Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số giải pháp hướng dẫn học sinh tự học ở nhà nhằm nâng cao kết quả học tập môn lịch sử lớp 9 giai đoạn 1919 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.84 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1.Cơ sở lý luận
4
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
16
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
3.1. Kết luận
17
3.2. Kiến nghị
17
* Tài liệu tham khảo
19


* Danh mục SKKN đã được Hội đồng SKKN ngành giáo dục và đào tạo
huyện, tỉnh và các cấp xếp loại từ C trở lên
20

1


1. MỞ ĐẦU
Lịch sử là một trong những môn học quan trọng và đang được xã hội quan
tâm . Bởi vì đây là bộ mơn giúp cho học sinh có thể hiểu biết về lịch sử của dân
tộc và của thế giới. Qua đó sẽ góp phần hồn thiện và phát triển nhân cách của
con người. Tuy nhiên, do đặc thù bộ mơn đây là mơn học nặng về lí thuyết, sự
kiện, ngày tháng nên khi học sinh học thường chán và khó nhớ. Trong những
năm gần đây, do sự phát triển của kinh tế thị trường nên học sinh thường thích
chọn những mơn khoa học tự nhiên để thi đại học thì cơ hội việc làm sẽ thuận
lợi hơn. Điều đó, dẫn tới một hệ quả là thi tốt nghiệp, rồi đại học chất lượng môn
lịch sử đang ở mức báo động.
Vậy giải pháp gì để học sinh có tự giác học tập với môn học này ở nhà thông
qua các tài liệu, sách giáo khoa và trên hệ thống Interrnet,… cũng như bằng
nhiều hình thức khác như tham quan, du lịch, …cũng sẽ góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học cho bộ môn Lịch sử trong các nhà trường nói chung và tại
trường THCS Nga An nói riêng? Đang là câu hỏi khiến nhiều giáo viên dạy Sử
quan tâm và trăn trở.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình lịch sử lớp 9 - phần lịch sử Việt Nam từ 1919-1930
chứa đựng hàm lượng nội dung kiến thức phong phú. Đồng thời, đây chính là
giai đoạn khởi đầu cho các bước ngoặt của cách mạng Việt Nam kể từ khi có
Đảng. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của Thực Dân Pháp; ảnh
hưởng của cách mạnh tháng mười Nga và sự phát triển của phong trào cách
mạng thế giới...đã tác động mạnh đến tình hình kinh tế, xã hội cũng như tư

tưởng, khuynh hướng đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Hàng loạt các giai cấp mới xuất hiện, nhưng nhiều tầng lớp trong xã hội dưới sự
áp bức, bóc lột của bọn thực dân, phong kiến đã khiến cho mâu thuẫn dân tộc,
giai cấp trở nên gay gắt. Đó cũng là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của
phong trào dân tộc, dân chủ ở nước ta và việc tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn để cứu nước, cứu dân. Giai đoạn lịch sử 1919-1930 là sự vận động cách
mạng, sự sàng lọc lựa chọn nghiêm túc của lịch sử về con đường, khuynh hướng
cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc. Nó gắn liền với tên tuổi của những
cá nhân ưu tú, những tổ chức cách mạng, những phong trào to lớn và những sự
kiện trọng đại cho cả tiến trình cách mạng nước ta sau này.
Nắm bắt được tầm quan trọng của giai đoạn lịch sử 1919 - 1930, trong mỗi
2


tiết dạy tơi thường tìm tịi và áp dụng những phương pháp giảng dạy mới, sinh
động, có tính thuyết phục để lôi cuốn học sinh. Nhưng điều làm tôi trăn trở hơn
cả là làm sao để rèn luyện cho học sinh khả năng tự học, “chịu tìm tịi”, đức tính
“chia sẻ thơng tin, cùng hoạt động”. Trong đó, tự học ở nhà cũng là một trong
những biện pháp mang lại hiệu quả ấy, để từ đó, mỗi bài học, tự khám phá giúp
học sinh tự tin và kết quả học tập sẽ được nâng cao. Đồng thời còn giúp học sinh
nâng cao ý thức trách nhiệm, kĩ năng rèn luyện và thực hành bài tập lịch sử
Xuất phát từ thực tế trên, nắm bắt yêu cầu đổi mới phương pháp nhằm nâng
cao hiệu quả, chất lượng môn học và phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, tơi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: "Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà
nhằm nâng cao kết quả học tập môn Lịch sử lớp 9 giai đoạn 1919 – 1930 ở
trường THCS Nga An". Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm qua, tơi hy
vọng đây là những tìm hiểu bước đầu đóng góp một phần nhỏ trong việc nâng
cao chất lượng giảng dạy phần lịch sử Việt Nam ở trường THCS Nga An nói
riêng và bộ mơn Lịch sử nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà là
một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ mơn lịch sử nói chung,
phần lịch sử lớp 9 giai đoạn 1919 - 1930 nói riêng, bản thân tơi là một giáo viên
đang trực tiếp dạy lịch sử ở trường THCS Nga An, tôi luôn suy nghĩ và xác định
cho mình phải làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học của bộ môn lịch
sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhất là trong bối cảnh hiện
nay, Thế giới và trong nước đang có nhiều thay đổi, nền giáo dục nước nhà đang
hướng tới một chương trình giáo dục phổ thơng mới và sự tác động của Đại dịch
co vid 19 đang đòi hỏi mỗi thầy cô giáo cần phải linh hoạt trong các phương
pháp dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học và phù hợp với những thay
đổi hiện nay.
Trong khuôn khổ đề tài này, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao tính tự học của học sinh lớp 9 mơn lịch sử giai đoạn 1919-1930. Góp phần
nâng cao hiệu quả của môn lịch sử lớp 9 nói riêng và bộ mơn Lịch sử ở trường
THCS Nga An nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: nội dung chương trình Lịch sử lớp 9 giai đoạn 19191930, của NXB giáo dục hiện hành. Học sinh lớp 9A, 9B.
3


- Phạm vi: Do điều kiện thời gian và cơ sở vật chất có giới hạn, ở đề tài này tơi
xin trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao tính tự học học lịch sử cho học
sinh lớp 9 giai đoạn 1919-1930.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện bài viết này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Nghiên cứu lý thuyết.
- Quan sát sự phạm.
- Thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thống kê.


4


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN:
2.1. Cơ sở lý luận:
Để đào tạo con người mới có đủ năng lực tự học, tự làm, UNESCO khẳng
định: “Học để làm việc, làm người, học để cùng chung sống”.
Hội nghị lần thứ IV ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII cho rằng:
“Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp bậc học, kết hợp tốt học với
hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn
nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng cho học sinh năng lục tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề…”.
Dựa trên quan điểm đó, những năm gần đây, các nhà tâm lí học và các nhà giáo
dục học có xu hướng đưa ra những phương pháp khoa học mang tính khái qt
cao, có nhiều tiềm năng phát huy cao độ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh.
Bộ GD&ĐT cũng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nhằm đẩy mạnh đổi mới
phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm.
Tự học khơng có nghĩa là bắt học sinh phải tự mình làm tất cả mọi việc và
học thuộc lịng một cách máy móc từng câu chữ có trong nội dung bài học ở
sách giáo khoa. Mà tự học là dưới sự hướng dẫn của Giáo viên định hướng cho
học sinh chuẩn bị bài, xem bài trước khi lên lớp để học sinh dễ dàng tiếp thu
kiến thức - con đường hình thành tri thức trong đầu học sinh là vậy.
Giáo viên phải có thủ thuật sư phạm khéo léo, nêu các tình huống có vấn đề,
khơi dậy sự tò mò ham hiểu biết của các em. Nếu làm được như vậy, giáo viên
sẽ khích lệ được ý thức tự giác, giúp các em tích cực chủ động trong học tập, sẽ
giảm bớt sự căng thẳng, nặng nề, nhàm chán trong giờ học lịch sử. Thực tiễn
dạy học chứng minh sử dụng phương pháp tự học là biện pháp để phát triển tư
duy lịch sử, gây hứng thú học tập cho HS.

2.2. Thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, tình hình mơn lịch sử có nhiều dư luận đa
chiều, trong đó, cơ bản là nói về vấn đề dạy – học: dạy khơng hiểu, như trong
SGK, phương pháp cũ; học không chăm, coi thường bộ mơn, chất lượng thi đại
học kém....
Về phía giáo viên: Thực tế giảng dạy cho thấy, khi kết thúc bài học, GV
có dặn học sinh về tự học nhưng tự học như thế nào, phần nào không được
hướng dẫn. Việc chỉ dặn dò “học bài cũ, nghiên cứu bài mới”... trở nên “cửa
miệng”. Do vậy, phương pháp tự học chưa thực sự có hiệu quả ở mỗi bài học
5


lịch sử. Rất nhiều giáo viên ít khi sử dụng phương pháp này, nếu có sử dụng chỉ
mang tính hình thức, nêu qua loa, đại khái làm cho hoc sinh thiếu hứng thú. Cứ
như vậy, chất lượng học tập không thể nâng cao.
Về phía học sinh: Hầu như học sinh rất ngán học lịch sử vì khơng nhớ
được số liệu lịch sử, không biết vận dụng so sánh sự kiện, hiện tượng lịch sử và
khơng có khả năng sử dụng khái niệm lịch sử trong bài học cũng như thực tiễn.
Kĩ năng thực hành bài tập lịch sử rất kém. Kết quả học lịch sử của học sinh
không cao.
Qua điều tra khảo sát thực tế cho thấy việc coi nhẹ việc hướng dẫn học
sinh tự học ở nhà đã làm cho học sinh khó nắm bắt sự kiện lịch sử, khó tiếp thu
bài học trên lớp do lượng kiến thức của bộ môn lịch sử khá khô khan và nhiều
sự kiện dẫn tới không hiểu bài, chất lượng môn học giảm, học sinh có tâm lý
chán học mơn Sử. Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả khảo sát cuối năm môn
Lịch Sử lớp 9, trường THCS Nga An năm học 2018 – 2019, kết quả như sau:

Lớp
9A
9B

Tổn
g

Tổn
g số
41
39
80

Giỏi
SL
4
2
6

%
9.8
5.1
7.5

Khá
SL
11
7
18

%
26.8
17.9
22.5


Trung
bình
SL
%
15 36.6
15 38.5
30 37.5

Yếu
SL
10
13
23

%
24.4
33.3
28.8

Kém
SL
1
2
3

%
2.4
5.2
3.7


Bảng 1: Kết quả khảo sát cuối năm học 2018-2019
Trước thực trạng trên, tôi mong muốn rèn luyện cho học sinh khối 9
phương pháp tự học để nâng cao hiệu quả giảng dạy lịch sử trong từng tiết học,
để gieo lên niềm ham mê lịch sử cho học sinh, giúp học sinh hiểu được bức
tranh quá khứ thật chân thực và sinh động.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động tự học
1.1. Một là, yếu tố chủ quan từ phía người học:
- Người học phải có nhận thức sâu sắc về vai trò quyết định của hoạt động
tự học đối với việc hồn thành nhiệm vụ học tập; có mục đích và thái độ học tập
đúng đắn, có tầm nhìn xa cùng những mục tiêu trước mắt, phải có ý chí lớn thì
mới có năng lực tự học, tự sáng tạo.
- Người học phải có lịng tin và có khả năng tự học, khắc phục bệnh tự ty,
6


đồng thời cũng phải biết khắc phục tâm lí dễ thoả mãn.
- Người học phải có thói quen tự học ở mọi lúc, mọi nơi, ở mọi người và
mọi nội dung nhằm rèn luyện được các loại tư duy lơgíc, tư duy trừu tượng, tư
duy biện chứng, tư duy quản lí…
- Biết rút kinh nghiệm để tự mình hình thành phương pháp tự học phù hợp
với mục đích, phù hợp với hồn cảnh điều kiện của bản thân mình, tránh tư
tưởng học chiếu lệ hay học đối phó. Biết tự lập kế hoạch, tự sắp xếp thời gian
hợp lí.
1.2.Hai là, các yếu tố khách quan:
Đó là hệ thống tổ chức quản lí của nhà trường (thể hiện qua các nội quy,
quy chế, các tổ chức lớp, hội, đoàn …), nội dung dạy học, phương pháp dạy học,
điều kiện và môi trường học tập…
2.3.2. Một số giải pháp cần tiến hành nhằm tăng cường hiệu quả quá trình tự

học cho học sinh:
Phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1930 chứa đựng dung lượng kiến
thức lớn, mặc dù đã được cắt giảm nhưng vẫn là phần học tương đối “nặng” kiến
thức đối với học sinh. Vì vậy địi hỏi giáo viên phải có kiến thức và phương
pháp sư phạm vững vàng.
Thơng thường, trong mỗi bài dạy, giáo viên lên lớp theo một qn tính đã
được lập trình sẵn, trong q trình ấy giáo viên thao thao bất tuyệt theo ý đồ của
mình đã được “kết tinh” trong giáo án. Điều này khiến cho học sinh hoàn toàn bị
động và tỏ ra lạ lẫm với kiến thức của bài học. Khi được giáo viên phát vấn để
trả lời câu hỏi liên quan đến nội dung bài học, các em tỏ ra lúng túng và phải
loay hoay tìm kiếm kiến thức rất vất vả và rồi như “con vẹt” đọc y nguyên từng
câu chữ như sách giáo khoa đã in, hầu như các em không biết vận dụng kiến
thức và không biết cách trả lời câu hỏi, thậm chí có những em khơng biết vấn đề
mà giáo viên đang nói nằm ở đâu... Các em chỉ biết chờ đợi giáo viên ghi bảng,
rồi chép bài vào vở và học thuộc lịng nội dung đó. Với cách đó, học sinh dễ
quên và khó tạo được biểu tượng lịch sử về sự kiện, hiện tượng trong bài học. Vì
thế, trong mỗi giờ dạy, giáo viên nên cần hướng dẫn học sinh phương pháp tự
học để các em làm quen, tiếp xúc và nhận dạng được kiến thức. Có như vậy các
em mới tích cực, chủ động và hào hứng trong học tập, từ đó mới có thể giúp học
sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức lịch sử. Vậy làm thế nào để thực hiện được
phương pháp này một cách có hiệu quả? Theo tơi cần tiến hành các biện pháp
sau:
7


2.3.2.1.Giáo viên cần làm tốt vai trị của cơng tác tun truyền:
Vai trị của người thầy khơng chỉ thể hiện trên bục giảng qua các bài
giảng, mà ở mọi lúc mọi nơi và không ngừng tuyên truyền đến các bậc phụ
huynh và tồn xã hội về vai trị và ý nghĩa của việc “tự học”. Đặc biệt, tăng
cường công tác tuyên truyền cho học sinh thấy được vai trò, ý nghĩa của hoạt

động tự học, từ đó kích thích sự hứng thú của học sinh vào các hoạt động tự học
nói chung và tự học Lịch sử nói riêng. Và việc tun truyền có thể bằng nhiều
hình thức, nhưng hình thức “nêu gương” là một trong những hình thức khá thích
hợp và hiệu quả cho cơng tác này nó vừa cụ thể vừa sinh động và có tính giáo
dục cao.
Bởi lẽ hoạt động tự học chỉ có ý nghĩa khi học sinh chủ động, tự giác học
tập, tìm kiếm tri thức để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mình bằng cách tự lập
kế hoạch tự học, tự tìm tài liệu nghiên cứu, tự thực hiện kế hoạch, tự rút kinh
nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách và tự đánh giá kết quả học tập của
bản thân. Tuy nhiên, không phải bất cứ học sinh nào cũng nhận thức được ý
nghĩa,vai trò, tầm quan trọng của việc tự học. Do đó, trong q trình dạy học
giáo viên cũng cần đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền để:
- Giúp học sinh thấy được ý nghĩa của việc tự học nhằm bổ sung các kiến
thức bổ trợ cho bài học mà với thời gian ít ỏi trên lớp giáo viên khơng thể trình
bày hết cho học sinh, học sinh cũng không thể hiểu nội dung bài học nếu chỉ lĩnh
hội từng ấy tri thức từ giáo viên.
- Giúp học sinh hình dung được các nội dung mình cần chuẩn bị để có
hoạt động tự học lịch sử đạt hiệu quả. Cụ thể:
+ Học sinh phải lập kế hoạch cho việc tự học của mình: Học lúc nào? Học
ở đâu? Học phần nào trước, phần nào sau? Học với ai? Học như thế nào?... Cần
rèn luyện được phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc.
+ Người học phải rèn luyện được sự tập trung tư tưởng cao độ khi học tập,
không chịu sự tác động của các yếu tố xung quanh. Phải rèn luyện kĩ năng đọc
sách, kĩ năng tìm tài liệu, phải học cách hệ thống hóa các kiến thức lịch sử từ
trên lớp kết hợp với kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ đồ về mối quan
hệ giữa các kiến thức, lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung
kiến thức lịch sử đã học...
2.3.2.2. Cần tạo cho học sinh môi trường học tập, sinh hoạt văn minh, lành
mạnh, tăng cường các hoạt động học tập theo nhóm:
Mơi trường có ý nghĩa rất lớn đến việc hình thành, bồi dưỡng nhân cách

8


của con người, bởi “con người là tổng hòa các mối quan hệ tự nhiên và xã hội”.
Tục ngữ có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” để chỉ những ảnh hưởng
của môi trường xung quanh tác động đến nhân cách con người. Do đó, cần phải
chú trọng việc xây dựng một môi trường thật sự văn minh, lành mạnh để học
sinh yên tâm học tập, rèn luyện, cống hiến.
Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh.
Các học sinh giao lưu với nhau và có được những kết quả học tập tiến bộ về
nhiều mặt. Học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan
điểm, và thực hiện học hợp tác.
- Học nhóm có các tác dụng sau:
+ Xây dựng tinh thần đồng đội, tinh thần tập thể và ý thức công đồng.
+ Cân bằng tâm lí, khả năng hồ nhập, kĩ năng giao tiếp.
+ Nâng cao thành tích học tập của các thành viên trong nhóm.
- Thành lập nhóm được dựa trên các yếu tố cơ bản sau:
+ Cùng mục đích: những người tham gia vào nhóm để cùng làm một cơng
việc nào đó. Đây là nền tảng để học sinh hiểu biết lẫn nhau và từ đó chia sẻ lẫn
nhau. Sự chia sẻ này sẽ kéo dài khi cơng việc đó vẫn cịn tiếp diễn.
+ Sự đồng thuận: các thành viên trong nhóm đều hướng đến sự hoàn
thành nhiệm vụ học tập.
+ Chia sẻ thơng tin: muốn nhóm hồn thành nhiệm vụ, hay tổ chức của
mình thành cơng, thì khả năng thu nhận thông tin từ đồng nghiệp và chia sẻ
thông tin của mình đến học sinh khác là rất cần thiết. Khơng nên xem việc giữ bí
mật thơng tin để làm “của để giành” như là một sự vượt trội của riêng mình.
+ Tơn trọng và trợ giúp: mỗi thành viên trong nhóm phải tơn trọng ý kiến
của những người khác thể hiện qua việc động viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến các
ý tưởng thành hiện thực.
- Để học nhóm có hiệu quả, các thành viên trong nhóm phải có các kĩ

năng cơ bản sau:
+ Lắng nghe: Các thành viên trong nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của
nhau, phản ánh sự tôn trọng (hay xây dựng) ý kiến giữa các thành viên. Đây là
một trong những kĩ năng quan trọng nhất.
+ Thảo luận: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi trong thảo luận, chúng
ta có thể nhận biết mức độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề
cho các thành viên khác của họ.
+ Thuyết phục: Các thành viên phải trao đổi, suy xét những ý tưởng đã
9


đưa ra, đồng thời mỗi thanh viên tự bảo vệ và thuyết phục người khác đồng tình
với ý kiến của mình.
+ Tạo lập ý tưởng: Việc tạo lập ý tưởng tốt sẽ là yếu tố quyết định sự
thành công của nhóm.
Ở lớp 9A(Lớp thực nghiệm) Trường THCS Nga An, ngay từ đầu năm học
2019 - 2020, tôi đã tiến hành chia lớp thành 8 nhóm học tập (Nhóm 1 và 2, mỗi
nhóm có 4 học sinh; từ nhóm 3 đến nhóm 8, mỗi nhóm có 5 học sinh). Trong
suốt năm học tơi ln duy trì sự hoạt động của các nhóm học tập. Các nhóm học
tập này hoạt động cả trong giờ học và ở nhà. Để tăng cường việc tự học ở nhà
của học sinh, sau mỗi giờ học, tơi đều giao nhiệm vụ cho các nhóm trao đổi ở
nhà. Trước khi vào giờ học các em có thể chia ra từng cặp để trao đổi, ơn luyện
và dị bài nhau. Trong giờ học phải tích cực thảo luận, trao đổi. Khi chuẩn bị bài
mới nên chia vở thành hai cột theo tỉ lệ 7/3 . Cột bên trái ghi phần tự học ở nhà,
cột bên phải ghi phần bổ sung tại lớp. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trình
bày phần tự học thì ghi kiến thức ngắn gọn, cơ bản theo nội dung tiêu đề mà
giáo viên yêu cầu. Sau phần giáo viên chốt kiến thức học sinh tự đối chiếu với
phần ghi ở nhà nếu có chỗ nào chưa chính xác thì tự điều chỉnh, bổ sung ở cột
kế bên tương ứng, nếu còn thắc mắc thì chủ động trao đổi với giáo viên và bạn
bè để hiểu và nắm vững kiến thức. Ví dụ trong bài 14: Việt Nam sau chiến

tranh thế giới thứ nhất. Ở mục I. Chương trình khai thác lần thứ hai của
Thực dân Pháp. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu về hồn cảnh,
mục đích, nội dung và tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai
của thực dân pháp. Khi các em tìm hiểu được nội dung này trước ở nhà thì lúc
đến lớp được Giáo viên phân tích, giảng giải sẽ dễ hiểu hơn về việc tại sao Pháp
lại tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, với quy mô lớn, tốc độ nhanh nhưng chỉ tập trung vào nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.... Đặc biệt, giáo viên cần định hướng và nêu vấn đề để thu hút
sự tò mò và khả năng tư duy của học sinh về tác động của chương trình khai
thác thuộc địa lần hai của thực dân pháp đối với kinh tế, xã hội nước ta, nhất là
sự phân hóa giai cấp trong xã hội để các em biết và hiểu, phân tích được khả
năng, thái độ cách mạng của các giai cấp, tầng lớp. Đó cũng là cách để học sinh
nắm rõ về lực lượng cách mạng trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
lúc bấy giờ. Đồng thời nêu vấn đề cho học sinh tại sao trong các giai cấp thì chỉ
có giai cấp cơng nhân mới có khả năng lãnh đạo cách mạng chứ không phải là
giai cấp nông dân, tư sản, hay tiểu tư sản...Hoặc yêu cầu các em xác định được
10


những mâu thuẫn tồn tại ở Việt Nam lúc này là gì? Mâu thuẫn nào cơ bản nhất
vv...Từ những yêu cầu và vấn đề được giao các em sẽ tự nghiên cứu SGK, hoặc
trao đổi thảo luận với nhau hay tham khảo thêm tài liệu để tìm hiểu vấn đề. Như
thế học sinh sẽ hiểu ra vì sao từ năm 1919-1925 ở Việt Nam lại diễn ra phong
trào dân tộc dân chủ.
2.3.2.3. Giáo viên cần đặt học sinh luôn trong trạng thái “có vấn đề” để học
sinh phải tìm tịi cách giải quyết vấn đề. Việc giải quyết vấn đề là một q
trình tự học của học sinh.
Ví dụ trong bài 17: Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra
đời. Sau khi kết thúc bài 16, tôi giao nhiệm vụ ở nhà chuẩn bị bài 17 cho học
sinh bằng cách nêu tình huống "có vấn đề" để tạo hứng thú cho học sinh tìm

hiểu: ba tổ chức cách mạng đã phân hóa thành 3 tổ chức cộng sản như thế nào?
Tại sao lại có sự phân hóa đó? Từ tình huống "có vấn đề" đó, học sinh sẽ tìm
hiểu và đó là bước chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.
Đây là dạng bài cung cấp kiến thức mới với dung lượng lớn và khá phức
tạp với nhiều tổ chức, khuynh hướng, phong trào cách mạng khác nhau vv... Rất
dễ làm học sinh rối và khó phân biệt. Chẳng hạn ba tổ chức cách mạng với ba tổ
chức cộng sản; khuynh hướng cách mạng tư sản với khuynh hướng cách mạng
vô sản; phong trào yêu nước với phong trào cơng nhân. Do đó, học sinh rất cần
được hướng dẫn để nắm bắt vấn đề một cách thấu đáo và tránh sự nhầm lẫn. Mặt
khác thực tiễn của cuộc đấu tranh trong phong trào dân tộc dân chủ giai đoạn
này là sự thử thách nghiêm khắc, sự sàng lọc cặn kẽ để lựa chọn về sứ mệnh lịch
sử giữa các tổ chức, khuynh hướng cách mạng đối với dân tộc. Cuối cùng thì
Đảng Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập đã được lịch sử chọn
lựa là đảng tiên phong cách mạng, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc. Để thấu đáo hết nội dung này thì chỉ với thời gian trên lớp thơi
rất khó có thể giúp học sinh nắm vững được vấn đề. Giáo viên cần vận dụng tốt
các phương pháp, trong đó phương pháp tự học ở nhà là hết sức cần thiết để
giúp học sinh vững vàng tiếp thu kiến thức.
Trong bài đã giảm tải phần nói về Việt Nam quốc dân đảng nhưng giáo
viên cũng cần yêu cầu học sinh tìm hiểu về sự ra đời, thành phần, khuynh hướng
và hoạt động của nó để có thể so sánh với Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên
để hiểu rõ vai trò hạt nhân và là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng Sản.
Đặc biệt ở mục IV: Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm
1929: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh về quá trình hình thành của ba tổ chức
cộng sản, lưu ý chỉ cần nắm chắc về thời gian và tên gọi. Khi các em đã chuẩn
11


bị, biết trước về nội dung này sẽ rất thuận lợi cho giáo viên trong q trình lên
lớp, khơng mất thời gian để giới thiệu nhiều chỉ cần tập trung phân tích ý nghĩa

và tác động của sự kiện.
Giáo viên phải giao nhiệm vụ cho học sinh các nội dung tự học, yêu cầu
học sinh phải tự hoàn thành trước và sau giờ lên lớp. Giáo viên nên gia hạn thời
gian thực hiện nhiệm vụ tự học và yêu cầu học sinh nộp sản phẩm cụ thể. Giáo
viên cần có những khuyến khích, động viên cũng như cần thiết phải gây áp lực
đúng lúc, đúng chỗ để đốc thúc quá trình tự học của học sinh, phát huy tính tự
giác học tập của học sinh.
2.3.2.4.Trước khi tiến hành giảng dạy, giáo viên cần công bố đề cương bài
học để giúp học sinh dễ dàng định hướng trong quá trình tự học, chủ động
trong việc phân bổ thời gian và sắp xếp nội dung tự học.
Ví dụ như trước khi dạy bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước
ngoài trong những năm 1919 - 1925, giáo viên nêu rõ 3 mục cần tìm hiểu trong
bài là: 1/ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917 - 1923); 2/ Nguyễn Ái Quốc ở Liên
Xô(1923 - 1924); 3/ Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924 - 1925). Sau đó, giáo
viên hướng dẫn cho học sinh soạn bài mới ở nhà bằng cách lập niên biểu về
những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919-1925 theo mẫu sau:
Thời gian

Nội dung hoạt động

Ý nghĩa

2.3.2.5.Giáo viên cần cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung môn học, đặc
biệt là liên quan đến nội dung tự học.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần giúp học sinh thấy được sự cần
thiết của việc tham khảo tài liệu, hướng dẫn học sinh cách tìm kiếm, khai thác
các nguồn tài liệu cũng cách sử dụng tài liệu một cách hiệu quả. Ngay từ đầu
năm học, tôi đã cung cấp cho học sinh một tài liệu "Tài liệu hỗ trợ học sinh tự
học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1930". Tài liệu đó được xem như là "kim
chỉ nam" cho quá trình tự học Lịch sử của học sinh trong giai đoạn 1919 - 1930.

Tự học ở nhà là nhiệm vụ chính của học sinh, tuy nhiên phải làm thế nào
để quá trình tự học của các em có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào những
"thủ thuật" sư phạm khéo léo của giáo viên. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể nội
dung, yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi tìm hiểu kiến thức của bài học như nội
dung chính, xác định trọng tâm, ý nghĩa của sự kiện vv... Sau khi chốt ý trên lớp,
giáo viên cho học sinh nhắc lại và đối chiếu với cột tự học ở nhà để các em bổ
sung. Đồng thời giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng triệt để sách giáo
12


khoa bằng cách dùng bút chì gạch chân những ý quan trọng trong sách giáo
khoa, như thế sẽ giúp học sinh tiết kiệm được thời gian trên lớp và có thể ơn tập
dễ dàng trong các kì thi. Giáo viên quản lí hoạt động tự học của học sinh thơng
qua nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá khác nhau: trả lời câu hỏi, thực hiện bài
tập, kiểm tra bài cũ trước khi tiến hành bài mới, giao bài tập về nhà, …
Tự học là một hoạt động tất yếu của học sinh, nó có vai trị hết sức quan
trọng đối với việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Tự học là con
đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hoá của nhân loại, là một phương
pháp học tập đúng đắn cần được phát huy không chỉ trong các nhà trường mà
còn rất cần thiết trong cả cuộc đời của mỗi con người. Việc rèn luyện ý thức tự
học và phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh không phải là một phương
pháp dễ dàng. Vì thế, để thực hiện tốt phương pháp này cần phải có sự hợp tác
từ hai phía Giáo viên và Học sinh, trong đó nhiệm vụ chính là của học sinh
nhưng vai trò định hướng của giáo viên là vơ cùng quan trọng nhằm giúp học
sinh trong q trình lĩnh hội kiến thức. Nhất là đối với những bài chứa kiến thức
nền tảng cho nội dung của toàn chương, toàn phần.

13



GIÁO ÁN MINH HỌA
TIẾT 19- BÀI 16:
HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở NƯỚC NGOÀI TRONG
NHỮNG NĂM 1919-1930
I.MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
- Những hoạt động cụ thể của Nguyễn Ái Quốc sau chiến tranh thế giới thứ nhất
ở Pháp, Liên Xơ, Trung Quốc
- Nắm được những sự kiện có tính chất quan trọng, bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động của Người
- Qua những hoạt động đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc và tích cực chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho sự thành lập
chính đảng vơ sản ở Việt Nam
- Sự khác nhau trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với con đường
truyền thống của lớp người đi trước.
2.Tư tưởng:
Giáo dục lịng khâm phục, kính u đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các chiến
sĩ cách mạng
3.Kỹ năng:
-Kỹ năng quan sát tranh ảnh, lược đồ
- Biết phân tích, so sánh, đánh giá sự kiện lịch sử
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
-Lược đồ hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
-Ảnh : Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Tua
-Những tài liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1.Ổn định:
2. Bài mới:
Hoạt động của GV và HS
Phần ghi bổ sung của HS

GV: Yêu cầu các nhóm đại diện (Nhóm
1,3,5,8) trình bày. Các nhóm cịn lại GV
trực tiếp kiểm tra vở ghi phần tự học ở
nhà
I.NGUYỄN ÁI QUỐC Ở
Hoạt động 1:
PHÁP(1917-1923):
-GV:Yêu cầu HS đại diện Nhóm 1: Trình
bày phần tự học ở nhà (Đã có hướng dẫn
của GV trong tiết trước).
TG Hoạt động
Ý nghĩa
14


-HS: Đại diện N1 trình bày.
-HS trong N1 bổ sung
-GV: Kết luận, ghi bổ sung những nội dung
còn thiếu . Và mở rộng thêm về việc giới
thiệu H28: NAQ tại ĐH Tua…Và bài viết
của Người: “Con đường dẫn tôi tới chủ
nghĩa Mác- Lê nin
Hoạt động 2:
-GV:Yêu cầu HS đại diện Nhóm 3: Trình
bày phần tự học ở nhà (Đã có hướng dẫn
của GV trong tiết trước).
TG Hoạt động
Ý nghĩa

->Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con

đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc VN-con đường cách mạng vô
sản.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC Ở LIÊN
XƠ(1923-1924):

->Là bước chuẩn bị quan trọng về
chính trị và tư tưởng cho sự thành
-HS: Đại diện N3 trình bày.
lập chính đảng vô sản ở VN sau
-HS trong N3 bổ sung
này
-GV: Kết luận, ghi bổ sung những nội dung III.NGUYỄN ÁI QUỐC Ở
TRUNG QUỐC(1924-1925):
cịn thiếu. Và mở rộng thêm: Nói về tình
cảm của NAQ giành cho Lê nin…
Hoạt động 3:
-GV:Yêu cầu HS đại diện Nhóm 5: Trình
bày phần tự học ở nhà (Đã có hướng dẫn
của GV trong tiết trước).
TG Hoạt động
Ý nghĩa

->Chuẩn bị về tổ chức cho sự thành
lập chính đảng vơ sản ở VN sau
này

-HS: Đại diện N5 trình bày.
-HS trong N5 bổ sung
-GV: Kết luận, ghi bổ sung những nội dung

còn thiếu.
Hoạt động 4:
-GV:Yêu cầu HS đại diện Nhóm 8: Trình
bày phần tự học ở nhà (Đã có hướng dẫn
của GV trong tiết trước).
*Điểm mới và khác:
?Đóng góp quan trọng nhất của NAQ cho
- NAQ đi sang phương Tây, các
15


cách mạng VN trong giai đoạn này?
?Điểm mới và khác trong con đường cứu
nước của NAQ với các nhà tiền bối?
-HS: Đại diện N8 trình bày.
-HS trong N8 bổ sung
-GV: Kết luận, ghi bổ sung những nội dung
còn thiếu.

nhà tiền bối đi sang phương Đơng
-NAQ thành cơng, tìm ra con
đường cứu nước đúng dắn cho dân
tộc.

IV. CỦNG CỐ:
HS trình bày bằng sơ đồ tư duy; hoặc GV Lược đồ hành trình cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc
V. HƯỚNG DẪN HS TỰ HỌC (Nội dung cụ thể)

2.4. Hiệu quả của sáng kiến


16


Bản thân tơi đã kiểm tra tính khả dụng của sáng kiến kinh nghiệm bằng
cách tiến hành giảng dạy ở lớp 9A (Lớp thực nghiệm) và so sánh với lớp đối
chứng là lớp 9B. Sau khi dạy xong Chương I: Việt Nam trong những năm 1919 1930 ở lớp thực nghiệm và đối chứng, tôi đã tiến hành kiểm tra trong thời gian 1
tiết .
Tôi tiến hành chấm bài cả 2 lớp, kết quả thu được như sau:
Lớp

9A
9B

Tổng
số bài
38
39

Loại giỏi

Loại khá

Loại trung
bình

Loại yếu

Số lượng


Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

10
3

26%
7,6%

22
18

58%
46,1%

6
14


16%
36%

0
4

0%
10,3%

Bảng 2: Kết quả khảo sát cuối năm học 2019-2020
Đối chiếu lớp 9A và lớp 9B, cho thấy việc áp dụng sáng kiến vào giảng
dạy, kết quả năm học 2019-2020 có sự khác biệt rõ rệt: số lượng học sinh giỏi
lớp 9B có 3 học sinh giỏi chiếm 7,6%, 18 học sinh khá chiếm 46,1%; trong khi
đó số lượng học sinh giỏi lớp 9A là 10 em chiếm 26%; Khá là 22 em chiếm
58%. Điều đó chứng tỏ việc hướng dẫn học sinh tự học vào dạy học lịch sử là
yêu cầu rất quan trọng, không thể thiếu đối với người giáo viên dạy Lịch sử.
Chất lượng bộ môn được nâng cao rõ rệt, nhất là môn Lịch sử 9 – giai đoạn
1919-1930. Đồng thời, mang lại sự hứng thú và lòng say mê học lịch sử của các
em học sinh.
Bước sang năm học 2020 – 2021, rất nhiều em học sinh xin vào đội tuyển
học sinh giỏi. Kết quả: Có 4/4 HS đạt giải cấp huyện, trong đó: 3 em đạt giải
nhì, 01 em đạt giải Ba.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
17


Như vậy, việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà là một phương pháp

thực sự cần thiết và có tác dụng lớn đối với người học, nó ln là phương pháp
thích hợp với mọi thời đại, mọi mơn học nói chung và mơn Lịch sử nói riêng,
nhất là trong bối cảnh tình hình đại dịch co vid 19 đang diễn biến khá phức tạp
và nguy hiểm trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Và nó là một trong những
phương pháp khá qua trọng đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện một cách
nghiêm túc trong bối cảnh hiện nay khi Bộ Giáo dục và đào tạo nước ta đang
xây dựng và thực hành chương trình Giáo dục phổ thơng mới. Địi hỏi, người
giáo viên chỉ đóng vai trị là người hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự học, nghiên
cứu và sáng tạo, nhằm phát triển người học một cách toàn diện. Cụ thể:
- Đối với học sinh: Việc sử dụng phương pháp hướng dẫn học sinh tự học ở
nhà là rất cần thiết và quan trọng trong mỗi bài học. Thông qua phương pháp tự
học, đưa lại kết quả cho học sinh như sau:
+ Rèn luyện cho mình ý thức tự nghiên cứu
+ Tự nghiên cứu giúp các em có thái độ tích cực chủ động trong học tập
lịch sử. Rèn luyện được kĩ năng thực hành bài tập lịch sử cho học sinh.
+ Tự nghiên cứu giúp các em hiểu sâu hơn về sự kiện, hiện tượng lịch sử
và khả năng vận dụng tri thức lịch sử vào cuộc sống.
+ Học sinh u thích bộ mơn, giảm thời gian đi chơi, đầu tư cho bài học.
- Đối với giáo viên:
+ Đòi hỏi GV phải nâng cao khả năng nghiên cứu, tự làm mới mình. Kiến
thức chuyên môn phải vững vàng. Giáo viên cần đầu tư phương pháp, kĩ năng
trong hướng dẫn học sinh tự học.
+ Trên thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp học tập hay và có
hiệu quả rất cao về nhiều mặt. Vì vậy, mặc dù SKKN cịn nhiều hạn chế nhưng
thơng qua kinh nghiệm thực tiễn này, tôi hy vọng sẽ có nhiều giáo viên có tâm
huyết với nghề, yêu nghề và có nhiều phương pháp giảng dạy ưu việt hơn để
học sinh thật sự coi lịch sử là một môn học lí thú và hữu ích cho các em.
2. Kiến nghị, đề xuất
- Về phía Sở GD&ĐT
Tăng cường cơng tác kim tra đánh giá theo hướng đổi mới, hướng đến

việc phát huy năng lực của học sinh.
Trang bị thêm một số đồ dùng dạy học liên quan đến bộ môn lịch sử.
- Đối với giáo viên
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, sử dụng giáo án điện tử kết
18


hợp tốt với bình luận để nâng cao hiệu quả của phương pháp này trong việc dạy
– học lịch sử.
Thường xuyên trau dồi kiến thức, tự bồi dưỡng chuyên môn và khơng
ngừng tìm tịi những phương pháp dạy học mới, sáng tạo và hiệu quả.
Trên đây là SKKN được đúc rút từ thực tiễn dạy học mà tôi thực sự thấy
hữu ích để giúp học sinh yêu và thích học lịch sử hơn. Đây có thể là ý kiến chủ
quan của riêng cá nhân tơi, rất mong được sự đóng góp của đồng nghiệp những giáo viên có kinh nghiệm, giỏi về chun mơn để tơi được hồn thiện hơn
về kĩ năng nghề nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 6 tháng 4 năm 2021

Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Phượng

19



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Lịch sử 9 – Phan Ngọc Liên chủ biên NXB Giáo dục Việt Nam
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Lịch sử - NXB Giáo
dục Việt Nam
3. Văn kiện hội nghị lần thứ IV của Hội nghị BCH Trung ương khóa VII –
Văn phịng Trung ương Đảng
4. Phương pháp luận sử học – Phan Ngọc Liên chủ biên- NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội
5. Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông – Phan Ngọc Liên chủ biên - NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội
6. Phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên chủ biên - NXB Giáo dục
Việt Nam
7. Những mẩu chuyện nhỏ bài học lớn từ Bác Hồ - Đoàn Huyền Trang –
NXB Hồng Đức
8. Những mẩu chuyện về phong cách Hồ Chí Minh – Nhiều tác giả - NXB
Chính trị quốc gia sự thật

DANH MỤC
20


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Phượng
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Nga An

TT


Tên đề tài SKKN

1.

Hoạt động ngoại khóa trong
giờ dạy mơn Lịch sử ở

2.

trường THCS
Hoạt động ngoại khóa trong

Sở GD&ĐT C
Thanh Hóa

2006-2007

Phịng
GD&ĐT
Nga Sơn

C

2008-2009

Phịng
GD&ĐT
mơn Lịch sử ở trường THCS
Nga Sơn
Hình thành kỹ năng sử dụng

Phịng
GD&ĐT
bản đồ, lược đồ vào phần lịch
Nga Sơn
sử Việt nam lớp 7
Sử dụng kiến thức liên mơn
Phịng
GD&ĐT
vào giảng dạy nhằm nâng cao
Nga Sơn
chất lượng môn lịch sử lớp 9

C

2009-2010

C

2012-2013

B

2013-2014

A

2014-2015

giờ dạy môn Lịch sử ở
3.


Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng
A
2006-2007
GD&ĐT
Nga Sơn

trường THCS
Đổi mới kiểm tra đánh giá
góp phần thúc đẩy đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử

4.
5.

6.

7.


ở trường THCS Nga Liên
Chức năng giáo dục của bộ

ở trường THCS Nga Liên
Sử dụng kiến thức liên mơn

Phịng
GD&ĐT
vào giảng dạy nhằm nâng cao
Nga Sơn
chất lượng môn lịch sử lớp 9
ở trường THCS Nga Liên

21


8.

Hình thành kỹ năng sử dụng

Phịng
GD&ĐT
bản đồ, lược đồ vào phần lịch
Nga Sơn
sử Việt nam lớp 7 ở trường

9

THCS Nga An
Hình thành kỹ năng sử dụng

bản đồ, lược đồ vào phần lịch

A

2016-2017

Sở GD&ĐT B
Thanh Hóa

2016-2017

sử Việt nam lớp 7 ở trường
THCS Nga An

22



×