cách dùng từ
ngữ để diễn đạt. Có như vậy mới hình thành cho học sinh nề nếp, thói quen trình

bày một vấn đề nào đó phải có sự lơgíc. Đây cũng là tiền đề để học sinh có khả
năng viết văn ở các lớp học tiếp theo.
* Để giúp học sinh nói được thành đoạn ngắn địi hỏi giáo viên phải kiên
nhẫn, kiên trì hướng dẫn học sinh một cách thường xuyên. Đồng thời phải đầu tư
dành nhiều thời gian nghiên cứu bài học. Đặc biệt giáo viên phải coi việc giúp
học sinh luyện nói thành đoạn ở phần luyện nói trong môn Tiếng Việt lớp 1
không những giúp cho học sinh nói năng trơi chảy, trình bày 1 vấn đề nào đó
được rõ ràng, đủ ý, giúp người nghe hiểu được vấn đề mà nó cịn giúp cho học
sinh lớp 1 hình thành một số kỹ năng học văn ở những lớp cao hơn. Đây chính là
kỹ năng cần thiết và rất quan trọng của các em học sinh.
2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện nói theo từng chủ đề,
từng dạng bài cụ thể.
Cùng mục đích là định hướng cho việc luyện nói cho học sinh, nhưng mỗi
dạng bài được trình bày trong sách giáo khoa đều có những điểm riêng biệt. Do
vậy để học sinh có thể luyện nói tốt, trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm
rõ chủ đề và yêu cầu khi luyện nói theo từng dạng bài.
* Luyện nói theo chủ đề:
Mỗi chủ đề luyện nói ln gắn liền với cuộc sống, mơi trường quen thuộc,
gần gũi với sự hiểu biết của các em. Đặc biệt ở mỗi bài học vần, tập đọc sẽ có
chủ đề nói tương ứng. Chính vì vậy mà giáo viên cần xác định rõ, đúng mục tiêu
của chủ đề luyện nói để hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề.
8


Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Nói lời xin lỗi”, “Giúp đỡ
cha mẹ”, ”Khi có khách đến nhà”… Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang
dạy đạo đức. Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu
hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói:
Ví dụ: Đối với chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Nói lời xin lỗi” giáo viên định
hướng cho các em: Em chỉ nói cho cơ và các bạn nghe về những lần mình đã

cảm ơn ai đó về điều gì? Hay mình đã nói lời xin lỗi ai trong trường hợp nào?
Với các chủ đề “Giúp đỡ cha mẹ”, “Khi có khách đến nhà” thì chỉ kể
những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ của mình? và chỉ kể những việc em đã
làm khi có khách đến nhà chơi? …..
Hoặc khi dạy luyện nói những chủ đề về “Cây cối”; “Thời tiết”, “ao hồ”,
“mặt trăng và mặt trời, thế giới trong lòng biển, thế giới trên bầu trời”, “mưa và
nắng”, “chồn, gấu, lợn, sóc, thỏ, khỉ” … thường dễ lẫn sang dạy tự nhiên xã hội.
Do đó, tơi cũng cố gắng giúp học sinh hiểu rõ nội dung chủ đề và yêu cầu luyện
nói bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề, không sa vào tìm hiểu về
đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,….
Chẳng hạn với những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên
nhiên như: thời tiết, mưa, nắng,… Tôi cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan
đến các hiện tượng đó, học sinh sẽ nêu được tên của các sự vật trên. Sau đó, giáo
viên chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để các em cùng thảo luận với nhau về các hiện
tượng thiên nhiên và ích lợi và tác hại của chúng.
Với những chủ đề nói về động vật: Giáo viên có thể cho các em sắm vai
tên của các con vật trong chủ đề cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của các
em về chúng như: Em thích hay khơng thích con vật đó? Hoặc nói lên cảm nhận
của mình: Tại sao em lại thích, khơng thích con vật đó?
Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý SGK qua hình vẽ hay
gợi ý ở SGV rất ít, có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh không diễn tả hết nội
dung chủ đề. Bởi vậy, nếu người giáo viên chỉ làm theo SGK, SGV không mở
rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ
thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở SGK để giúp các em tập trung những hiểu
biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề thơng qua việc trả lời các câu hỏi
của giáo viên.
Vì vậy, giáo viên phải đầu tư trong bài dạy, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi
gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các đối tượng học sinh yếu thì mới có
thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của trẻ trong tiết học.
Ví dụ : Với chủ đề "Nói lời xin lỗi” - bài 36, trong SGV chỉ có 2 câu hỏi gợi ý.

Giáo viên có thể đưa thêm một số câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: Tranh vẽ
cảnh ở đâu? Em nhìn thấy những gì trong tranh? Điều gì xảy ra khi quả bóng rơi
9


vào bàn? Hãy thử hình dung tâm trạng của Nam khi gây ra sự việc. Em hãy đoán
xem mẹ Nam sẽ nói gì ngay khi nhìn thấy sự việc? Nam sẽ nói gì với mẹ?
Theo em, Nam nên làm gì sau khi xin lỗi mẹ? Tùy theo đối tượng học sinh, giáo
viên có thể cho học sinh nói theo khả năng của mình: 1 đoạn, 2 câu hay 1 câu.
* Luyện nói theo tranh:
Tranh vẽ trong phần luyện nói là điểm tựa về chủ điểm vì thế khi khai
thác nội dung tranh vẽ, chỉ để giúp các em hiểu về chủ điểm đó mà nói đúng chủ
điểm. Khi khai thác nội dung tranh, tùy vốn sống của các em mà giáo viên có
thế sử dụng trong sách giáo khoa phóng to hoặc tranh vẽ khác cùng chủ điểm
nhưng gần gũi để giới thiệu.
- Chẳng hạn chủ đề: “Tôi và các bạn”, “mái ấm gia đình”, “mái trường mến
u”... Tơi cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa. Yêu cầu HS làm
việc nhóm đơi, quan sát tranh và trao đổi trong nhóm theo nội dung tranh, có
dùng các từ ngữ đã gợi ý. HS quan sát tranh. HS trình bày kết quả nói theo tranh
của mình. Sau đó giáo viên và học sinh cùng nhận xét.
- Ví dụ khi dạy bài: Nụ hôn trên bàn tay. Tôi cho HS quan sát tranh trong SGK.
- Gợi ý: Tranh 1: Mỗi khi em bị ốm ai là người chăm sóc em? Tranh 2: Trong
cơng viên, hai bố con đang làm gì? HS thảo luận nhóm đơi. Sau đó trình bày kết
quả. HS chỉ cần nói được: “Mẹ ln ở bên em, chăm sóc em, mỗi khi em ốm . /
Mỗi khi em bị ốm, mẹ thường ở bên chăm sóc em”. Tranh 2 : “Trong công viên,
hai bố con đang chơi trị lái ơ tơ điện”. GV và HS cùng nhận xét.
* Luyện nói “Kể chuyện theo tranh” hoặc “Một chủ đề cho sẵn với các
câu hỏi gợi ý” được lồng trong các tiết tập đọc :
Trong chương trình Tiếng Việt 1, khơng có phân mơn kể chuyện riêng, mà
nó được lồng ghép tiết kể chuyện trong các bài ôn tập ở kì 1 tiết 2. Cịn kì 2 các

tiết kể chuyện nó lồng ghép trong bài tập đọc được dạy trong tiết 3 hoặc tiết 4.
Với dạng kể chuyện theo tranh. Các tiết kể chuyện này mục đích cũng là giúp
học sinh sau khi nghe xong câu chuyện giáo viên vừa kể học sinh bằng sự tư duy
của mình và vốn từ ngữ nói (kể) lại được câu chuyện đó bằng ngơn ngữ của
mình, khơng nhất thiết là phải thuộc lòng lời kể của câu chuyện mà vẫn giữ
được nội dung câu chuyện. Còn với dạng kể chuyện chủ đề cho sẵn có các câu
hỏi gợi ý thì giáo viên cho học sinh dựa vào câu hỏi được gợi ý để thảo luận nội
dung bài kể, khen gợi những học sinh có cách kể hấp dẫn linh hoạt.
Ví dụ: Khi học bài ơn tập 40 với chủ đề luyện nói là câu chuyện: Hai
người bạn và con gấu.
Giáo viên dùng tranh minh họa giới thiệu câu chuyện, nhân vật có trong
câu chuyện. Sau đó giáo viên kể chuyện theo tranh 2 - 3 lần giúp học sinh nắm
được nội dung câu chuyện. Sau đó giáo viên dùng hệ thống câu hỏi của mình để
10


học sinh nêu được nội dung câu chuyện. Chia nhóm để học sinh đóng vai là các
nhân vật trong câu chuyện để kể lại từng đoạn chuyện, và cao hơn nữa là kể lại
toàn bộ câu chuyện “Hai người bạn và con gấu” bằng vốn từ ngữ và sự hiểu biết
của mình. Hay ví dụ bài ơn tập trang 62 khi dạy kể chuyện một chủ đề cho sẵn
với nội dung “Kể về một ngày ở trường của em”. Tôi cho HS đọc nội dung bài.
Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đơi. Tơi gợi ý: Em thường đến trường lúc mấy
giờ? Em tan trường lúc mấy giờ? Ở trường, hằng ngày, em thường làm những
việc gì? Việc nào em thấy thú vị nhất?.
Sau khi thực hiện giải pháp này học sinh lớp tôi đã xác định được chủ đề
và yêu cầu luyện nói trong từng tiết học và nói được 2 - 3 câu thuộc chủ đề đã
cho một cách lưu lốt, rõ ràng. Cá biệt có những em biết vận dụng vốn hiểu biết
một cách sáng tạo có hình ảnh để nói về chủ đề đó.
2.3.5. Giải pháp 5: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, đồ
dùng dạy học phù hợp với mỗi chủ đề để tạo hứng thú cho học sinh luyện nói

theo khả năng.
Học sinh lớp 1 đang ở giai đoạn tư duy trực quan là chủ yếu, các em thích
mới lạ nhưng cũng rất nhanh chán. Nếu rập khn một cách máy móc một hình
thức hướng dẫn học sinh luyện nói dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng
thú với hoạt động luyện nói. Đặc biệt trong một lớp sẽ có nhiều đối tượng học
sinh. Chính vì vậy mà trong q trình luyện nói cho học sinh tơi ln phối kết
hợp giữa đồ dùng, phương tiện dạy học sao cho phù hợp với phương pháp và
hình thức dạy học giúp học sinh nhanh chóng nắm được chủ đề luyện nói, hứng
thú khi thực hành luyện nói nhằm nâng cao hiệu quả tiết học.
Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên nên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới
thiệu khác nhau tạo cho giờ học sinh động, hấp dẫn. Muốn vậy giáo viên cần
chia các chủ đề luyện nói được trình bày trong sách giáo khoa thành các nhóm
chủ đề để thuận lợi cho việc lựa chọn phượng tiện, đồ dùng dạy học, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học và để chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng
nhóm đối tượng học sinh.
* Đối với những chủ đề gần gũi với học sinh
Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Gia đình; Bà cháu,
Giúp bạn; … Giáo viên gợi mở cho học sinh nói qua vốn hiểu biết thực tế của
các em, chọn lựa những hình thức trò chơi học tập, vv … Chẳng hạn như:
Với chủ đề nói về gia đình: Bà cháu, Giúp đỡ cha mẹ, … giáo viên có thể
tổ chức cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ơng bà, ba mẹ đã
yêu thương, quan tâm, chăm sóc em hoặc những tình cảm, việc làm của em thể
hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của
mình. Hay với những chủ đề nói về hoạt động, mối quan hệ của các em ở trường
11


như: Giới thiệu, Trên sân trường, Lớp học của em,… Giáo viên tổ chức cho các
em sắm vai để các em tự giới thiệu, nói về chủ đề đó bằng chính thực tế của các
em.

Với chủ đề “Buổi sáng của em” giáo viên có thể cho học sinh kể lại
những việc mình đã làm trong buổi sáng của mình.
Khi học những chủ đề quen thuộc như: chủ đề “Đồ vật quen thuộc” - bài
53 chủ đề “Loài chim” - bài 63, … giáo viên có thể khuyến khích học sinh sưu
tầm hình ảnh, ảnh chụp các đồ vật, con vật, hoặc một số con vật nhỏ thật, những
đồ vật có thể mang đến lớp để quan sát, thảo luận cùng nhau qua đó có thể cùng
nhau luyện nói. Chính đồ vật các em chuẩn bị có khi là sở thích của các em, các
em hiểu rõ về chúng hơn. Bởi vậy sẽ tạo cho trẻ niềm vui, hứng thú khi các em
được nói, kể về chúng với bạn bè của mình. Điều đó cũng góp phần giúp nội
dung luyện nói của giáo viên đạt hiệu quả. Đồng thời trong các buổi luyện nói
về các chủ đề quen thuộc này giáo viên cũng có thể cho học sinh nói theo hiểu
biết của mình về những đồ vật, lồi vật, trong chủ đề.
* Đối với các chủ đề khó nói
Với các chủ đề nói về các lồi hoa, giáo viên có thể đưa những vật thật
hoặc tranh ảnh để học sinh quan sát lấy điểm tựa để luyện nói.
Ở những bài chỉ có 1- 2 câu gợi ý SGV, giáo viên có thể ứng dụng công
nghệ thông tin trong một phần nội dung của tiết học (ở phần luyện nói theo chủ
đề) để giúp học sinh có cơ hội được xem, được thấy những gì có liên quan đến
chủ đề mình đang học qua đó có thể hiểu và nói tốt hơn.
Ví dụ: Bài 54, chủ đề luyện nói: Ao hồ
Ngồi tranh trong SGK. Giáo viên có thể tìm một hình ảnh để giúp học
sinh có thể hiểu rõ về ao và hồ.

Hình ảnh Ao
Hình ảnh Hồ
- Hoặc với chủ đề luyện nói: Ví dụ: Bài 61 “Chợ và siêu thị”
“Chợ là nơi mua sắm quen thuộc hàng ngày của người dân” “Siêu thị
là cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp nhiều chủng loại hàng hóa phong
12



phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh
doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các phương
thức phục vụ văn minh, thuận tiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu mua sắm hàng hóa
của khách hàng”. Chính vì vậy mà việc làm thế nào để học sinh hình dung ra
được các hoạt động của phiên chợ, của siêu thị đòi hỏi người giáo viên phải
dành thời gian sưu tầm tranh ảnh, tìm hiểu thêm nét đẹp của phiên chợ cũng như
siêu thị … để giúp học sinh hiểu rõ chủ đề luyện nói.

Một góc chợ Hồng NgaVăn-Nga Sơn

Hình ảnh Một góc siêu thị

Giáo viên có thể sưu tầm các hình ảnh có các hoạt động diễn ra trong khu
chợ, trong siêu thị. Với học sinh giỏi, khá sau khi cho HS xem, cho các em nói
về những gì các em đã nhìn thấy, cảm nhận được.
Với chủ đề khó nói, khó diễn đạt như vậy, đối với học sinh yếu giáo viên
đưa ra 1 số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ dàng khi quan sát hình
vẽ về khu chợ, siêu thị. Ảnh chụp cảnh gì? Trong ảnh em thấy có ai và có những
gì? Họ đang làm gì? Em đã đi chợ hoặc đi siêu thị bao giờ chưa?
Đối với những em nói tốt hơn, có thể cho các em nói tất cả những điều em
biết về chợ, về siêu thị. Thông qua quan sát ảnh chụp bằng một đoạn chứ không
chỉ đơn giản là trả lời các câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Chủ đề Bài 68: Mưa và nắng
Để giúp học sinh hiểu biết thêm về thời tiết và nói được về các chủ đề này
giáo viên sưu tầm tranh ảnh, về mưa, nắng cho học sinh quan sát tranh ảnh để
các em nhận biết và nói được thời tiết và nói được ích lợi của nó đối với đời
13



sống con người. Giáo viên cũng có thể cho học sinh liên hệ xem bản thân đã
được chứng kiến thời tiết ở địa phương.

Hình ảnh trời mưa

Hình ảnh trời nắng

* Đối với những chủ đề xa lạ
Với những chủ đề lạ, xa với cuộc sống của các em: chủ đề: “Thăm vườn
bách thú”, “Thế giới trong lòng biển”, “Thế giới trên bầu trời”, “Đi lại trên
biển”… giáo viên có thể dùng tranh ảnh hỗ trợ giúp học sinh có thể cảm nhận,
hiều được nội dung chủ đề luyện nói.
Ví dụ: Bài 19 Chủ đề bài “Thăm vườn Bách thú” giáo viên có thể dùng
tranh ảnh giúp các em cảm nhận hết vẻ đẹp sự thích thú khi được đi thăm.
Sử dụng phương pháp đàm thoại, gợi mở vấn đáp giúp các em nói được
những điều các em cảm nhận được qua tranh ảnh.

Hình ảnh vườn bách thú
Với chủ đề: “Thế giới trên bầu trời”: GV hướng dẫn HS quan sát tranh
trong sách giáo khoa. Hình ảnh bầu trời với những sự vật tự nhiên và những sự
vật do con người tạo nên. HS quan sát tranh và trao đổi, GV hướng dẫn HS tìm
hiểu: Tìm trong tranh những sự vật tự nhiên? Tìm trong tranh những sự vật do
14


con người tạo ra? Tùy trong khi hướng dẫn HS luyện nói giáo viên cũng cần chú
trọng đến việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp. Đối với học sinh có năng
khiếu giáo viên có thể dùng câu hỏi. Tìm điểm giống nhau và khác nhau của các
nhóm sự vật? Tùy từng đối tượng học sinh mà có cách sử dụng câu hỏi gợi ý.
Đối với học sinh yếu, nói năng cịn rụt rè, khi nói diễn đạt câu không hết ý

hay không diễn đạt được chủ đề luyện nói thì giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi
để gợi ý, hướng dẫn học sinh trả lời theo các gợi ý một cách đầy đủ, có hệ thống
theo chủ đề. Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến HS ít nói, thụ động, đặt những
câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói.
Ví dụ: Bài 62 Chủ đề luyện nói: “Thế giới trong lịng biển”. GV cho HS
quan sát tranh, dùng hệ thống câu hỏi gợi ý: Trong lịng biển có những gì? Em
đã biết những lồi vật nào trong lịng biển? Em thích lồi vật nào? Vì sao?
Đối với học sinh có năng khiếu có khả năng diễn đạt, trình bày các vấn đề
một cách trơi chảy thì giáo viên khơng cần hướng dẫn HS bằng các gợi ý cụ thể
mà có thể yêu cầu ở mức cao hơn, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để
giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình 1 cách chân
thành.

Hình ảnh trong lịng đại dương.
Đối với những học sinh có khả năng nói tốt, GV cho HS quan sát ảnh
và nói được 3 đến 4 câu về những điều em cảm nhận được qua bức ảnh đó về
các sinh vật trong lòng đại dương.
15


Hoặc khi dạy Bài 66 chủ đề về “Đi lại trên biển”: GV yêu cầu HS quan
sát tranh trong SHS. GV đặt từng câu hỏi. Đối với học sinh yếu giáo viên dùng
các câu hỏi gợi ý như: Các em nhìn thấy những phương tiện gì trong tranh? Em
có biết tên những phương tiện đó khơng? Em có biết các phương tiện này di
chuyển bằng cách nào không? Theo em, phương tiện nào di chuyển nhanh hơn?
Nếu đi lại trên biển, em chọn phương tiện nào? Vì sao?
Với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và
chuẩn bị thiết bị đồ dùng, tranh ảnh dạy học phong phú đã góp phần tạo hứng
thú học tập cho học sinh, làm cho các em yêu thích mơn học và giúp phần luyện
nói của học sinh dễ dàng hơn, các bài nói của các em cũng đa dạng và phong

phú hơn. Đặc biệt là trọng tâm khi dạy luyện nói cho HS, tơi thường chú ý rèn
kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hồn chỉnh, có biểu lộ cảm
xúc với một ngữ điệu tự nhiên, chân thành.
2.3.6. Giải pháp 6: Giúp học sinh tự tin khi luyện nói.
Tự tin là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến khả năng nói của mỗi cá
nhân. Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một số học sinh rất ngại nói, ngại
giao tiếp đặc biệt là học sinh vùng nông thôn như Nga Yên bởi tâm lí sợ đám
đơng, sợ nói sai, khơng biết bắt đầu như thế nào, vốn từ khơng có hoặc có những
em nói khơng đủ ý, diễn đạt lộn xộn. Trong mỗi tiết học, khi đến phần luyện nói,
nhiều em nắm rất vững chủ đề và yêu cầu luyện nói, nhưng đến khi trình bày thì
lại lúng túng, nói khơng mạch lạc, đó chính là do các em thiếu tự tin.
Chính vì thế, để khắc phục tình trạng trên, giáo viên cần có các biện pháp
giúp học sinh quên đi những mặc cảm, mạnh dạn nói lên ý kiến của mình, trình
bày bài nói rõ ràng, mạch lạc. Bởi vậy tôi thường xuyên tổ chức cho các em
được trao đổi trong nhóm, gợi ý, hướng dẫn, dẫn dắt học sinh trả lời từng ý nhỏ
đến ý lớn. Trường hợp học sinh khơng nói được giáo viên gợi ý hoặc có thể nói
mẫu rồi cho học sinh nhắc lại, hay nói theo câu của bạn.
Trong lớp học, ở các tiết học thường thiết kế các hoạt động học nhóm, các
trị chơi,… tạo cơ hội cho số trẻ này được tham gia, được trình bày… thường
xun trị chuyện với các em khi có thời gian. Giờ sinh hoạt ln gần gũi với các
em để rút ngắn khoảng cách, tạo cho các em cảm giác yên tâm, tự tin hơn.
Trong việc sắp xếp chỗ ngồi tơi thường bố trí ngồi xen kẽ các em theo
trình độ, em khá ngồi cạnh em yếu, những em nhút nhát ngồi cạnh em mạnh
dạn… có như vậy thì các em sẽ có cơ hội giúp đỡ lẫn nhau, trao đổi, nói với
nhau để cùng nhau tiến bộ.
Trong q trình học sinh luyện nói, một việc làm của giáo viên hết sức
quan trọng và cần thiết đó chính là động viên, khích lệ kịp thời, tường xun.
Tơi ln động viên khuyến khích các em một cách kịp thời, biết khen các em dù
16



có ý đúng nhỏ, tránh la mắng, tránh "chê trách". Tôi nhận thấy, nếu tạo cho các
em cảm giác thiếu tự tin ở bản thân lần sau các em không dám nói.
* Với việc bố trí, sắp xếp chỗ ngồi, cho các em giỏi kèm các em yếu hơn,
hay trong q trình học sinh hoạt động nhóm đồng thời trong khi cho học sinh
luyện nói tơi cũng phải thường xun đến các nhóm học tập để giúp đỡ học sinh
yếu. Việc động viên, khuyến khích kịp thời cũng tạo cho các em tự tin, mạnh
dạn khi giao tiếp. Như vậy học sinh lớp tơi đã hình thành được các thói quen
giao tiếp, hoạt động một cách chủ động.
2.3.7. Giải pháp 7: Phối hợp với phụ huynh rèn kỹ năng nói cho học
sinh.
Để nâng cao chất lượng kỹ năng nói cho học sinh mà chỉ trông chờ vào
những tiết Tiếng Việt và nỗ lực của giáo viên thì hiệu quả sẽ khơng cao. Bởi vì
để có kỹ năng nói tốt thì việc luyện nói cho học sinh phải được diễn ra một cách
thường xuyên liên tục ở mọi lúc, mọi nơi. Do vậy việc rèn kỹ năng nói cho học
sinh cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ huynh học sinh.
Chính vì vậy mà tơi ln thiết lập và duy trì mối liên hệ chặt chẽ, thường
xuyên giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh thông qua gặp gỡ trực tiếp,
gọi điện thoại, sổ liên lạc điện tử, các buổi họp phụ huynh... Ngoài việc thơng
báo kịp thời cho gia đình về tình hình học tập, rèn luyện và những vấn đề liên
quan đến học sinh cần sự phối hợp của gia đình, tơi cịn đề cập tới vấn đề luyện
nói cho học sinh khi ở nhà.
Trước hết tôi đề nghị phụ huynh xây dựng nếp sống văn minh ngay tại
gia đình nhất là cách giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình với nhau.
Những người lớn trong gia đình phải mẫu mực trong cách cư xử, lời nói phải
văn minh. Cha mẹ cũng chính là người thầy thứ hai của con khi ở nhà. Nếu con
trẻ có những lời nói cử chỉ chưa đúng thì bố mẹ phải uốn nắn và sửa sai luôn cho
con. Chẳng hạn khi giao việc hoặc trao đổi với con về vấn đề nào đó, bố mẹ phải
nói nhẹ nhàng rõ ràng, đủ câu, đủ ý, tránh nói cộc lốc và theo kiểu mệnh lệnh.
Khi con trả lời không đủ câu rõ ý, bố mẹ cũng cần nhắc nhở và yêu cầu con sửa

luôn.
Trong thời đại công nghệ thơng tin phát triển, hầu hết các gia đình đều
có điện thoại thơng minh và sử dụng các ứng dụng tiện ích nên tơi đã lập nhóm
zalo của lớp. Hàng ngày, thơng qua nhóm zalo tơi hướng dẫn phụ huynh giúp đỡ
con học tại nhà. Từ việc hướng dẫn các con đọc bài, làm các bài tập, đến nhắc
nhở các con thực hiện một số kỹ năng cần thiết đã học trên lớp, trong đó có kỹ
năng nói. Tơi nêu rõ bài tập luyện nói, chủ đề luyện nói, yêu cầu luyện nói và đề
nghị phụ huynh nhắc con luyện nói song song với luyện đọc. Nếu có vướng mắc

17


gì thì trao đổi trực tiếp qua zalo để giáo viên có thể nhìn, nghe học sinh nói và
hướng dẫn cụ thể hơn.
Đây là năm đầu tiên thay sách, phụ huynh đang lúng túng trong cách
giúp con học ở nhà nên cách này đã mang lại hiệu quả rất cao. Nhờ việc được
nhắc nhở thường xuyên và hướng dẫn học đúng cách cả ở trường và ở nhà nên
đã hình thành thói quen nói đủ câu, đủ ý, diễn đạt sự việc mạch lạc, rõ ràng nội
dung giao tiếp của các em trong học tập và sinh hoạt hàng ngày. Khơng những
thế mà nó cịn tạo cho học sinh kỹ năng mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường:
Với những biện pháp rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1, trong qúa
trình giảng dạy theo từng kỳ học tôi lại khảo sát các đối tượng học sinh trong lớp
để xem các biện pháp dạy học đã áp dụng có đem lại hiệu quả so với cách dạy
thông thường. Kết quả khảo sát đối với lớp 1C do tôi phụ trách năm học 20202021 thu được như sau: Tổng số 26 học sinh
Mức độ
đạt
Thời
điểm


Nói thành câu,
thành đoạn

Nói đủ câu, lưu
lốt, đúng chủ đề

Nói chưa đủ câu, nói
chưa lưu lốt, chưa
đúng chủ đề

SL
%
SL
%
SL
%
Cuối học kỳ 1
7
26,9
9
34,6
10
38,5
Giữa học kỳ 2
15
53,8
9
34,6
2

7,6
Nhìn vào bảng kết quả cho ta thấy việc áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng
luyện nói cho học sinh lớp 1 như trên đã đem lại hiệu quả cao. Giúp học sinh
có kỹ năng nói, giao tiếp tốt, tự tin và đó là tiền đề để hình thành nhân cách
cho trẻ.
3. KẾT LUẬN
Năm học 2020 - 2021, khi được phân công giảng dạy tại lớp 1C, tôi đã áp
dụng một số biện pháp khi dạy luyện nói trong phân mơn Tiếng Việt. Với việc
áp dụng các biện pháp ấy, các em đã biết nói đủ câu, đủ ý, biết nói thành đoạn
theo đúng chủ đề cho trước một cách tự tin mà không phải rụt rè, e ngại...
Với các biện pháp dạy học như vậy tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú
khi học phân môn Tiếng Việt, nhất là trong hoạt động luyện nói. Lớp học sinh
động, học sinh tham gia tích cực phát biểu ý kiến. Các em biết trả lời, diễn đạt ý
nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự nhiên, chân thật.
Kết quả là đến giữa học kì II đã có trên 50% học sinh biết nói thành 1
đoạn văn (3, 4 câu) một cách lưu loát đúng với nội dung chủ đề cần luyện nói.
Những em nhút nhát, rụt rè, thụ động đã nhanh nhẹn hơn, tích cực hơn.
Biết tham gia vào mọi hoạt động trong quá trình luyện nói 1 cách chủ động. Các
18


em biết ứng xử các tình huống trong khi giao tiếp một cách nhạy bén, ngoan và
lễ phép hơn.
Với kết quả thu được, bản thân tôi nhận thấy rằng:
Mỗi người giáo viên cần nắm bắt và hiểu nội dung, mục tiêu của chương
trình, ý đồ của từng chủ đề luyện nói.
Tận dụng tối đa phương tiện trực quan, phát huy năng lực quan sát của
học sinh.
Hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi ý phải rõ ràng, ngắn gọn xoay quanh chủ đề
luyện nói, phù hợp với mọi trình độ của học sinh trong lớp.

Căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp để lựa chọn cách hướng dẫn HS có
thể luyện nói một cách có hiệu quả.
Khi dạy học hoạt động luyện nói, giáo viên chú ý hướng dẫn các em nói
đủ 2 nội dung: nhận biết về chủ đề và cảm xúc của các em trước chủ đề đó.
Xây dựng lớp học trong khơng khí học tập thoải mái, vui tươi, thân thiện
giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh. Tăng cường hoạt động giao tiếp
giữa trò với trò, giữa trò với thầy để giúp các em mạnh dạn, tự tin trước đơng
người.
Động viên, khuyến khích, uốn nắn học sinh kịp thời ở tất cả các môn học.
Tăng cường lời khen mỗi khi học sinh có tiến bộ hoặc thực hiện tốt yêu cầu đặt
ra. Gần gũi trò chuyện cùng học sinh, nhất là học sinh nhút nhát.
Xây dựng tốt nề nếp lớp học, phối hợp nhịp nhàng các hình thức tổ chức
dạy học, vận dụng triệt để đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng có hiệu quả và
khai thác triệt để đồ dùng dạy học trong tiết dạy.
Trao đổi kịp thời những khó khăn gặp phải với tổ chun mơn để tìm ra
giải pháp tối ưu phù hợp với học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút trong quá trình
giảng dạy. Mặc dù kết quả đạt được là rất khả quan, tuy nhiên cũng không tránh
khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự trao đổi, góp ý của Hội đồng
khoa học để đề tài này được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN

Nga Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
19


THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

HIỆU TRƯỞNG

nghiệm này là do tôi làm, không sao
chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Mai Thị Thuỷ

Trần Thị Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


TT
1
2
3
4
5

Tên tài liệu tham khảo
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập
một
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập
hai.
Sách giáo viên Tiếng Việt 1 tập
một
Sách giáo viên Tiếng Việt 1 tập

hai
Tham khảo Internet

Tác giả - Nhà xuất bản
Bùi Mạnh Hùng – NXB Giáo dục
Việt Nam
Bùi Mạnh Hùng – NXB Giáo dục
Việt Nam
Bùi Mạnh Hùng – NXB Giáo dục
Việt Nam
Bùi Mạnh Hùng – NXB Giáo dục
Việt Nam
Google

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PGD &ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
21


XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Nga Yên

TT

Tên đề tài SKKN

1


Một số kỹ năng rèn đọc
cho HS lớp 5
Một số biện pháp hướng
dẫn học sinh lớp 5 giải
toán tỉ số phần trăm
Hướng dẫn học sinh lớp
5 giải tốn có lời văn
Tổ chức một số trị chơi
tốn học ở lớp 2
Giúp học sinh lớp 2 giải
tốn có lời văn
Ứng dụng phương pháp
sơ đồ đoạn thẳng để giải
các bài toán đơn ở lớp 2
Một số biện pháp nâng
cao kĩ năng đọc khi dạy
phân môn tập đọc cho
học sinh lớp 1
Một số kinh nghiệm
nâng cao hiệu quả dạy
tiết 2 của môn Tiếng việt
lớp 1 ở trường Tiểu học
Nga Yên.

2

3
4
5
6


7

8

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học đánh giá
xếp loại

Huyện

C

2007-2008

Huyện

C

2009-2010

Huyện

C


2010-2011

Huyện

B

2011-2012

Huyện

B

2012-2013

Huyện

C

2013-2014

Huyện

B

2015-2016

Tỉnh

C


2017-2018

22



×