Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

SKKN vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao kĩ năng sống và cải thiện kĩ năng mềm cho học sinh ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 54 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KĨ
NĂNG MỀM CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM
Ở TRƯỜNG THPT
======================================

LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM

1


SỞ GD-ĐT NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG
========================

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
“Một số biện pháp hình thành và phát triển kĩ năng mềm cho
học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT”
LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM

Tác giả: VÕ THỊ MINH HẠNH

(Giáo viên tổ Toán- Tin)

PHẠM THỊ VIỆT DUNG (Giáo viên tổ Văn- Ngoại ngữ)

2



Năm học 2020 - 2021
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam chúng ta
đã và đang bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Với Đề án đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang
bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho
người học. Điều đó khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo
dục Kĩ năng sống vào trường học cùng với các môn học và các hoạt động giáo dục.
Các em học sinh ngày càng chủ động tích cực và linh hoạt hơn trong mọi hoạt động
của nhà trường và xã hội.
Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận được một thực trạng đó là bạo lực học đường
ngày càng gia tăng, khơng ít bộ phận học sinh thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vơ
tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân, vi phạm pháp luật, đạo đức, gây bức
xúc cho nhà trường, gia đình và xã hội. Ngày càng nhiều học sinh vô cảm trước cái
xấu. Hiện tượng học sinh vơ cảm trước bạo lực học đường, thậm chí khơng can ngăn
mà còn reo hò, cổ vũ khi chứng kiến bạn mình đánh nhau… là điều khiến nhiều chúng
ta thấy đáng lo ngại.
Tình trạng đánh nhau ở học sinh trong thời gian gần đây đang gia tăng trở lại,
đặc biệt là sau đợt nghỉ học do COVID-19. Trong thời gian dài nghỉ học, ở nhà học
online, các em lướt mạng, chơi game, chịu áp lực từ các vấn đề học tập, gia đình có
khó khăn về việc làm, kinh tế sa sút... là một trong số nguyên nhân khiến một bộ
phận nhóm trẻ có những căng thẳng, bức xúc, “giận cá chém thớt”, dễ dẫn đến các
tình huống bạo lực.
Ngồi ra, sự khác biệt của học sinh trong lớp, trong trường như học giỏi, xinh
đẹp, ngoại hình nổi bật... hoặc những học sinh q khép kín (trầm tính, ít nói, khơng
có nhiều bạn bè...) có thể là ngun nhân khiến các em dễ bị bắt nạt, bị đánh. “Một lý
do khác thường thấy bắt nguồn từ những hiểu lầm đơn giản như “nhìn đểu”, “nói
đểu”. u đương cũng là ngun nhân phổ biến khiến nhiều học sinh đánh nhau. Việc

đăng đàn, bình luận những lời lẽ khiếm nhã, khiêu khích lên mạng khiến các em nổi
nóng, muốn đánh nhau để “dằn mặt”
Nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu hụt về kỹ năng sống. Kỹ năng mềm
càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của lứa tuổi HS THPT. Giáo dục Kỹ
năng mềm tại các trường THPT hiện nay đang được chú trọng và tạo điều kiện thực
hiện. Trong đó, được tập trung ở những buổi ngoại khóa, hoạt động ngồi giờ hay các
3


tổ chức các câu lạc bộ chuyên đề giúp các em có cơ hội được tiếp cận và trải nghiệm
thực tế trong việc rèn luyện Kỹ năng mềm.
Xã hội đã giao phó và địi hỏi người dạy học phải góp phần “xuất lị” những
học sinh “chính mác thế kỉ XXI”, nghĩa là những lớp người khơng chỉ tồn tài mà cịn
phải vẹn đức – có óc thơng minh, nhạy bén, có tư duy sáng tạo, năng động, có kỹ
năng sống thích hợp, có nhân cách tốt đẹp, có đầy đủ những ý thức và hành vi cơng
dân,… Từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa học sinh với giáo viên,
đem đến hứng thú học tập, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh,
sống lành mạnh, chủ động trong cuộc sống.
Một người thành cơng ngồi xã hội thì kiến thức khơng thơi chưa đủ mà cần có
những Kỹ năng mềm cần thiết. Học sinh độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra
cuộc đời nên là thời điểm quan trọng để giáo dục các em những Kỹ năng mềm. Đó là
sự cần thiết để các em có đủ hành trang bước vào đời và thành cơng trong tương lai
sau này.
Làm công tác chủ nhiệm lớp, gắn bó với các em học sinh nhiều hơn qua các
hoạt động giảng dạy và công tác lớp, chúng tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ
bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó
tích cực trước các tình huống phức tạp, mn hình, muôn vẻ của cuộc sống là vô cùng
quan trọng.

Bên cạnh đó, do đặc thù của thi cử theo khối nên ở trường đã có phân lớp theo
các khối thi của học sinh. Điều này cũng tạo ra sự chênh lệch về giới tính trong các
lớp. Như các lớp khối A , A1 thì số lượng học sinh nam thường đơng hơn học sinh nữ.
Và trong các lớp khối D thì số lượng học sinh nữ chiếm ưu thế hoặc có khi là tồn bộ
sĩ số của một lớp. Do đó việc giáo dục học sinh cũng có những nét đặc thù riêng mà
người làm công tác chủ nhiệm phải linh hoạt, và có lúc cần kết hợp với nhau để tìm
hiểu rõ hơn về học sinh của mình. Bởi vì vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đối với
sự hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh là vô cùng quan trọng. GVCN lớp là
cầu nối giữa nhà trường với học sinh, với cha mẹ học sinh và các đoàn thể mà các em
sinh hoạt, học tập.
Trên cơ sở cả hai chúng tôi là giáo viên dạy cùng một trường THPT, đối tượng
học sinh và các điều kiện trong nhà trường là gần như tương đồng. Trong đó, cơ Võ
Thị Minh Hạnh là giáo viên dạy Tốn và chủ nhiệm các lớp khối A; cô Phạm Thị Việt
Dung là giáo viên dạy tiếng Anh và thường xuyên được phân công chủ nhiệm lớp
khối D. Nếu kết hợp kinh nghiệm trong cơng tác chủ nhiệm sẽ có sự hiểu biết cặn kẽ
4


hơn các đối tượng học sinh của mình và có những giải pháp đề xuất phù hợp hơn, tốt
hơn.
Chính vì vậy chúng tôi đã quyết định thực hiện chung đề tài :
“Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao kĩ năng sống và cải
thiện kĩ năng mềm cho học sinh ở trường THPT”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng của việc giáo dục Kĩ năng sống
và Kĩ năng mềm cho học sinh ở giáo viên chủ nhiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục Kĩ năng sống ở học sinh THPT
Đánh giá thực trạng về công tác giáo dục Kĩ năng sống ở học sinh THPT nói
chung và học sinh THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng.

Đề xuất một số giải pháp trong thực hiện giáo dục Kĩ năng sống và cải thiện kỹ
năng mềm ở học sinh THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: Tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng – Vinh – Nghệ an.
- Thời gian: Năm học 2019-2020 và Học kỳ 1 Năm học 2020-2021
- Chủ thể: Học sinh lớp 10 D1 K100 và lớp 11 A 2 K99
5. Tính mới của sáng kiến
Linh hoạt trong việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình
giảng dạy và lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh .
Áp dụng nhiều hình thức, địa điểm, áp dụng nhiều kiến thức các môn học khác
nhau để giáo dục học sinh.
Sử dụng mạng xã hội, và các thiết bị điện tử như một công cụ hỗ trợ nhanh nhất
và thuận tiện nhất trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp cơ bản nhất là:
- Quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu sản phẩm, so sánh giữa các số liệu thu được.
Và nghiên cứu các tài liệu, thu thập thơng tin lí lịch liên quan.
- Phương pháp khảo sát: Chúng tôi tiến hành khảo sát tâm lí học sinh, khảo sát
các phương pháp, cách thức tiến hành, khảo sát kết quả đã đạt được...
5


- Phương pháp thống kê số liệu trong quá trình khảo sát
- Phương pháp phân tích, phân loại: phân tích những nguyên nhân và những
kết quả đạt được trong hoạt động giáo dục.
- Phương pháp so sánh trong thực trạng vấn đề và so sánh kết quả thu được sau
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Sử dụng mạng xã hội và các ứng dụng lấy ý kiến trên các apps
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm Kĩ năng mềm
Kỹ năng là khả năng thực hiện một cơng việc nhất định, trong một hồn cảnh, điều
kiện nhất định, đạt được một chỉ tiêu nhất định. Các kỹ năng có thể là kỹ năng sống,
kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp.
Kỹ năng mềm (Soft skills) là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có liên
quan đến việc sử dụng ngơn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử
áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người. Chúng quyết định bạn là ai, làm việc
thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.
Hiện nay, Kỹ năng sống và Kỹ năng mềm là hai thuật ngữ đều được quan tâm khá
nhiều trong giáo dục nói riêng và xã hội nói chung. Thực trạng cho thấy, khi đề cập
đến một vấn đề mà cá nhân không thích ứng hay giải quyết trong cuộc sống thì được
đánh giá theo khía cạnh "thiếu Kỹ năng sống". Mặt khác, khi cá nhân không xin được
việc làm, gặp thất bại trong cơng việc thì xã hội thường gán là "thiếu Kỹ năng mềm".
Kỹ năng sống nằm trong phạm trù mang nghĩa phổ quát và rộng hơn nhiều so với
Kỹ năng mềm. Kỹ năng sống bao hàm tất cả các kỹ năng thuộc về mặt tâm lý xã hội
giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả các yêu cầu, thách thức đặt ra của cuộc sống và
thích nghi với cuộc sống. Hay nói một cách đơn giản hơn đó là những kỹ năng giúp
con người phản ứng hiệu quả trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Kỹ năng mềm trước hết liên quan đến mặt tương tác với người khác bằng những
yếu tố liên quan đến mặt cảm xúc, ngôn ngữ, thái độ nhằm thiết lập ra những mối
quan hệ xã hội tích cực để đạt được hiệu quả cao trong công việc. Kỹ năng mềm chỉ
hỗ trợ đắc lực cho cá nhân đạt được hiệu quả cao trong công việc nhưng khơng hồn
tồn đầy đủ để giúp cá nhân thích ứng được với các vấn đề nảy sinh từ cuộc sống.
Nếu căn cứ vào sự phân loại Kỹ năng sống, dựa vào khái niệm có thể nhận
thấy Kỹ năng mềm là một bộ phận quan trọng của Kỹ năng sống.
6


Theo quan niệm của WHO có 3 nhóm Kỹ năng sống gồm:

• Nhóm 1: Nhóm kỹ năng nhận thức.
• Nhóm 2: Nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc.
• Nhóm 3: Nhóm kỹ năng xã hội.
Kỹ năng mềm thuộc nhóm thứ 3 - nhóm kỹ năng xã hội của Kỹ năng sống, tức
là hệ thống những kỹ năng giúp cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ trong xã
hội. Tuy nhiên, cách nhìn này vẫn chưa nhấn mạnh được ý nghĩa quan trọng của Kỹ
năng mềm là thúc đẩy công việc và hỗ trợ công việc đạt được hiệu quả cao.
Theo quan điểm của UNESCO
Kỹ năng sống phải được phân chia dựa trên những kỹ năng nền tảng cơ bản
cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người ở những
mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Như vậy, dưới góc độ
phân loại này có thể nhận thấy Kỹ năng mềm thuộc trong nhóm kỹ năng chung mà cụ
thể hơn là nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
Ở một góc nhìn khác, có thể nhận thấy rằng: Kỹ năng sống mang tính hệ
thống và ổn định hơn so với Kỹ năng mềm.
Kỹ năng sống mang tính hệ thống và có thể "ổn định" tương đối với nhiều
người dù rằng họ có sự khác biệt về văn hóa, dân tộc, độ tuổi.
Kỹ năng mềm sẽ rất "cơ động" và dù nó hướng đến vấn đề giúp con người thích
nghi trong việc tương tác hiệu quả với người khác hay thúc đẩy công việc đạt hiệu
quả cao nhưng bản thân nó lại phụ thuộc khá nhiều vào tính chất của nghề nghiệp mà
đặc biệt là tính đối tượng của nghề nghiệp.
Nói tóm lại, Kỹ năng mềm khơng đồng nhất với Kỹ năng sống nhưng
không phải là một phạm trù tách biệt với Kỹ năng sống. Kỹ năng mềm là một bộ
phận quan trọng của Kỹ năng sống.
1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm ( GVCN)
GVCN là nhà quản lí, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những
chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với HS và tập thể học
sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm và uy tín
của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm tuân thủ và tự
giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này.

Nói như PGS.TS Đặng Quốc Bảo - Học viện quản lý giáo dục thì: GVCN lớp
là nhà quản lý khơng có dấu đỏ. Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn và
sâu sắc về giáo dục, có thể coi GVCN như một nhà quản lý với các vai trò: Người
7


lãnh đạo lớp học; người điều khiển lớp học; người làm công tác phát triển lớp học;
người làm công tác tổ chức lớp học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; người
giúp hiệu trưởng thực hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của học sinh; người
có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp. Một người GVCN giỏi sẽ góp phần xây dựng
nên một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một nhà trường vững
mạnh. GVCN là cầu nối giữa nhà trường - gia đình và xã hội. Nếu thực hiện thành
cơng cơng tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này trở thành thế hệ trẻ
năng động, sáng tạo và tài năng.
Để trở thành một GVCN chân chính thì người GV đó cần hội tụ đủ những yếu tố
sau: Có hiểu biết rộng về văn hóa chung, có tri thức sâu sắc; vững vàng về mơn học
phụ trách ở lớp chủ nhiệm; có khả năng sáng tạo trong cơng tác giáo dục, dạy học; có
khả năng thu thập tích lũy tri thức để ngày càng nâng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết
của mình; có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động
cơ học tập, rèn luyện đạo đức ở học sinh; GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều kĩ
năng sư phạm như: giao tiếp sư phạm trước đám đơng, biểu lộ và kiềm chế tình cảm,
cảm xúc khi cần thiết, ứng xử các tình huống sư phạm linh hoạt,… Và trên hết,
GVCN phải thực sự là một tấm gương sáng cho HS noi theo.
Theo Điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học, ban hành
kèm theo Thông tư sổ 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo, giáo viên chủ nhiệm có những vai trị sau:
Giáo viên chủ nhiệm thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học
Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để
quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học.
Vai trị quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ

chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập
và tu dưỡng của học sinh trong lớp.
Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm
của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và
trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
Giáo viên chủ nhiệm xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo
dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối
đồn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng
năm tháng.
Học sinh kính u giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đồn kết thân ái với
bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm
8


của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng
cao thì chất lượng giáo dục càng tốt.
Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm
bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời
họ. Bởi vì, người giáo viên khơng chỉ dạy kiến thức mà cịn dành nhiều thời gian, sức
lúc, tình cảm cảm hóa, dạy học sinh. Họ kết gắn các thành viên trong lớp học thơng
qua những câu chuyện, những trị chơi, hoạt động.
Giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp
Vai trò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự
quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ
chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm.
Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm
lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ.
Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đồn thể
có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được

tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ
thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể
lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp.
Giáo viên chủ nhiệm - Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững điều lệ, tơn chỉ mục đích, nghi thức và
nội dung hoạt động của các đoàn thể.
Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm cơng tác của mình làm tham mưu
cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch cơng tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đồn,
tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể,
đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng
giáo dục
Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là
cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và
phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là
người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo
dục đó một cách có hiệu quả nhất. Năng lực, uy tín chun mơn, kinh nghiệm công
tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối
hợp thành công các hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp.
Như vậy, GVCN là người đóng vai trị quan trọng trong việc giáo dục để hình
9


thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Để thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ của mình, việc học hỏi và không ngừng trau bản thân là yếu tố tiên quyết
của một GVCN.
1.3. Đặc điểm của học sinh THPT
Học sinh THPT ở lứa tuổi khoảng từ 15-18 tuổi, đây là lứa tuổi có nhiều biến
đổi về tâm sinh lí. Độ tuổi này tâm lí, tình cảm của các em đa dạng, phong phú và
cũng rất phức tạp. Điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui

buồn chuyển hố dễ dàng, tình cảm cịn mang tính bồng bột. Nhiều khi do hoạt động
hệ thần kinh khơng cân bằng, thường thì q trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức
chế, đã khiến các em không tự kiềm chế được. Học sinh THPT bước vào thời kỳ đầu
của tuổi thanh niên về sinh học, cấu trúc não đã phát triển tương đối hoàn thiện, các
khả năng tư duy, phân tích, đánh giá, cảm giác, tri giác,... cũng dần phát triển. Ở lứa
tuổi này, các em thích khẳng định cái tơi bản ngã, muốn được đối xử như người lớn,
được thoát ra khỏi sự ràng buộc của cha mẹ, thích được độc lập suy nghĩ và hành
động. Bên cạnh đó, nhiều em cũng có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, sống ích kỉ,
thiếu đạo đức, bắt chước, đua đòi, sống bất cần,...
Ở lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi, khủng hoảng vì sự phát triển rõ rệt về
cơ thể, thay đổi tâm sinh lý, tình cảm và các mối quan hệ xã hội. Một mặt, các em vẫn
muốn níu kéo những ký ức của tuổi thơ, muốn được nâng niu chiều chuộng cùng với
suy nghĩ và cách ứng xử vụng dại của thời thơ bé, mặt khác lại muốn khẳng định
mình là người lớn. Vì thế bản thân các em có nhiều mâu thuẫn, nhiều suy nghĩ phức
tạp trong nội tâm về các mối quan hệ xung quanh cần giải quyết. Do chưa có kỹ năng
sống nên các em gặp nhiều khó khăn, răc rối, đơi khi phải gánh chịu những hậu quả
khơng như mong muốn bởi chưa tìm ra phương hướng giải quyết đúng đắn và thông
minh nhất.
Về phương diện xã hội: các em bắt đầu có ý thức, nhận thức về cuộc sống, nhu
cầu kết bạn phát triển mạnh, các mối quan hệ mở rộng, thích tham gia các hoạt động
xã hội, thích đi đây đi đó để mở rộng tầm nhìn, thích khẳng định mình là người lớn.
Trong lĩnh vực tình cảm: cường độ những rung động tình cảm ngày càng cao
nhưng chưa có sự kiểm sốt chặt chẽ của lý trí dễ rơi vào tình trạng cảm tính đơn
thuần, cảm xúc tùy hứng nhất thời xuất hiện nhiều khó kiềm chế dễ dẫn đến sai lầm.
Đây là độ tuổi muốn khẳng định “Cái tôi cá nhân” nên có nhu cầu tự khẳng định
mình rất cao thể hiện ở chỗ: không muốn tham gia vào những sinh hoạt bó buộc của
gia đình, muốn có quyền riêng tư, thích tranh luận và hay bình luận nhận xét đánh giá
về người khác ... ngại tiếp xúc và chia sẻ với người lớn, người thân hay giấu kín
những khó khăn, vấp ngã của bản thân mình. Thêm vào đó là nhu cầu phát triển các
mối quan hệ xã hội, đây cũng là giai đoạn cuối cấp, các em phải chịu áp lực lớn trong

10


thi cử dẫn đến dễ rơi vào trạng thái tiêu cực ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần. Do
vậy, rất cần sự quan tâm, định hướng từ phía gia đình và nhà trường, giúp các em có
các kỹ năng để hồn thiện mình hơn.
* Một số đặc điểm tâm lý học sinh THPT - lứa tuổi vị thành niên
Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi tiếp sau tuổi học sinh THCS, học sinh THPT thuộc
lứa tuổi thanh niên. Có nhiều quan niệm khác nhau về tuổi thanh niên.
- Các nhà lý luận sinh học xác định tuổi thanh niên dựa trên sự trưởng thành
của cơ thể. Tiêu biểu như các nhà phân tâm học, họ cho rằng tuổi thanh niên là giai
đoạn phát triển tình dục.
- Các nhà lý luận về xã hội lại coi tuổi thanh niên là thời kỳ chuyển tiếp từ thơ
ấu sang tuổi người lớn.
- Các nhà tâm lý học cho rằng: Cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách
phức hợp, kết hợp cả quan điểm xã hội và quan điểm sinh học.
Từ nhiều quan niệm nhìn nhận các biểu hiện của lứa tuổi ta có thể sơ lược sự
phát triển tâm sinh lý của tuổi vị thành niên như sau:
- Về thể chất: sự thay đổi về kích thước và những đặc tính
- Về nhận thức: sự thay đổi trong khả năng suy nghĩ. Có hiểu biết tốt hơn về
mỗi quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, có khả năng lớn hơn để thiết lập mục
tiêu, bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống.
- Về xúc cảm, tình cảm: sự thay đổi trong những trải nghiệm và thể hiện những
cảm xúc. Có sự mâu thuẫn giữa sự mong đợi tự cao với sự tự nhận thức còn kém.
Phát triển cảm xúc của tình yêu và niềm đam mê.
- Về xã hội: thay đổi trong các mỗi quan hệ với mọi người. Nhận ra người lớn
khơng hồn hảo, khao khát phát triển sự độc lập. Những ảnh hưởng của bạn cùng
trang lứa trở nên quan trọng, tin tưởng nhiều hơn vào sự cổ vũ của bạn bè. Có
khoảng cách với cha mẹ.
Như vậy tuổi THPT được miêu ta như một giai đoạn khó khăn, tiêu cực trải

qua nhiều giơng bão và sự căng thẳng để có thể sống sót và trưởng thành. Trên thực
tế đây là một giai đoạn phát triển có nhiều sự thay đổi lớn lao về cả tâm lý và sinh
lý, là giai đoạn chuyển giao rất dài về mặt thời gian từ trẻ nhỏ thành người trưởng
thành. Vì thế, đây là giai đoạn cần được sự hỗ trợ, giúp đỡ một cách đặc biệt từ thầy
cô giáo, cha mẹ, bạn bè và cả cộng đồng để các em có thể phát huy được mặt mạnh
của sự phát triển về thể chất và tâm lý đồng thời hạn chế được những điểm yếu của
sự phát triển trong giai đoạn này.
* Những khó khăn tâm lý của học sinh THPT
11


Học sinh THPT nhìn chung cả thể chất, giải phẩu, sinh lí và tâm lí, nhân cách
đều phát triển theo hướng ổn định dần và đạt đến độ trưởng thành sau 18 tuổi. Tuy
vậy trong quá trình phát triển, cũng gặp khơng ít khó khăn cần có sự quan tâm, chia
sẻ và thấu hiểu thấu cảm của thầy cô, cha mẹ, bạn bè:
- Khó khăn tâm lí trong q trình học tập, rèn luyện
- Khó khăn trong định hướng và chọn nghề, chọn trường học nghề
- Khó khăn trong hình thành lí tưởng sống và xây dựng kế hoạch đường đời
+ Khó khăn trong hình thành hình ảnh bản thân trong mắt người khác
+ Khó khăn trong hành trình hình thành lí tưởng sống
+ Khó khăn trong xác định kế hoạch đường đời
- Khó khăn trong quan hệ xã hội, quan hệ với bạn và bạn khác giới
+ Khó khăn trong giao tiếp xã hội, tương tác và kết giao xã hội
+ Khó khăn trong quan hệ với bạn khác giới, tình u, tình dục
+ Khó khăn trong các trải nghiệm tình u đầu đời.
Những khó khăn trên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm lý của học sinh. Tạo
ra lực cản đối với các hoạt động, sinh hoạt và quan hệ xã hội của học sinh. Tác động
trực tiếp tới sự phát triển thể chất và tâm lí, nhân cách của học sinh. Những khó
khăn đó đẩy đến mức cao dễ dẫn đến sự khủng hoảng tâm lí, làm thay đổi chiều
hướng phát triển tâm lí học sinh, tạo ra các ngã rẽ trong tiến trình phát triển tâm lí,

nhân cách học sinh.
Nắm vững những đặc điểm tâm sinh lý này sẽ giúp Giáo viên chủ nhiệm có cách
thức giáo dục Kỹ năng mềm phù hợp.
1.4. Tính cấp thiết của giáo dục kĩ năng sống và cải thiện kĩ năng mềm của học
sinh
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên bức thiết khi mà xã
hội hiện đại đang tác động tới các em từ quá nhiều phía. Bên cạnh các kiến thức được
học ở trường, có rất nhiều kỹ năng sống mà các em cần phải rèn luyện để hoàn thiện
bản thân.
HS Trung học phổ thơng có các mối quan hệ đa chiều với bạn bè, với người
yêu, với thầy cô, với người thân và bố mẹ … đặc biệt trong môi trường xã hội phức
tạp xuất hiện nhiều tình huống khó xử, nhiều cám dỗ các em dễ rơi vào lúng túng, bế
tắc, thất bại, dễ chán nản, mệt mỏi bi quan mất phương hướng, dẫn đến những suy
nghĩ và hành động tiêu cực trong cuộc sống bởi tâm hồn các em nhạy cảm dễ tổn
thương, dễ đổ vỡ do bất lực trong giải quyết các tình huống xảy ra với mình.
12


Để giúp các em vượt qua, đứng vững trước những thay đổi phức tạp và nhiều
thử thách trong giai đoạn này chúng ta cần trang bị cho các em kỹ năng sống.
Một người thành cơng ngồi xã hội thì kiến thức khơng thơi chưa đủ mà cần có
những Kỹ năng mềm cần thiết. Học sinh độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra
cuộc đời nên là thời điểm quan trọng để giáo dục các em những Kỹ năng mềm. Đó là
sự cần thiết để các em có đủ hành trang bước vào đời và thành công trong tương lai
sau này.
Những hoạt động giáo dục ngoài giờ giúp học sinh thấy được tầm quan trọng
của các Kỹ năng mềm đối với lứa tuổi học sinh. Từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ
tích cực giữa học sinh với giáo viên, đem đến hứng thú học tập, giúp các em có khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ
tích cực với mọi người xung quanh, sống lành mạnh, chủ động trong cuộc sống.

2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh phổ thông
hiện nay
Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục
và đào tạo đến năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông
như sau: “Giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm
đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên”.
Theo Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục trong các nhà trường hiện nay là
còn xem trọng việc dạy kỹ năng cứng (hard skills) – trí tuệ logic để chỉ trình độ
chun mơn, kiến thức chun môn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn.
Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho
cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông; hướng dẫn tích
hợp giáo dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở các
cấp học phổ thơng.
Nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên trong các trường phổ thông đã bước
đầu làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ hiểu biết có khác nhau.

13


Một số hoạt động giáo dục KNS đã được đa số các trường chú ý thực hiện
trong khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
Giáo dục KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng

đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh.
Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện trong một số mơn
học, thơng qua hoạt động ngoại khố và các hoạt động trải nghiệm với nội dung khá
đa dạng.
Ở trường Phổ thơng, do cịn tồn tại quan điểm “Thi gì học nấy “ nên các em
học sinh thường tập trung vào việc học tập các mơn học theo khối của mình. Cùng với
sự động viên và định hướng từ phía gia đình, đại bộ phận các em quan niệm việc “
Học để thi” là chính. Kết quả học tập và điểm số thi cử thường được quan tâm nhiều
hơn. Trong khi thực tế cho thấy người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức
chun mơn, 75% cịn lại được quyết định bởi những Kỹ năng mềm họ được trang bị.
Người giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cần giúp cho học sinh hiểu được
“chìa khóa “dẫn đến thành công thực sự là các em phải biết kết hợp cả hai kỹ năng
này một cách khéo léo.
Khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên đều
phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ.
Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu
sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển
tải nhiều nội dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung
cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng
ứng xử với xã hội, ứng phó và hịa nhập với cuộc sống.
Thời gian gần đây, giáo dục KNS cho học sinh được quan tâm nhiều hơn. Giáo
dục KNS cho học sinh phổ thơng hiện nay khơng bố trí thành một mơn học riêng
trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông bởi KNS phải được giáo dục ở
mọi lúc, mọi nơi khi có điều kiện, cơ hội phù hợp. Do đó, giáo dục KNS phải thực
hiện thơng qua từng mơn học và trong các hoạt động giáo dục. Vì vậy, cơ hội thực
hiện giáo dục KNS rất nhiều và rất đa dạng. Có thể đề cập tới một số phương thức tổ
chức sau: Thông qua dạy học các môn học; qua chủ đề tự chọn; qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp; qua hoạt động trải nghiệm.
Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục KNS với các hoạt động giáo dục vốn đã được
lồng ghép vào chương trình giáo dục qua các môn học như: giáo dục công dân, ngữ

văn, lịch sử,… từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ mơi trường, phịng chống ma
t, giáo dục pháp luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên, … tạo nhiều cơ hội và điều
14


kiện để triển khai giáo dục KNS. giáo dục chăm sóc sức khỏe vị thành niên, kỹ năng
giao tiếp, phịng cháy chữa cháy.
Thời gian qua, dù giáo dục KNS có được quan tâm nhưng hiệu quả vẫn còn
nhiều hạn chế thể hiện qua thực trạng về KNS của học sinh cịn nhiều khiếm khuyết.
Tình trạng học sinh thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu hiện qua hành vi ứng xử không
phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống như:
ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi cơng cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha
mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ mơi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng,
gây phiền hà cho người khác khi sử dụng điện thoại di động, ....
Khi thực hiện giáo dục KNS, giáo viên cịn gặp nhiều khó khăn, lúng túng
(chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,…). Tổ chức
giáo dục KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung
giáo dục không chỉ diễn ra trong mơn học mà cịn thơng qua một số hoạt động khác
(hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh
phí để thực hiện.
- Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà khơng hoặc ít quan tâm
giáo dục KNS cho học sinh.
2.2. Thực trạng giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh trường
THPT Huỳnh Thúc Kháng
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng nằm ở số 62, đường Lê Hồng Phong, TP
Vinh. Đây là một mái trường có bề dày truyền thống về nề nếp và học tập, là địa chỉ
tin cậy của phụ huynh học sinh trên địa bàn thành phố Vinh và một số địa phương trên
địa bàn tỉnh Nghệ An. Hiện nay trường có tổng số 43 lớp với gần hai nghìn học sinh trên
địa bàn thành phố Vinh.
Trải qua 100 năm xây dựng và phát triển, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng

luôn phát huy truyền thống dạy tốt - học tốt, luôn là ngọn cờ đầu trong các phong trào
thi đua của Ngành giáo dục Nghệ An, và đặc biệt là trường THPT đầu tiên của tỉnh
Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
Cơ sở vật chất của trường khá tốt so với mặt bằng các trường phổ thông trong
tỉnh và ngày càng được trang bị công nghệ tiên tiến hỗ trợ cho việc dạy học .
Nội quy giáo dục học sinh cụ thể, rõ ràng, đúng theo pháp luật
Học sinh học trường THPT Huỳnh Thúc Kháng chủ yếu có kết quả học lực
khá- giỏi, hạnh kiểm khá- tốt ở trường THCS, vì thế phần lớn học sinh đều ngoan, có
ý thức thực hiện nội quy trường lớp, có tinh thần trách nhiệm với tập thể, yêu trường
lớp và thích hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, có
15


tâm huyết, yêu nghề và ý thức tốt trong hoạt động giáo dục. Cùng với những thuận lợi
đó, phụ huynh HS của trường rất quan tâm, sát cánh cùng giáo viên trong việc giáo
dục con em mình.
Đồn thanh niên và các tổ chức câu lạc bộ trong nhà trường hoạt động tích cực
và có hiệu quả giáo dục cao. Các đội nhóm thanh niên phát huy được lợi thế của nhà
trường và thúc đẩy các phong trào trong và ngoài nhà trường.
Học sinh sống ở thành phố từ nhỏ đã tham gia nhiều các sân chơi và hoạt động
tập thể nên kỹ năng sống khá tốt. Có nhiều tấm gương học tập nghiên cứu khoa học
cũng như các lĩnh vực khác của đời sống như văn hóa nghệ thuật để các em noi theo
và phấn đấu. có những gương mặt tiêu biểu , những người có ảnh hưởng nhiều tới đời
sống tinh thần của các em.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cịn những khó khăn, hạn chế có tác động khơng
nhỏ đến sự hình thành Kĩ năng mềm của học sinh. Vẫn còn một bộ phận học sinh hạn
chế: nhút nhát, ngại giao tiếp, do điều kiện gia đình có kinh tế hoặc được bố mẹ bảo bọc từ
nhỏ nên cịn ỷ lại, thụ động và gặp khó khăn trong hòa nhập tập thể. Nhiều em còn đua đòi
và theo xu hướng tiêu cực trên mạng xã hội. HS của trường đa phần được sự quan tâm
của gia đình, tâm lí của của phụ huynh nói chung muốn dành cho con em mình

những điều kiện tốt nhất để học tập, sinh hoạt. Phụ huynh thường “rải thảm” cho con
em mình, khơng muốn con em mình vất vả. Bởi vậy, trong hoạt động lao động, vệ
sinh trường lớp, chăm sóc khu di tích…theo chương trình của nhà trường, phụ huynh
khơng muốn con em mình tham gia. Nếu buổi lao động, sinh hoạt tập thể trùng với
lịch học thêm ngồi trường thì phụ huynh thường chủ động xin cho các cháu nghỉ,
điều đó hình thành thói quen và tinh thần tập thể thiếu tích cực ở các em. Hệ quả sự
“nng chiều” của phụ huynh đã khiến nhiều học sinh sống ích kỉ, hẹp hịi, thích
hưởng thụ, khơng biết quan tâm đến mọi người, kĩ năng giao tiếp, ứng xử tình huống
kém…Hơn nữa, học sinh của trường trên địa bàn thành phố Vinh nói chung, trường
THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng cịn tham gia học thêm ngồi trường q nhiều,
các em khơng có thời gian để tham gia nhiều các hoạt động xã hội khác.
BẢNG KHẢO SÁT VIỆC HỌC THÊM VÀ THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG
NGOẠI KHÓA CỦA HỌC SINH

Lớp

Sĩ số

Học thêm trong và Tham gia các Câu
ngoài nhà trường lạc bộ, đội, nhóm
hàng tuần

Hoạt động rèn
luyện sức khỏe, kĩ
năng hàng tuần

Số lượng
hs
Số buổi


Số
buổi

Số
CL
B

Số người
tham gia

Số người
tham gia

16


A2 K99

D1 K100

45

44

8

7

91%


95%

1

25 (55%)

1

18 ( 40%)

2

8 (17,8%)

Từ 2

12 ( 26,7 %)

Từ 3

3 (6,7 %)

0

15 (33,3 %)

1

20 ( 45,5%)


1

21 ( 47,7 %)

2

15 (34,1%)

Từ 2

10 (22,1 %)

Từ 3

5 ( 11,1%)

0

13 ( 30,2%)

Thông quan Bảng khảo sát ta có thể thấy rõ các em học sinh dành phần lớn thời
gian cho việc học thêm ngồi giờ học chính khóa. Và gần như cả lớp đều đi học thêm
với tần suất cao.
Trong khi đó, mặc dù số lượng các em tham gia vào các Câu lạc bộ trong và
ngoài nhà trường ở cả hai lớp khá ổn định nhưng những hoạt động của cá nhân tham
gia trải nghiệm rèn luyện sức khỏe và các kĩ năng trong cuộc sống thì lại rất thấp. Và
cũng có khơng ít học sinh khơng có bất cứ thêm một hoạt động gì ngồi việc học văn
hóa.
2.2.1. Từ phía BGH nhà trường
Ban giám hiệu luôn đồng hành cùng giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên nhân

viên trong nhà trường thống nhất quan điểm song hành giáo dục văn hóa và giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh.
Các hoạt động ngoại khóa và các tiết học ngồi giờ lên lớp cũng xen kẽ việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Xây dựng nhà trường có mơi trường học đường thân thiện cởi mở và đồn kết
nhân ái.
2.2.2. Từ phía giáo viên
Giáo viên trong trường ln có sự ủng hộ động viên đối với các em học sinh
tham gia vào các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ trong ngồi nhà trường nhằm
giúp các em cải thiện tích cực những kĩ năng sống của bản thân. Việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh cũng được lồng ghép trong q trình giảng dạy tùy vào đặc thù của
mơn học.
2.2.3. Từ phía học sinh
Các em học sinh ln nhận được sự ủng hộ của Ban giám hiệu nhà trường cùng
các thầy cô giáo nên các em tự tin thể hiện mình, mạnh dạn tổ chức thực hiện các hoạt
17


động nhằm nâng cao kĩ năng sống cho bản thân và góp phần nâng cao vị thế của nhà
trường.
Có nhiều chương trình sự kiện được các em tổ chức thường niên, kết nối học
sinh các khóa và giao lưu với học sinh trên địa bàn thành phố ví dụ như Radio 196X,
Lễ Tri ân và trưởng thành, Giờ Trái đất 60+, chương trình “ Hịa nhịp con tim” ở
trung tâm khuyết tật, Thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ, chương trình “ Trung thu
thắp sáng yêu thương” ở làng trẻ SOS, chương trình “ Xuân Yêu Thương” ở Bệnh
viện Ung bướu, Thu gom sách vở tặng cho các bạn học sinh miền núi, Hành trình về
nguồn, chương trình Tiếp sức mùa thi, Bước chân xanh bảo vệ môi trường… cùng
nhiều hoạt động ngoại khóa khác.
Stt
Số lượng thành viên các Câu lạc bộ trong trường Huỳnh Thúc Kháng


Câu lạc bộ

Năm học 2019 - 2020 Năm học 2020 - 2021

1

Nhóm Bút HTK

80

94

2

Thanh niên tình nguyện

173

193

3

Đội xung kích

42

44

4


Đội nề nếp

42

43

5

BOC (CLB Nhảy)

30

36

6

HGC (CLB Đàn hát)

71

120

7

HCDC (CLB Múa)

21

40


8

HDC (CLB Tranh biện)

25

43

9

HBC (CLB Bóng rổ)

49

80

10

HEC (CLB Tiếng Anh)

105

231

HFC (CLB Bóng đá)

32

32


11
12

HMU (CLB Mơ phỏng
Liên hợp Quốc)

13

HIGGS (CLB Khoa học)

Đang trong quá trình
thử nghiệm
Đang trong quá trình
18


thử nghiệm
Từ số liệu của bảng khảo sát có thể thấy sự gia tăng về mặt số lượng câu lạc bộ
cũng như các thành viên trong đội nhóm. Tuy nhiên số lượng các em tham gia vào câu
lạc bộ hay đội nhóm hoạt động bổ trợ cho kĩ năng trong cuộc sống cịn rất ít so với
tổng số gần hai nghìn học sinh trong nhà trường.
3. Đề xuất giải pháp
3.1. Chú trọng những kĩ năng cần rèn luyện đối với học sinh THPT
Vì mối quan hệ giữa Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm là sự bao hàm, đan xen và
lồng ghép có tính tương hỗ, gắn bó khăng khít với nhau nên trong đề tài này chúng tôi
không phân chia kĩ năng theo từng khái niệm mà đưa ra những kĩ năng cơ bản nhất
cần rèn luyện cho học sinh phổ thông.
3.1.1. Kỹ năng thuyết phục, truyền đạt, tự tin trước đám đông
Kỹ năng thuyết phục, truyền đạt là kỹ năng quan trọng bậc nhất trong các loại

kỹ năng mềm. Học sinh có ý tưởng, có kiến thức nhưng nếu khơng thể nói cho người
khác hiểu; khơng thể thuyết phục được người khác tin thì mọi điều là vơ nghĩa.
Khơng phải học sinh có kiến thức là truyền đạt tốt. Việc truyền đạt và thuyết
phục cần vận dụng rất nhiều kiến thức và sự khổ cơng rèn luyện. Nói để người khác
nghe, để người khác hiểu, và để người khác tin là câu chuyện hoàn toàn khác nhau.
Ngữ cảnh, thơng tin, luận cứ, luận chứng, tốc độ nói, cường độ nói, ngơn ngữ cơ
thể… Quyết định đến kết quả cần đạt sau cùng.
3.1.2. Kỹ năng giao tiếp, điều chỉnh và quản lí cảm xúc
Giao tiếp và truyền đạt là hai khái niệm khác nhau. Trong khi truyền đạt có tính
một chiều, cịn giao tiếp là sự tương tác qua lại. Truyền đạt có sự chuẩn bị từ trước,
cịn giao tiếp có tính phát sinh liên tục. Giao tiếp có người nói và có người nghe.
Chính vì vậy bạn cần có kỹ năng lắng nghe, phân tích, đưa ra câu trả lời nhanh chóng
và thuyết phục.
Kỹ năng giao tiếp được vận dụng thường xuyên trong cuộc sống thường ngày.
Nó giúp bạn xây dựng các mối quan hệ, giải quyết mâu thuẫn, tăng tính gắn kết. Từ
câu chuyện đời thường, cho đến giao tiếp công việc với đồng nghiệp. Mọi việc bạn
đều cần sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt tạo ra ấn tượng qua lời nói và cử chỉ.
Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân trong nhà trường: giúp học sinh biết thiết
lập tình bạn trong sáng với nhu cầu cần có nhiều bạn bè để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn,
ước mơ khát vọng… trong thời học sinh. Tình bạn rất cần thiết để giúp mỗi người trở
19


nên tốt hơn, nhưng cũng cần có thái độ dứt khốt khước từ kiểu tình bạn đưa chúng ta
sa vào những cám dỗ, cạm bẫy không cần thiết hoặc tiềm ẩn sự nguy hiểm.
Trong tình bạn cần sự thơng cảm, biết đồn kết, u thương và ln biết coi
hồn cảnh của người khác như chính mình để giúp đỡ nhau, hỗ trợ nhau vượt qua
những sự cố, hoàn cảnh rắc rối đang diễn ra trong cuộc sống. Cần phải đứng vững
trước những lôi kéo của bạn bè, biết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân nếu
phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc việc làm sai trái của bạn bè. Phải biết dừng lại,

dứt khốt khơng chấp nhận đối với những sai lầm của bạn, biết bảo vệ quyết định của
mình, đồng thời phân tích khun nhủ bạn bè hành động đúng, tích cực phù hợp với
chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Trong tình yêu: Đối với học sinh phổ thơng đây, thường là tình cảm đầu đời, đó
là những rung động mãnh liệt của cảm tính, ít có sự tham gia của lý trí. Vì vậy cần
phải giữ gìn tình yêu trong sáng, tình yêu phải trở thành động lực tiếp thêm sức mạnh
trong việc học tập rèn luyện tu dưỡng để trở nên tốt hơn. Biết cách ngăn chặn, từ chối
tình u ích kỷ, những biểu hiện khi yêu thì xa lánh bạn bè, trốn học đi chơi, bỏ bê
việc học tập, không tham gia các hoạt động tập thể… đặc biệt kiên quyết chống lại
việc đi quá xa, vượt quá giới hạn cho phép, kiểu sống thử… gây hậu quả xấu và
những hệ lụy khôn lường trong cuộc sống.
Trong học tập: đứng trước những căng thẳng, áp lực của việc học tập các em
cần phải có bản lĩnh, có nghị lực, có ý chí vươn lên, tự nhận thức điểm mạnh điểm
yếu của mình để khắc phục. Khi gặp các vấn đề khó khăn cần tham khảo sách vở, trao
đổi với bạn bè, hỏi thầy cơ để giải quyết. Trong q trình học tập cần chủ động nắm
vững 3 cấp độ: tái hiện, thơng hiểu và vận dụng. Cần bố trí thời gian hợp lý, có kế
hoạch học tập và thời gian vui chơi giải trí, sinh hoạt tập thể.
Trong quan hệ ứng xử với thầy cô, bạn bè và những người xung quanh cần thể
hiện là người có đạo đức, có văn hóa, có lịng tin và ý thức trách nhiệm với bản thân
và tư thế của người học sinh. Khi có mâu thuẫn, va chạm, bất đồng cần phải bình tĩnh,
biết kiềm chế hành vi để giải quyết những xung khắc bằng thương lượng, hòa giải
tránh việc giải quyết bằng bạo lực.
3.1.3. Kỹ năng thốt hiểm, kỹ năng ứng phó, ứng biến:
Khi gặp các tình huống nguy hiểm cần phải biết thốt ra khỏi nơi nguy hiểm
một cách an tồn và hiệu quả, những tình huống như: hỏa hoạn, bão lụt, tai nạn xảy ra
thương tích, bị xâm hại hay bị bắt cóc … nhiều tình huống chưa phải là nguy hiểm
nhưng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cần phải biết cách ứng xử phù hợp để hạn chế thiệt hại
cho bản thân.
3.1.4. Kỹ năng làm việc nhóm, hợp tác, và chia sẻ
20



Đây là kĩ năng rất quan trọng đối với học sinh vì thực tế hiện nay ngay cả viêc
học tập các em cũng thường xuyên được giao các nhiệm vụ theo nhóm. Mỗi cá nhân
khơng thể tự mình hồn thành tất cả mọi việc, chính vì vậy các em cần có kỹ năng
làm việc nhóm.
Làm việc nhóm khơng chỉ là phân công công việc, tổ chức làm việc hiệu quả.
Đôi khi nó cịn là khả năng xử lý mâu thuẫn, kết nối mọi người. Trước tiên để có thể
làm việc nhóm hiệu quả các em học sinh cần có tinh thần hợp tác, năng lượng và hỗ
trợ. Nếu cá nhân học sinh làm việc quá độc lập các em dễ bị tách ra và trở nên cô lập.
3.1.5. Kỹ năng xác lập mục tiêu, lên kế hoạch và tạo động lực cho bản thân
Nếu muốn đạt được thành công, mỗi người cần phải đặt ra mục tiêu để quản trị
cuộc đời của mình. Nếu khơng có mục tiêu, ta sẽ thiếu tập trung và định hướng. Thiết
lập mục tiêu không chỉ giúp chúng ta điều khiển định hướng của cuộc sống mà còn là
chuẩn mực để xác định xem ta có đang thực sự thành cơng hay khơng.
Mỗi em học sinh cần nhận thấy tầm quan trọng của việc lập kế hoạch để có kế
hoạch học tập và cuộc sống của bản thân. Việc lập kế hoạch cũng giúp các em hình
thành thói quen tốt. Nó giúp cho các em trong tương lai có thể tính tốn những rủi ro
có thể phát sinh và chuẩn bị tốt cho công việc sắp tới
Làm việc có kế hoạch đồng nghĩa với tính kỷ luật và tuân thủ. Rèn luyện cho
học sinh cách để lập kế hoạch trước tiên là với bản thân mình và nghiêm túc thực hiện
nó.
3.1.6 Kỹ năng nhận thức, đánh giá bản thân và đánh giá người khác.
Tự nhận thức bản thân được hiểu là khả năng hiểu rõ được bản thân cần gì,
mong muốn gì, tự nhận thấy được con người mình sống ra sao, đâu là thế mạnh của
mình, điểm yếu của mình là gì, nhận thức được tư duy, cảm xúc của chính bản thân
mình trước cuộc sống. Tự nhận thấy bản thân phải bổ sung hồn thiện như thế nào
trong q trình rèn luyện hoặc dựa trên sự đánh giá của người khác mà bản thân nhìn
nhận lại mình xem có đúng hay khơng và đưa ra phương án tốt nhất cho các bạn. Kỹ
năng tự nhận thức là một kỹ năng sống cơ bản và cần có để sống trong xã hội hiện

đại.
Kỹ năng đánh giá bản thân là kỹ năng sống mà cần có trong việc tu dưỡng
nhân cách các bạn trẻ là khả năng đánh giá bản thân trong các lĩnh vực, hành động do
chính bản thân làm, đánh giá bản thân đã thực sự làm tốt chưa, tâm huyết và theo đuổi
mục tiêu tới cùng không. Khác với kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng đánh giá
bản thân thường dựa trên kết quả mà bản thân làm được, hoặc dựa trên những đặc
điểm sẵn có mà bản thân có như năng khiếu, điểm mạnh điểm yếu để không ngừng
21


hồn thiện. Đánh giá bản thân có chính xác khơng là cần có sự nhìn nhận sâu rộng,
am hiểu và lối sống tích cực nhất.
Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân ln có sự tương quan với nhau,
đều là những lời nhận xét của chính mình về bản thân mình, tự nhìn nhận và đánh giá
giúp các bạn phát hiện được những điều yêu thích của bản thân và kỹ năng đó là cần
thiết trong q trình phục vụ cơng việc của mình, từ việc thuyết trình hay đơn xin học
bổng, vân vân.
Tự nhận thức và đánh giá bản thân là nền tảng hỗ trợ con người trong việc giao
tiếp ứng xử phù hợp với con người, trước tiên là cha mẹ, thầy cô, bạn bè và những
người xung quanh. Tự nhận thức được bản thân nên nói gì, và nội dung đem lại có
phù hợp với hồn cảnh khơng và đánh giá bản thân trong việc truyền đạt và kết quả
nhận được là sự hài lòng của người đối diện không. Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá
bản thân giúp mọi người biết được điểm mạnh, điểm yếu trong cách giao tiếp để có
phương án ứng xử tốt nhất và đem lại hiệu quả cao.
Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân tốt giúp con người sống nhân ái, có
thái độ cư xử đúng mực hơn. Làm chủ được suy nghĩ hành động của bản thân, tự nhận
thức được sự cảm thông chia sẻ trước những người có hồn cảnh khó khăn để đưa ra
những hành động thiết thực nhất, đánh giá bản thân về việc trao yêu thương cho mọi
người là công việc tốt nên làm.
Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân một cách chính xác giúp mỗi người

hiểu đúng đắn về con người mình, hiểu được lý do tại sao mình làm như thế, mình có
thái độ như thế với người khác, từ đó có những quyết định và lựa chọn phù hợp nhất
với khả năng bản thân, điều kiện xã hội, biết được bản thân yêu thích gì, cơng việc
nào để khơng ngừng phấn đấu đạt mục tiêu.
Tập cho học sinh thói quen trả lời câu hỏi “ Bạn thực sự muốn và làm gì”
Hãy học cách chấp nhận và thích nghi : Đừng thấy thất bại trước mắt mà mất
niềm tin và hy vọng trong cuộc sống, cũng như dễ dàng bỏ cuộc mọi thứ. Không có
thành cơng nào mà khơng có thất bại, khơng con đường nào là khơng có chơng gai,
mọi vấn đề cuộc sống xảy ra không bao giờ biết trước được cũng như không bao giờ
theo ý muốn của các bạn. Hãy có sự nhìn nhận và xem xét về những ngun nhân gây
ra thất bại để có sự thay đổi về tính cách tâm hồn sao cho phù hợp, thay đổi để mang
lại niềm hạnh phúc cho bản thân, để tạo ra những bước đi mới trong cuộc đời các bạn.
Hãy hình thành những thói quen thích nghi và chấp nhận từ những điều nhỏ
nhặt như chấp nhận trước kết quả học tập chưa cao, thích nghi với mơi trường mới với
điều mới mẻ mới, các kỹ năng sống của các em sẽ nâng cao hơn và bản thân các em
sẽ là người tự đánh giá được sự thay đổi đó.
22


Trong cuộc sống, mỗi người một quan điểm, suy nghĩ riêng của mình. Cần biết
bản thân cần gì trong xã hội hiện đại cũng như cần biết mình phải hành động như nào
để đáp ứng những nhu cầu xã hội, hãy tôn trọng bản thân, vượt lên ý kiến người khác,
giữ quan điểm đúng đắn của mình, khơng ngừng học hỏi và trau dồi tri thức. Tất cả là
cơ sở để bạn rèn luyện cho bản thân kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân, một
kỹ năng cần thiết và quan trọng đối với những con người hiện đại.
3.1.7. Kỹ năng tìm kiếm và học hỏi.
Với tốc độ phát triển chóng mặt của cơng nghệ, kiến thức mới cũng tăng lên
theo cấp số nhân. Và các nhiệm vụ yêu cầu của việc học tập cũng như những vấn đề
trong cuộc sống ngày càng nhiều và phức tạp hơn, rất cần các em có khả năng tìm
kiếm. Các em khơng thể bắt kịp được xu hướng nếu khơng có kỹ năng tìm kiếm thơng

tin và học hỏi cái mới.
Nhiều em thực sự yếu ở khâu tìm kiếm; và rất nhiều trong số đó khi gặp vấn đề
thường chỉ đi hỏi những người xung quanh. Người giáo viên cần hướng các em chủ
động tìm kiếm thơng tin; khơng chờ đợi bạn bè hoặc phụ thuộc thầy cô, đôi khi cả cha
mẹ truyền đạt lại kiến thức. Các em cần phải là người tiên phong dẫn đầu. Một tinh
thần học hỏi không ngừng cũng là vô cùng cần thiết. Ngừng học hỏi là ngừng phát
triển; Việc học tập trên lớp luôn song hành cùng tinh thần tự học hỏi đào sâu kiến thức
của mỗi một học sinh.
3.1.8. Kỹ năng hoạt động trải nghiệm:
Trong nhà trường không chỉ tiếp thu những kiến thức khoa học phổ thơng nền
tảng mà cịn phải trang bị kỹ năng sống cơ bản để học sinh có năng lực hòa nhập vào
cuộc sống xã hội. Một trong những biện pháp là tận dụng thế mạnh của các hoạt động
trải nghiệm do nhà trường tổ chức như: tổ chức mít tinh, tổ chức thi đấu thể thao, văn
nghệ, cắm trại, đi du lịch, hội nghị học tốt và các sinh hoạt khác… Quá trình học sinh
tham gia vào các hoạt động trải nghiệm là quá trình các em đặt mình vào một hoạt
động thực tiễn giúp các em nâng cao nhận thức, hình thành các kỹ năng, hình thành
phát triển thái độ, ý thức tập thể một cách vững chắc .
Khi học sinh được trang bị kỹ năng sống đúng đắn, lành mạnh các em sẽ có đời
sống tinh thần vui tươi thoải mái sẽ trưởng thành, cảm nhận được mái trường là môi
trường thân thiện đáng yêu, nơi gắn bó và lưu giữ những kỷ niệm êm đẹp về tuổi ấu
thơ không bao giờ trở lại. Các hình thức giáo dục trên sẽ tạo ra mơi trường tốt để các
em học tập rèn luyện để trở thành cơng dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời đó cũng
là cách thực hiện nguyên lý và phương châm giáo dục của Đảng.
3.2. Cách tổ chức thực hiện
3.2.1. Cách thức chung
23


Giáo dục Kỹ năng mềm thông qua các hoạt động của trường, lớp
Những bài học về Kỹ năng mềm có thể được lồng ghép trong các tiết chào cờ,

sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể của trường bằng những cách thức hoạt động cụ thể
như: Tạo hoạt cảnh, hỏi – đáp, trị chơi, đóng vai theo tình huống bằng hình thức sân
khấu hóa giúp hoạt động trở nên sinh động, thú vị thu hút các em tham gia. Nhờ đó,
học sinh tiếp thu nhanh chóng các kiến thức được truyền đạt.
Giáo dục Kỹ năng mềm thông qua sổ tay tuyên truyền
Hiện nay, các trường có thể đặt mua những cuốn sổ tay giáo dục Kỹ năng mềm
trên thị trường. Nội dung của sổ tay rất hữu ích với học sinh, tuyên truyền bao gồm
các kiến thức về kỹ năng sống, Kỹ năng mềm cần rèn luyện, cách thức rèn luyện.
Cuốn sổ tay nhỏ dễ mang theo bên mình, nội dung dễ đọc, dễ tiếp thu sẽ có tác dụng
rất tốt trong việc kết hợp giáo dục Kỹ năng mềm cho học sinh THPT.
Tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động bề nổi
– Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật: Hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm nhiều
thể loại khác nhau như: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, thi kể chuyện,.. nhằm
góp phần hình thành cho các em sự mạnh dạn, tự tin trước đám đông, rèn luyện kỹ
năng thể hiện bản thân.
– Hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, hội trại, thể dục thể thao: Hoạt động
này sẽ góp phần giúp các em rèn luyện kỹ năng làm việc, hoạt động tập thể. Qua đó,
các em được thể hiện bản thân, rèn luyện khả năng ứng phó nhiều tình huống, tự tin
hơn trong giao tiếp đặc biệt là rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác, tư
duy tích cực và sáng tạo.
– Hoạt động xã hội, lao động cơng ích: Thơng qua hoạt động này, học sinh sẽ
hiểu thêm về giá trị lao động, biết vận dụng kiến thức vào đời sống. Các em có thể
thích nghi với cuộc sống xung quanh ở nhiều hoàn cảnh khác nhau. Các em được hịa
mình vào đời sống xã hội, có tinh thần tập thể, sống có trách nhiệm với cộng đồng,
biết chia sẻ và cảm thông.
– Tham gia tiếp cận khoa học – kỹ thuật: Những hoạt động như tìm hiểu các
danh nhân, các nhà khoa học, tham gia thi hỏi đáp về các kiến thức về khoa học, kỹ
thuật sẽ rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình.
Qua đó, các em có thêm nhiều kiến thức về khoa học, kỹ thuật cũng như xã hội.
Những hoạt động ngoài giờ tạo điều kiện cho học sinh trải nghiệm, tương tác thực tế

với nhiều đối tượng, trải nghiệm qua nhiều hồn cảnh, qua đó rèn luyện các Kỹ năng
mềm cần thiết cho cuộc sống.
Xây dựng các câu lạc bộ học sinh
24


Tổ chức các câu lạc bộ chuyên đề trong học sinh là một biện pháp hữu hiệu để
hình thành Kỹ năng mềm cho các em học sinh. Những câu lạc bộ chuyên đề với hoạt
động tích cực thu hút các em tham gia vào nhiều loại hình hoạt động ngồi giờ lên
lớp, giúp các em lĩnh hội các giá trị sống và rèn luyện các kỹ năng cần thiết.
Những câu lạc bộ được thành lập, tổ chức và hoạt động ngay trong mơi trường
nhà trường THPT như: CLB Bóng rổ, CLB Tiếng Anh, CLB Dancesport, CLB Bóng
bàn, CLB báo chí, CLB sức khỏe giới tính, Câu lạc bộ MC, câu lạc bộ thủ lĩnh đồn,
câu lạc bộ thanh niên tình nguyện… Mõi CLB có cách thức và nội dung hoạt động
khác nhau, có khẩu hiệu và cả quy chế hoạt động riêng. Tham gia các câu lạc bộ này,
các em học sinh sẽ trở thành những thành viên tích cực, hoạt động vì một mục đích
chung. Các em được hịa mình vào một tập thể có chung sở thích, sở trường nên có
thể thỏa sức thể hiện thế mạnh của bản thân. Nhờ đó mà qua các câu lạc bộ, nhiều học
sinh nhút nhát trở nên mạnh dạn hơn.
Chưa kể đến, nhiều câu lạc bộ còn yêu cầu thành viên phải có những hoạt động
tích cực, nhất là tham gia những hoạt động xã hội, tình nguyện, những hoạt động tập
thể mang tính chất thể mỗi cá nhân phải thể hiện được mình mạnh mẽ, bản lĩnh, tự tin
và dám nghĩ dám làm như các câu lạc bộ người dân chương trình, thủ lĩnh đồn, thanh
niên tình nguyện. Tham gia những hoạt động này, các em từng bước tự rèn luyện
mình trở thành một con người trưởng thành, bản lĩnh hơn, sống có trách nhiệm với
người thân, gia đình và xã hội. Kỹ năng mềm được rèn luyện chính từ những hoạt
động hữu ích đó.
3.2.2. Cách thực hiện cụ thể
Các bước thực hiện: Khám phá - kết nối - thực hành - vận dụng.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thường gắn với một bối cảnh để học

sinh có thể hiểu và thực hiện một cách cụ thể, đi liền với một tình huống sư phạm mà
giáo viên chủ nhiệm lớp thường là người tham gia cùng với học sinh giải quyết vấn đề
để từ đó học sinh hình thành được kĩ năng sống cho mình. Chính vì vậy, người chủ
nhiệm cũng là người thấy được rõ nhất sự chuyển biến hành vi, thái độ hoạt động của
học sinh.
Các

Mục đích

bước
1. Khám
phá

Mơ tả q

Vai trị của GV - HS

trình thực hiện
- Kích thích học
sinh tìm hiểu cách
giải quyết một
vấn đề, một tình
huống phát sinh

- GV phân cơng nhiệm - GVCN đóng vai trị
vụ phù hợp với năng lực khởi động, đưa ra các
học sinh
tình huống, nêu vấn đề,
- HS lập kế hoạch thực ghi nhận, cầu nối…
25



×