Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý dạy NGHỀ PHỔ THÔNG ở các TRUNG tâm GIÁO dục NGHỀ NGHIỆP – GIÁO dục THƯỜNG XUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.26 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY NGHỀ PHỔ
THÔNG Ở CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ
NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ở bất cứ quốc gia nào, phát triển nguồn nhân lực cũng
là yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế - xã
hội. Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ thành lực lượng lao động
kỹ thuật là quá trình liên tục nâng cao kiến thức, kỹ năng,
thái độ từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, hướng
đến việc phát triển nhân cách tồn diện và hài hịa cho
người học. Trong đó, dạy NPT cho học sinh được coi là cầu
nối giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Các nhà nghiên cứu giáo dục và quản lý giáo dục ở
các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm tới vấn đề phân
luồng trong hệ thống giáo dục và coi đó là một nguyên tắc
tất yếu trong giáo dục; trong đó, hướng nghiệp và dạy nghề
cho học sinh phổ thông đã, đang và sẽ là vấn đề thu hút sự
quan tâm nhiều nhất của các nhà khoa học và quản lý giáo


dục. Việc học sinh lựa chọn nghề học đúng đắn có ý nghĩa
quan trọng tới việc định hướng nghề nghiệp, phát triển năng
lực và tạo nên động cơ hứng thú trong lao động nghề nghiệp
sau này. Tuy vậy, trong những năm cuối thể kỷ XX, đầu thế
kỷ thứ XXI khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, dẫn
tới sự bùng nổ cơng nghệ thơng tin, điều đó làm cho các
ngành nghề cũng thay đổi liên tục. Vì vậy trong những năm
gần đây các nhà khoa học và quản lý giáo dục đều nhận
thức rằng nếu coi con người là trung tâm của hoạt động giáo
dục, học tập và sản xuất thì phải xem xét lại cơng tác dạy


NPT dưới góc độ mới.
Trên thế giới có nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh
vực dạy nghề phổ thông, giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp như Nga, Đức, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc. Họ coi
dạy nghề phổ thông là hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhằm
làm sáng tỏ những kiến thức lý thuyết trừu tượng, giúp HS
dễ dàng phát triển, hòa nhập với xã hội. Họ định hướng
phân luồng cho HS ngay sau khi các em tốt nghiệp trung
học phổ thông.
Ở Việt Nam cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh
vực dạy NPT, hoạt động giáo dục hướng nghiệp - dạy nghề
cho HS. Điển hình như nghiên cứu của Tiến sĩ Phạm Tất Dong


[21], phó giáo sư tiến sĩ Đặng Danh Ánh [1], Phạm Minh Hạc
[25], Phạm Huy Thụ [39]...
Luật Giáo dục năm 1998, Luật Giáo dục năm 2005 và
Luật sửa đổi, và bổ sung Luật Giáo dục năm 2009 đều khẳng
định: mục tiêu của giáo dục phổ thông là chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào đời sống lao động, ở cấp
THPT cần củng cố và phát triển những hiểu biết thông thường
về kỹ thuật và hướng nghiệp. TỪ Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986) đến Đại hội Đảng lần thứ XI(2011), các văn kiện Đại
hội đều nhấn mạnh đến tăng cường công tác hướng nghiệp,
đẩy mạnh nghề, chuẩn bị nguồn nhân lực cho Sự nghiệp
CNH-HĐH, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Nghị quyết
lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội
khóa 10 ngày 9 tháng 12 năm 2000, Chỉ thị 14/2001/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới giáo dục phổ thơng ngày
11 tháng 6 năm 2001, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành chỉ

thị 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày 23 tháng 7 năm 2003 về việc
tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông,
nâng cao chất lượng và mở rộng việc dạy NPT để giúp HS tìm
hiểu nghề, làm quen với một số kỹ năng lao động nghề nghiệp
và quy định chương trình NPT với thời lượng 180 tiết cho bậc
THPT. Năm 2006, theo Quyết định số 16/2006/QĐ-GD&ĐT


ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng BỘ GD&ĐT hoạt
động giáo dục NPT là một trong 04 hoạt đọng được quy định
trong chương trình giáo dục trung học phổ thơng. Từ năm học
2007-2008, theo chương trình giáo dục NPT cấp THPT chỉ
học ở lớp 11, học chương trình 105 tiết, NPT cấp THCS chỉ
học ở lớp 8, học chương trình 70 tiết (mơn tự chọn).
Việc nghiên cứu các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động giáo dục NPT đã được các nhà giáo dục quan tâm bằng
nhiều hoạt động chuyên môn như: Các hội thảo, hội nghị
chuyên đề cấp BỘ GD&ĐT hay Sở GD&ĐT tổ chức; đó là tổ
chức giáo dục lao động - hướng nghiệp theo yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông (tháng 11 năm 2001); Đổi mới công tác
giáo dục lao động - hướng nghiệp phục vụ cho u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (tháng 7 năm 2003); Các
biện pháp phân luồng học sinh sau THCS và THPT (Hà Nội,
ngày 11 tháng 9 năm 2009).
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị
trung ương 8 khóa XI trong ngành giáo dục, Bộ giáo đục &
Đào tạo có Quyết định số 2653/QĐ-BGDĐT ngày 25 tháng
7 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn
mạnh: “phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học
sinh phổ thơng”; “hồn thành việc sắp xếp các trung tâm



giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng
hợp - hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề cấp huyện” [19].
Gần đây, có một số luận văn thạc sĩ khoa học chuyên
ngành QLGD nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy và học
NPT như:
Nghiên cứu biện pháp quản lý nâng cao chất lượng
hoạt động giáo dục NPT tại các trường THPT Thành phố
Hồ Chí Minh của tác giả Trần Ngọc Cẩn, năm 2010 [17].
Nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy NPT ở
trung tâm giáo dục thường xuyên và Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng của tác giả
Lê Thanh Phương, năm 2013 [33].
Như vậy giáo dục NPT là vấn đề đã và đang được
quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới, đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ cho việc phân luồng học
sinh và góp phần phát triển nguồn nhân lực lao động. Tuy
nhiên thực trạng về hoạt động và quản lý dạy NPT ở các
Trung tâm GDNN-GDTX nói chung và ở Trung tâm
GDNN-GDTX Mỹ Đức nói riêng trong thời gian qua chưa
được quan tâm thỏa đáng. Vì vậy, một lần nữa khẳng định
tính cấp thiết cần được nghiên cứu của đề tài luận văn.


Một số khái niệm cơ bản
Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, theo
Frederich William Taylor (1856-1915), nhà thực hành Quản
lí lao động: “Quản lí là khoa học và đồng thời là nghệ thuật
thúc đẩy sự phát triển xã hội”.

Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mĩ Lộc đã
viết: “Quản lí là hoạt động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể Quản lí (người quản lý) đến khách thể Quản lí
(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [18].
Theo Nguyễn Ngọc Quang thì "Quản lí là tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể Quản lí đến tập thể
những người lao động nhằm thực hiện được những mục
tiêu dự kiến” [34].
Theo Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lí là q trình
tác động gây ảnh hưởng của chủ thể Quản lí đến khách thể
Quản lí nhằm đạt được mục tiêu chung” [2].
Theo Trần Quốc Thành thì: “Quản lí là sự tác động có
ý thức của chủ thể Quản lí để chỉ huy, điều khiển hướng
dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con


người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản
lý, phù hợp với quy luật của khách quan” [37].
Như vậy, có thể hiểu : Quản lí là sự tác động có định
hướng, có kế hoạch, có mục đích cuả chủ thể quản lí đến
khách thể quản lí nhằm đạt được mục tiêu, kế hoạch đã đề
ra.
Quản lý giáo dục
Có nhiều cách diễn đạt của các nhà khoa học về Quản
lí giáo dục:
Theo Nguyễn Ngọc Quang thì “Quản lí giáo dục là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của
chủ thể Quản lí nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng thực hiện được các tính chất

nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ giáo dục đến
mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất” [34].
Theo Trần Kiểm “Quản lí giáo dục thực chất là những
tác động của chủ thể Quản lí vào q trình giáo dục (được
tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ
đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát


triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo
của nhà trường” [27].
Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lí giáo dục theo nghĩa
tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã
hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường
xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà
cho mọi người. Cho nên Quản lí giáo dục được hiểu là sự
điều hành hệ thống giáo dục quốc dân” [2].
Theo Luật giáo dục (2005) thì: “Nhà nước thống nhất
Quản lí hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo,
quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung
Quản lí chất lượng giáo dục, thực hiện phân cơng, phân
cấp Quản lí giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của cơ sở giáo dục ” [31].
Quản lý nhà trường
Theo Bùi Minh Hiền: “Quản lí nhà trường là q
trình tác động có mục đích, có định hướng, có tính kế
hoạch của các chủ thể quản lí (đứng đầu là hiệu trưởng
nhà trường) đến các đối tượng quản lí (giáo viên, cán bộ

nhân viên, người học, các bên liên quan…) và huy động, sử


dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực
hiện sứ mệnh của nhà trường đối với hệ thống giáo dục và
đào tạo, với cộng đồng và xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục đã xác định trong một môi trường luôn luôn biến
động” [16].
Như vậy “Quản lí nhà trường” là một bộ phận của
“Quản lí giáo dục”. Nhà trường là một cơ sở giáo dục, Quản
lí cơ sở giáo dục là một tập hợp những tác động có mục
đích của Giám đốc/hiệu trưởng đến đối tượng quản lí (GV,
cán bộ nhân viên, HS), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất,
tài chính, thơng tin…) …nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, quản lí nhà trường
chịu sự quản lí của các cơ quan giáo dục cấp trên và những tác
động bên ngoài như chính quyền địa phương.
Tóm lại, quản lí nhà trường phải gắn liền với quản lí
xã hội, với sự phối hợp của các lực lượng như gia đình,
cộng đồng nhằm thực hiện nững chức năng, nhiệm vụ để
đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học bao gồm hoạt động dạy của giáo
viên và hoạt động học của HS.


Hoạt động dạy của giáo viên:
Hoạt động dạy của GV là hoạt động điều khiển, tổ
chức giúp HS chiếm lĩnh tri thức nhằm hình thành, phát
triển nhân cách. Hoạt động này giúp HS nắm được kiến

thức và hình thành, phát triển kỹ năng, thái độ.
Hoạt động dạy của GV là hoạt động chính, hoạt động
trung tâm trong một cơ sở giáo dục, chi phối tất cả các hoạt
động khác, mở ra con đường thuận lợi và trực tiếp giúp HS
chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, hình thành ở HS những
năng lực, nhận thức và hành động, lòng yêu nước, hình
thành thế giới quan khoa học.
Hoạt động học của học sinh:
Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự điều
khiển, chủ động, tích cực, tự tổ chức các hoạt động nhận
thức của mình nhằm biến đổi, xử lý thơng tin bên ngồi,
biến những thơng tin đó thành tri thức của mình.
Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học:
Dạy và học là hai hoạt động tác động và phối hợp với
nhau, nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì q trình dạy
học khơng diễn ra. Hai hoạt động này có mối liên hệ mật


thiết, diễn ra song hành, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau,
tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học.
Hoạt động dạy học diễn ra trong những điều kiện xác
định, nhằm đạt hiệu quả theo mục tiêu giáo dục đã chỉ rõ:
“Chỉ trong sự tác động qua lại giữa thầy và trị thì mới xuất
hiện bản thân q trình dạy - học. Sự phá vỡ mối liên hệ
tác động qua lại giữa dạy và học sẽ làm mất đi sự tồn vẹn
đó”.
Khái niệm dạy NPT
Trước khi tìm hiểu khái niệm dạy NPT, cần tìm hiểu
khái niệm nghề: “cơng việc chuyên làm theo sự phân công
lao động của xã hội (thường phải do rèn luyện, học tập mới

có)”.
Theo nhà tâm lý học nổi tiếng E.A.Klimov: “Nghề
nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và
tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho
xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho
con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy
những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”.
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu nghề nghiệp
như một cơng việc, một dạng lao động mà cá nhân thực


hiện do sự phân công của xã hội, nhưng phải rèn luyện, học
tập để tồn tại và phát triển. Từ đó con người có thể khẳng
định được giá trị của bản thân.
Có thể thấy nghề nghiệp hàm chứa trong nó một hệ
thống giá trị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhân cách nghề
nghiệp và hiệu quả của nghề đó (tạo ra sản phẩm về vật chất
hoặc tinh thần).
Nghề phổ thôngđược giảng dạytrong các trường THPT
và THCS hay Trung tâm GDNN-GDTX. Việc dạy nghề phổ
thông được coi như một quy ước thể hiện rõ ràng mục đích,
nội dung, mức độ, phương pháp dạy nghề cho học sinh phổ
thông và khả năng thực hiện của Trung tâm GDNN-GDTX
hay các nhà trường.
Trần Hồng Quân viết: “Dạy nghề cho học sinh phổ
thông với tư cách là dạy tri thức; kỹ năng lao động, hướng
nghiệp là chính” [35].
Theo tài liệu: “Danh mục nghề dạy cho học sinh phổ
thông trong nhà trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung
học” của Bộ GD&ĐT đã nêu: “NPT là những nghề có tính

chất phổ biến, lý thuyết và thực hành ít phức tạp, cơng cụ
đơn giản, thời gian học nghề không lâu, trang bị cơ sở vật


chất ít tốn kém, q trình lao động nghề có thể vận dụng
khoa học kỹ thuật nhằm đạt năng suất cao…” [11].
Hiện nay, dạy NPT nhằm trang bị cho học sinh một số
kỹ năng lao động cần thiết và phù hợp với lứa tuổi học sinh
trung học về những lĩnh vực nghề phổ biến, giúp các em có
thể nhận biết và vận dụng trong đời sống. Hiện nay học sinh
được lựa chọn học tập một trong 11 nghề do Bộ GD&ĐT
quy định. Việc dạy NPT được diễn ra tại Trung tâm GDNNGDTX và một số trường THPT và THCS đủ điều kiện về
giáo viên, cơ sở vật chất.
Quản lí Trung tâm GDNN-GDTX, Yêu cầu đặt ra
với quản lý hoạt động dạy nghề phổ thơng của Trung
tâm GDNN-GDTX,quản lí dạy nghề phổ thông theo
hướng phát triển năng lực thực hành
Theo Luật giáo dục năm 2005; Luật giáo dục năm
2009 sửa đổi; Luật giáo dục nghề nghiệp 2014; Thông tư 39
năm 2015; Trung tâm GDNN-GDTX được quy định là một
cơ sở giáo dục phổ thông (Mục 5, điều 30), là cơ sở GDTX
(Khoản a, mục 1, điều 46) và là cơ sở GDNN (Khoản a,
mục 1, điều 5). Do vậy, hoạt động Quản lí Trung tâm
GDNN-GDTX có những đặc thù chung của cơng tác Quản
lí nhà trường phổ thơng. Người Quản lí Trung tâm GDNN-


GDTX là Giám đốc trung tâm (như Hiệu trưởng nhà
trường) [10].
Yêu cầu đặt ra với quản lý hoạt động dạy nghề phổ

thơng của Trung tâm GDNN-GDTX
Vị trí, chức năng và nhiệm vụ Trung tâm Giáo dục
nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo
dục quốc dân
Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của Trung tâm
GDNN-GDTX được quy định tại Thông tư liên tịch 39 của
liên bộ gồm: Bộ nội vụ, Bộ giáo dục - đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội, được ban hành ngày 19 tháng 10 năm
2015 tại Hà Nội [10].
Một số nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm
GDNN-GDTX (được quy định tại Điều 13, điều 14 tại
thông tư liên tịch 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐTBNV):
+ Nhiệm vụ
“- Tổ chức đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ ở trình độ sơ cấp, đào tạo nghề
nghiệp dưới 03 tháng; đào tạo theo hình thức kèm cặp


nghề, truyền nghề, tập nghề; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
kỹ năng nghề cho người lao động trong doanh nghiệp; bồi
dưỡng hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động;
đào tạo nghề cho lao động nông thôn và tổ chức thực hiện
các chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo
dưới 03 tháng.”[10].
“- Tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình,
giáo trình, học liệu trình độ sơ cấp, dưới 03 tháng đối với
những nghề được phép đào tạo; chương trình đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, cập nhật
kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ.”[10].
“- Tổ chức lao động sản xuất và dịch vụ kỹ thuật phục
vụ đào tạo.”[10].

“- Nghiên cứu ứng dụng các đề tài khoa học về giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp,
thử nghiệm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.”[10].
“- Tư vấn nghề nghiệp, tư vấn việc làm cho người học;
phối hợp với các trường trung học cơ sở, trung học phổ
thông tuyên truyền, hướng nghiệp, phân luồng học
sinh.”[10].


“- Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, gia
đình người học trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp, giáo
dục thường xuyên và hướng nghiệp; tổ chức cho người học
tham quan, thực hành, thực tập tại doanh nghiệp.”[10].
“- Thực hiện dân chủ, công khai trong việc thực hiện
các nhiệm vụ đào tạo nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên
và hướng nghiệp.”[10].
“- Tạo điều kiện hoặc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho
viên chức, giáo viên và nhân viên của trung tâm được học
tập, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ.”[10].
+ Quyền hạn
“- Được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch phát triển Trung tâm phù hợp với chiến lược phát
triển giáo dục nghề nghiệp và quy hoạch mạng lưới các
Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên
nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.”[10].
“- Được liên doanh, liên kết hoạt động đào tạo với
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá
nhân nước ngoài để tổ chức đào tạo, bổ túc và bồi dưỡng
kỹ năng nghề theo quy định của pháp luật.”[10].



Yêu cầu đặt ra với quản lý hoạt động dạy nghề phổ
thông của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục
thường xuyên
+ Yêu cầu về mục tiêu của hoạt động dạy NPT
Thực hiện theo đúng chuẩn kiến thức, kỹ năng theo
yêu cầu trong sách giáo khoa NPT bậc THPT do Bộ Giáo
Dục - Đào Tạo ban hành.
+ Yêu cầu về nội dung chương trình dạy NPT
Thực hiện đúng nội dung chương trình dạy NPT bậc
THPT theo sách giáo khoa của Bộ giáo dục ban hành:
Chương trình dạy NPT bậc THPT có 105 tiết (03
tiết/tuần), bố trí ngồi thời lượng học 01 buổi/ngày (trái
buổi) cho khối lớp 11.
Thực hiện đúng nội dung chương trình dạy NPT bậc
THCS theo cơng văn số 963/SGDĐT-GDTrH ngày 14 tháng
8 năm 2009 của Sở GD&ĐT Lâm Đồng V/v ban hành tạm
thời phân phối chương trình, nội dung dạy học chuẩn kiến
thức - kỹ năng các môn NPT cấp THCS từ năm học 2009 2010.


Chương trình dạy NPT bậc THCS có 70 tiết (3
tiết/tuần), bố trí ngồi thời lượng học 01 buổi/ngày (trái
buổi) cho khối lớp 8.
+ Yêu cầu về đội ngũ giáo viên dạy NPT
Xác định được vai trò của đội ngũ CBQL, GV, CNV
Trung tâm GDNN-GDTX đối với sự phát triển GD & ĐT
nói chung, GDTX nói riêng - yếu tố quyết định chất lượng,
hiệu quả dạy và học.

Thấm nhuần quan điểm xây dựng phát triển đội ngũ:
vừa là mục tiêu,vừa là động lực phát triển Trung tâm GDTX
và theo yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục.
Xây dựng phát triển đội ngũ CBQL, giáo viên có đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo chất lượng, đáp ứng
nhu cầu phát triển đào tạo của các cơ sở GDTX và nhu cầu
học tập ngày càng tăng của nhân dân.
Thực hiện tốt công tác xây dựng, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ;
Xây dựng và cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá đội ngũ
giáo viên.
+ Yêu cầu về cơ sở vật chất phục vụ dạy NPT


Xây dựng kế hoạch trang bị cơ sở vật chất hàng năm
nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của học sinh
học NPT.
Kiểm tra tu bổ, sửa chữa và mua sắm thường xuyên
các thiết bị đáp ứng mọi hoạt động trong công tác giảng
dạy.
Tăng cường sự quản lý nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu
quả tài sản hiện có cũng như bảo quản, sửa chữa tài sản kịp
thời phục vụ cơng tác giảng dạy, tránh thất thốt, lãng phí
tài sản của Trung tâm.
+ Yêu cầu về thái độ của người học
Phát triển hứng thú kỹ thuật và nhu cầu vận dụng kiến
thức, kỹ năng vào lao động, vào hồn cảnh mới, thói quen
làm việc có kế hoạch, tn thủ quy trình kỹ thuật và bảo
đảm an tồn lao động, bước đầu có tác phong cơng nghiệp,
giữ gìn vệ sinh mơi trường, có ý thức trong việc tìm hiểu và

lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Dạy cho học sinh những
tri thức chuyên môn nghề nghiệp và rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo hình thành tay nghề và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
phù hợp với yêu cầu của nghề.


Nội dung quản lí hoạt động dạy nghề phổ thơng ở
trung tâm GDNN-GDTX
Quản lí hoạt động dạy NPT ở Trung tâm GDNNGDTX cấp huyện là những cách thức tiến hành của chủ thể
Quản lí nhằm thực hiện tốt cơng tác giáo dạy nghề phổ
thông tại Trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện và các
trường THPT, THCS trên địa bàn huyện, là việc quản lý nội
dung chương trình, đề ra những phương pháp tối ưu để đạt
được mục tiêu đã đề ra.
Khơng có cách thức quản lý nào là tối ưu, mà tùy từng
điều kiện, hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, từng cơ
sở, từ đó chủ thể quản lý sẽ vận dụng linh hoạt để đẩy mạnh
hoạt động chuyên môn ngày một phát triển.
Quản lí việc thực hiện mục tiêu, chương trình dạy
học
Về mục tiêu dạy NPT
Quản lí việc thực hiện mục tiêu là xác định, thiết lập
mục tiêu, cách thức thực hiện mục tiêu, trong đó ban giám
đốc và giáo viên thống nhất mục tiêu và cách thực hiện để
đạt được mục tiêu đã đề ra. Với hoạt động dạy NPT, mục
tiêu cần đạt được là hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ mà


HS cần đạt được. Sau khi học xong chương trình NPT, HS
nắm được những đặc điểm và yêu cầu của nghề mà mình

được học, hiểu biết cơ bản về cơng cụ, kĩ thuật, an tồn lao
động, có thể sử dụng cơng cụ, kĩ thuật, an tồn lao động,
làm ra sản phẩm đơn giản, vận dụng kiến thức đã học vào
thực tiễn cuộc sống. HS được rèn luyện tác phong công
nghiệp, có ý thức trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
Về chương trình dạy NPT
Chương trình dạy NPT cấp THPT có 105 tiết (03
tiết/tuần), lịch học được bố trí ngồi thời gian học chính
khóa cho học sinh khối lớp 11.
Chương trình dạy NPT cấp THCS có 70 tiết (03
tiết/tuần), lịch học được bố trí ngồi thời gian học chính
khóa cho học sinh khối lớp 8.
Tài liệu khung phân phối chương trình được Bộ
GD&ĐT ban hành dạy NPT cho khối lớp 11 và 08 gồm 11
nghề: “làm vườn, ni cá, trồng rừng, gị, điện dân dụng,
điện tử dân dụng, sửa chữa xe máy, cắt may, nấu ăn, thêu
tay, tin học văn phòng”. Các chương, bài, phần lý thuyết và
thực hành được qui định rõ số tiết.


Quản lí việc thực hiện xây dựng, thực hiện kế hoạch
giảng dạy
Hiện nay các Trung tâm GDNN-GDTX thực hiện
khung chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học do Bộ
GD&ĐT ban hành. Chương trình, kế hoạch dạy học chi tiết
với từng mơn nghề do giáo viên giảng dạy nghề đó trực tiếp
xây dựng dựa trên khung chương trình của Bộ, chuẩn kiến
thức kĩ năng và đặc điểm cụ thể của học sinh. Giám đốc
duyệt chương trình và kế hoạch đó và nó là căn cứ pháp lý
để các cấp quản lý giáo dục kiểm tra, giám sát hoạt động

dạy học của giáo viên, của Trung tâm. Do vậy Giám đốc
phải quản lý được giáo viên xây dựng chương trình kế
hoạch dạy học như vậy có đúng với khung chương trình của
Bộ khơng, có phù hợp với thực tế của Trung tâm, của đối
tượng học sinh khơng, có đảm bảo kiến thức kỹ năng
khơng? Có đáp ứng mục tiêu dạy học khơng?
Quản lí thực hiện giờ lên lớp dạy học và sử dụng
phương tiện dạy học
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên bắt đầu từ việc soạn
bài. Bài soạn là một bản kế hoạch lên lớp, là bản thiết kế các
hoạt động cho học sinh, cách thức tổ chức hoạt động và các
mục tiêu học sinh cần đạt được. Bài soạn phải được thực hiện


theo đúng phân phối chương trình của từng lớp do chính giáo
viên xây dựng và đã được Giám đốc phê duyệt.
-Việc thực hiện nề nếp ra vào lớp đúng giờ, tổ chức,
hướng dẫn quản lý học sinh đối với giáo viên đứng lớp hết sức
quan trọng. Mỗi giờ dạy phải thực hiện được mục tiêu bài
giảng đề ra, gây được hứng thú cho học sinh học tập, phát huy
tính sáng tạo, giờ học có chất lượng hiệu quả. Đối với người
quản lý phải xây dựng tiêu chí giờ lên lớp có chất lượng, xây
dựng thời khóa biểu một cách khoa học hợp lý để người dạy và
người học tạo ra tâm lý thoải mái truyền đạt và tiếp thu kiến
thức.
Giám đốc thường xuyên kiểm tra giờ dạy trên lớp của
giáo viên thơng qua dự giờ có báo trước và khơng báo
trước, trao đổi với giáo viên về kết quả học tập của học
sinh, chất lượng toàn diện của lớp; bố trí thời gian để dự
sinh hoạt tổ chun mơn và kiểm tra việc thực hiện quy chế

chuyên môn của giáo viên.
Quản lý hoạt động dạy của GV còn là quản lý các hoạt
động khi dạy: tổ chức lớp học; tổ chức và điều khiển các
hoạt động học tập của học sinh; sử dụng các phương pháp
và kỹ thuật dạy học phù hợp để gây hứng thú và để học sinh


chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động học tập; ứng
dụng CNTT, sử dụng đồ dùng và thiết bị dạy học.
Quản lí hồ sơ chun mơn của GV
Hồ sơ chuyên môn của GV là công cụ, phương tiện
đắc lực giúp GV thực hiện đầy đủ có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ của người thầy trong giờ lên lớp. Thông qua quản
lý hồ sơ, Giám đốc sẽ quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động
chuyên môn của GV. Theo quy định hiện nay, hồ sơ chun
mơn của GV có 3 loại sau: giáo án, sổ điểm, kế hoạch dạy
học và ghi chép chuyên môn, riêng đối với Sở GD & ĐT Hà
Nội từ năm học 2016 - 2017 bắt đầu triển khai đồng loạt
việc sử dụng sổ điểm điện tử, theo đó tất cả các giáo viên bộ
mơn đều phải cập nhật điểm số học tập của học sinh vào sổ
điểm điện tử trên hệ thống chung của Sở theo đúng thời
gian qui định. Giám đốc cần phải hướng dẫn, yêu cầu cụ thể
cho từng loại hồ sơ, cần quy định nội dung và thống nhất
các loại mẫu. Có kế hoạch kiểm tra theo định kỳ hoặc đột
xuất để thu thập, đánh giá chất lượng hồ sơ, kết quả thực
hiện quy chế chun mơn của GV.
Quản lí việc kiểm tra, đánh giá và phản hồi thông tin


Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là một

khâu khơng thể thiếu trong q trình dạy học cũng như quá
trình học tập của học sinh. Đây là một công cụ quan trọng,
chủ yếu để xác định năng lực nhận thức của học sinh, là
động lực để đổi mới phương pháp dạy và học, giúp cải
thiện, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo con người.
Bên cạnh đó học sinh cũng tự khẳng định được khả năng
của mình. Nó hình thành ở học sinh lịng tin, ý chí quyết
tâm đạt kết quả trong học tập, tinh thần tập thể, lịng trung
thực, ý chí giúp đỡ nhau trong học tập. Mặt khác, kiểm tra
đánh giá còn giúp học sinh hình thành những thói quen, kĩ
năng trong học tập và biết nhận thức các vấn đề đặt ra một
cách nhạy bén và chính xác, biết vận dụng những kiến thức
đã học, từ đó các em dễ dàng tiếp thu kiến thức mới.
+ Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Các trung tâm GDNN-GDTX cần lên kế hoạch kiểm tra
theo tháng, học kỳ, năm học, nghiêm túc thực hiện chế độ
kiểm tra và cho điểm. Bên cạnh đó cần chấm trả bài đúng
thời hạn.
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh, yếu tố trọng tâm của
quá trình dạy học, cần theo mục tiêu thúc đẩy quá trình dạy
học. Thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá, các em tự nhận


×