Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN lý dạy học môn TOÁN ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH hải DƯƠNG THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.38 KB, 47 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DẠY HỌC MƠN TỐN Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN
KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

Khái quát về giáo dục huyện Kim Thành, tỉnh Hải
Dương và cách thức tiến hành khảo sát
Tình hình chung về giáo dục cấp THPT ở huyện
Kim Thành, tỉnh Hải Dương
Cùng với sự phát triển đi lên của huyện Kim Thành,
Giáo dục và Đào tạo trong huyện cũng có những bước phát
triển đồng thời cả về quy mơ và chất lượng. Năm học 2017–
2018: Tồn huyện có 4 trường THPT; số trường đạt chuẩn
quốc gia là 2/4 trường chiếm 50%; 100% phịng học được
kiên cố hố, trong đó chỉ có số ít với 8% phịng học và
phịng chức năng là nhà cấp 4. Trang thiết bị DH từng bước
được tăng cường đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đổi
mới PPDH. Cuối năm học 2017 - 2018 tổng số CB, GV và
NV toàn huyện là 242 người, cơ bản đảm bảo số lượng và
trình độ chun mơn, nghiệp vụ; 100% CB, GV đạt chuẩn
và trên chuẩn, cơ bản đáp ứng các yêu cầu cho nhiệm vụ
chính trị và nhiệm vụ CM của các nhà trường.


Số liệu trên cho thấy đội ngũ CB, giáo viên các trường
cơ bản là đủ về số lượng. Tuy nhiên, qua tìm hiểu và đánh
giá sâu hơn thấy được một thực trạng chung đó là hiện
tượng thừa thiếu GV cục bộ về số lượng; chính sách tinh
giản biên chế (cắt giảm cơ học) của UBND Tỉnh đã bắt đầu
nảy sinh nhiều vấn đề: Xu hướng trao quyền tự chủ còn nửa
vời, các Hiệu trưởng không được trực tiếp tuyển dụng GV,


NV nhưng phải chịu trách nhiệm về mọi mặt trong đó có
chất lượng; dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện chức
trách nhiệm vụ được giao; thừa nhiều bộ phận trung gian,
hình thức; thậm chí thừa CB, GV có năng lực hạn chế
nhưng ln thiếu những CB, GV có năng lực phẩm chất tốt
và tâm huyết với nghề. Thêm một thực tế, trường THPT
Đồng Gia nhiều năm nay không thể bổ nhiệm đủ số lượng
BGH cần thiết, gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác QL,
LĐ chỉ đạo, ảnh hưởng đến chất lượng GD của nhà trường,
đó là lời ngỏ về thực trạng công tác Tổ chức CB.
Cũng qua bảng số liệu trên: 100% xếp loại theo chuẩn
chức danh, nghề nghiệp từ khá trở lên là chưa thực chất,
còn mang nặng tính hình thức, có biểu hiện nể nang giữa
các đồng nghiệp, lãnh đạo ngại va chạm, thiếu quyết liệt
trong đấu tranh tự phê và phê bình, năng lực chuyên môn


nghiệp vụ không đồng đều, chỉ cơ bản đáp ứng yêu cầu,
chưa lấy phiếu tín nhiệm GV từ HS (chưa đổi mới triệt để
đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ và hướng tới nhu
cầu, lợi ích của người học). Chỉ có 55,38 % CB, GV, NV
được bồi dưỡng CM, nghiệp vụ. Đội ngũ giáo viên trẻ, năng
động nhiệt tình, mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy
học nhưng bản lĩnh, tâm lí, kinh nghiệm cịn hạn chế; ngược
lại, những GV giàu kinh nghiệm nhưng tuổi cao và có sức ì
lớn, ngại thay đổi, thiếu linh hoạt trong việc sử dụng công
nghệ, phương pháp dạy học mới để đáp ứng yêu cầu của
Đổi mới GD theo định hướng phát triển năng lực, phẩm
chất người học.
Thực tế cho thấy các nhà trường đã được xây dựng khá

hồn thiện với quy mơ cơ bản, hình thái trúc phù hợp với
mơi trường sư phạm. Các phịng học đều được xây dựng
kiên cố, có đủ các phịng chức năng, phịng học bộ mơn,
VP... TBDH đủ số lượng tối thiểu theo quy định của Bộ GD
& ĐT.
Ở các trường THPT trong huyện Kim Thành, vấn đề
đổi mới PPDH, đổi mới cơng tác quản lí đã được tiến hành
từ nhiều năm tạo sự chuyển biến tích cực và đem lại những
hiệu quả ban đầu góp phần vào việc nâng cao chất lượng
GD. Tuy nhiên, việc đổi mới QLDH theo định hướng phát


triển năng lực vẫn cịn mang tính hình thức, đa số CBQL,
GV nhận thức về đổi mới QLDH, phương pháp dạy học
thường ở bề ngoài, thiếu chiều sâu (đổi mới chỉ là làm khác
đi, là khẩu hiệu hay mệnh lệnh hành chính, là sử dụng máy
chiếu, giáo án điện tử; thảo luận nhóm, tăng ứng dụng,
thay đổi cách kiểm tra và quản lí KTĐG… rất hình thức;
việc vận dụng các kỹ năng để hành động, sự hợp tác… còn
hạn chế) chưa chú ý đến bản chất, chiều sâu bên trong của
định hướng phát triển năng lực (năng lực hành động, vận
dụng, sự hiệu quả và sự phù hợp của phương thức lãnh đạo
QL, các PP dạy và học, lựa chọn nội dung và đặc thù môn
học…). Phương tiện, TBDH như bảng thông minh, các phần
mềm, dụng cụ thực hành, trang thiết bị hiện đại nhưng thiếu
đồng bộ, nhanh xuống cấp, chưa khai thác hết các tính năng
ưu việt và chưa đủ đáp ứng ở mức độ dạy đại trà.
Qua thống kê kết quả xếp loại hạnh kiểm cho thấy tỉ lệ
HS đạt hạnh kiểm khá, tốt ở cả 3 trường khảo sát tăng dần
nhưng còn chậm trong 3 năm học (các năm học 2015 2016: TB đạt 86.49 %; 2016 - 2017 đạt 87.19%; 2017 2018 đạt 87.74%). Điều đó chứng tỏ các NT đã quan tâm và

có những biện pháp GD hiệu quả nên phần lớn HS có ý
thức tích cực, tự giác học tập; rèn luyện tu dưỡng, chấp
hành tốt kỷ cương, nền nếp của NT. Tỷ lệ HS xếp loại TB
dao động từ 14,5% xuống 13,8% và 13,3%. Tỷ lệ HS xếp


loại yếu giảm dần ở mức 0,6% - 0,5% trong các năm học
2015 – 2016 và 2016 – 2017 và năm học 2017 – 2018
xuống còn 0,4%. Mặc dù vậy, tỉ lệ tăng đó cịn từ mặt trái
của bệnh thành tích, xu hướng dùng học bạ để xét tuyền
ĐH và Du học cho HS. Ngồi ra, vẫn cịn một một số HS
chưa có ý thức tu dưỡng đạo đức, vi phạm nội quy nền nếp
của NT; còn ham chơi, lười học, khơng có ước mơ, hồi bão
và lí tưởng sống nên khơng có động lực từ đó khơng xác
định được mục đích học tập. Mặt khác, số lượng HS xếp hạnh
kiểm yếu tuy đã giảm liên tiếp trong 3 năm học nhưng chưa
giảm sâu theo kì vọng; chứng tỏ rằng dù các NT đã có những
biện pháp QL và GD tích cực đối với nhóm HS trung bình yếu nhưng chưa quyết liệt và đồng bộ.
Kết quả xếp loại học lực cho thấy trong 3 năm học từ
2015 – 2016 đến 2017 - 2018 liên tiếp tỉ lệ HS xếp loại học
lực khá, giỏi có đều có sự tăng lên; tỉ lệ HS xếp loại học lực
yếu, TB giảm rõ rệt mặc dù sự biến động tăng giảm không
đều giữa các trường. Tuy nhiên, bên cạch các dấu hiệu tích
cực về chất lượng được nâng lên qua các con số thông kê,
cũng cần xét đến các tác động tiêu cực từ xu hướng điểm
ảo, thành tích ảo gia tăng, khơng thực sự phản ánh bản
chất của vấn đề (hệ lụy, tác động tiêu cực của bệnh thành
tích trong GD cùng với mặt trái của việc sử dụng ĐTB môn
trong xét tốt nghiệp, xét tuyển vào một số trường Cao đẳng,



Đại học, Du hoc và học lực giỏi là điều kiện cần để xét
tuyển vào các trường Sư phạm, ĐH Y Hà Nội…). Do đó các
NT, các GV bộ mơn có xu hướng “cởi mở” hơn khi cho
điểm và đánh giá HS nhưng không lường hết được các hậu
quả tiêu cực; tương tác, phản ứng ngược ảnh hưởng đến
chất lượng thực sự, ý thức học tập của HS, đặc biệt là sự
phát triển bền vững mà các nhà QL tầm vĩ mơ phải tính đến
và khơng chỉ riêng các cấp lãnh đạo, QL ở các trường đó
phải đánh giá các tác động và tìm ra các biện pháp khắc
phục.
Tỷ lệ HS đỗ tốt nghiệp THPT của các trường trong 2
năm học 2015 – 2016, 2016 – 2017 luôn nằm trong mặt
bằng chung của của tỉnh. Đến năm học 2017 – 2018 thì tỉ
lệ HS đỗ tốt nghiệp của các trường đạt mức TB 99,51%
cao hơn mặt bằng chung của tỉnh và toàn quốc. Tuy nhiên,
tỉ lệ thống kê trên cũng cho thấy sự thiếu đồng đều, không
ổn định giữa các trường và các năm đồng thời cũng cần
xem xét chiều sâu, bản chất của các vấn đề không thuần
túy từ các con số thống kế bởi những tác động ngoại cảnh,
khách quan như đã phân tích, bởi sự thay đổi liên tục từ
chủ trương tới quy chế thi THPT Quốc gia những năm qua
cũng như những các xu hướng, các tác động từ các yếu tố
KT - XH.


Tỷ lệ HSG của các trường TB đạt 20% năm 2015 –
2016 và 24 % năm 2016 – 2017 và 19% năm 2017 – 2018.
Năm học 2016 – 2017 có sự gia tăng đặc biệt chứng tỏ tỉ lệ
HSG của các trường khảo sát có sự tăng giảm khơng ổn

định, phụ thuộc nhiều vào “lứa HS” (“mất mùa đổ tại thiên
tai” là không được do thiếu chủ động và khả năng ứng
phóhạn chế) và “ê kíp GV” được phân cơng - đội ngũ
khơng đồng đều về chất lượng. Điều đó cho thấy cần có
nghiên cứu sâu hơn, khẩn thiết hơn để tìm ra nguyên nhân
căn bản, cốt lõi, gốc rễ của các vấn đề từ đó đưa giải pháp
phù hợp, chỉ đạo quyết liệt để chất lượng duy trì ổn định và
phát triển theo chiều hướng tích cực hơn và đó cũng là
nhiệm vụ cần đặt ra với Hiệu trưởng cùng tập thể lãnh đạo
NT.
Đánh giá chung, chất lượng HSG và đại trà được nâng
lên nhưng chưa thực sự ổn định và đồng đều giữa các
trường; tỷ lệ HS tốt nghiệp đạt 99,51%, HS đỗ vào các
trường ĐH với tỉ lệ rất cao (có nguyên nhân khách quan từ
nguồn tuyển dồi dào bởi quá nhiều các trường ĐH), năm
nào cũng có ĐH đạt Á khoa, Thủ khoa ĐH. Chất lượng các
mặt GD của các trường được khảo sát cơ bản vẫn đảm bảo
dù vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Cách QL còn
khá thu động theo kinh nghiệm chủ nghĩa, ít thay đổi, ngại
thay đổi, ngại đối mặt với các thách thức để tìm ra các giải


pháp căn cơ mang tính đột phá, tạo những chuyển biến tích
cực; Cách QL, cách dạy và học cịn thụ động, mang nhiều
“hơi hướng an toàn”, phục vụ chủ yếu cho thi cử và thành
tích, xu hướng đi học nghề…. để đảm bảo các mục tiêu
ngắn hạn trước mắt; chưa sẵn sàng đón nhận, tham gia một
cách tích cực, chủ động vào việc “dám” thay đổi các nội
dung, PPDH vẫn cịn khá phổ biến.
Qua đó, nhận thức của CBQL và GV về các u cầu

của tình hình mới phải tồn diện và sâu sắc hơn; trong đó
nhất định phải thay đổi phương thức lãnh đạo, cung cách
quản lí, đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực
phải ngày càng tốt hơn; ý thức học tập của HS phải tốt hơn,
miễn nhiễm trước các tác động xấu. Hơn hết, cần đảm bảo
các mục tiêu chiến lược lâu dài, phát triển bền vững dựa
trên nền tảng xuất phát từ nhu cầu thực sự của HS, xu
hướng chung của đất nước, của thế giới để định hướng phát
triển năng lực, phẩm chất HS. Hướng tới chất lượng thật,
hiệu quả thật và “nhu cầu của HS phải có thật”. Các
trường đã đạt chuẩn Quốc gia và sắp đạt chuẩn Quốc gia
phải thực sự “chuẩn về chất lượng”; lấy chất lượng là mục
tiêu, điều kiện tiên quyết để hướng tới đồng thời các cơ
quan QL cấp trên cần coi chất lượng làm tiêu chí cốt yếu để
xét duyệt, khơng như trước đó cịn mang nặng các thủ tục,
yếu tố hình thức (chủ yếu là tiêu chí CSVC và “hồ sơ đẹp”).


Giới thiệu khái quát về khảo sát thực trạng
+) Mục tiêu khảo sát: Khảo sát làm rõ thực trạng
QLDH môn Toán “theo định hướng phát triển năng lực” ở
các trường THPT huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Tìm
hiểu nguyên nhân để rút ra kết luận, làm căn cứ, là logic KH
để đề xuất các biện pháp QL sao cho phù hợp, khả thi, hiệu
quả; góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT
+) Đối tượng và địa bàn khảo sát: Để tiến hành khảo
sát, các biểu bảng bao gồm số liệu, nội dung liên quan được
tỏa rộng, xoay quanh các số liệu về “nhân tố con người”
như sau:
Số lượng đối tượng khảo sát

T

Trường

T
THPT
01 Kim Thành
02 Kim Thành 2
03
Đồng Gia
Tổng số (36)

BGH Tổ trưởng, Tổ phó CM, VP GV dạy mơn Tốn
3
3
2
8

3
3
3
9

13
7
5
25

+) Nội dung khảo sát: Phân tích các văn bản về QL của các nhà
trường; trọng tâm khảo sát, nghiên cứu các văn bản về QLDH mơn Tốn

theo định hướng phát triển năng lực. Tìm hiểu các quan điểm, nhận thức
của các cấp QL, GV và NV các NT; những tồn tại, bất cập trong QLDH
mơn Tốn.
Căn cứ phần lý luận đã trình bày ở Chương 1 và các kết quả nghiên
cứu ở Chương 2 để đánh giá chính xác và đầy đủ thực trạng, những việc đã
làm được, chưa làm được, những thuận lợi và khó khăn cần vượt qua để


xây dựng các biện pháp tạo sự chuyển biến toàn diện, nâng cao chất lượng
QL.
+) Phương pháp khảo sát: Quan sát, phỏng vấn, thống kê để tìm
hiểu, đánh giá đúng thực trạng; thiết kế mẫu phiếu trưng cầu ý kiến đối
với các CBQL, GV của các trường cần khảo sát, theo quy ước về điểm
số như sau:
1 điểm
Chưa bao giờ
Không cần thiết
Khơng khả thi
Khơng quan trọng
Yếu

2 điểm
Thỉnh thoảng
Ít cần thiết
Ít khả thi
Ít quan trọng
Trung bình

3 điểm
Thường xun

Cần thiết
Khả thi
Quan trọng
Khá

4 điểm
Rất thường xuyên
Rất cần thiết
Rất khả thi
Rất quan trọng
Tốt

+ Cách đánh giá: Quá trình xử lý kết quả từ các phiếu trưng cầu
dựa vào PP Toán thống kê để định lượng, định tính kết quả nghiên cứu
theo theo điểm ở các câu hỏi với 4 mức độ trả lời như sau:
- Mức độ 1: “Tốt; Rất thường xuyên; Rất cần thiết; Rất hiệu quả,

Rất quan trọng”:

3,50 ≤ X ≤ 4,00

- Mức độ 2: “Khá ; Thường xuyên; Cần thiết; Hiệu quả; Quan

trọng”:

2,50 ≤ X ≤ 3,49

.

- Mức độ 3: “Trung bình; Thỉnh thoảng; Ít cần thiết; Ít hiệu quả;


Ít quan trọng”:

2,00 ≤ X ≤ 2,49

.

- Mức độ 4: “Yếu; Chưa bao giờ; Không cần thiết; Không thường

xuyên; Không hiệu quả; Không quan trọng”:
+ Ý nghĩa sử dụng

X

1,00 ≤ X ≤ 1,99

.

: ĐTB trong thống kê biểu hiện mức độ


“đại diện” của “tổng thể đồng chất bao gồm nhiều đơn vị cùng loại”.
ĐTB phản ánh mức độ của hiện tượng, qua đó có thể so sánh 2 hoặc tổng
thể hiện tượng nghiên cứu cùng bản chất, cùng quy mô.
k

X=

Trong đó,


X

∑X K
i

i=n

i

n

: ĐTB;Xi: Điểm ở mức độ i; Ki: Số người tham gia

đánh giá ở mức độ Xi; n: Số người tham gia đánh giá.
2.2. Thực trạng dạy học môn Toán trong các trường THPT huyện
Kim Thành, tỉnh Hải Dương
Trước hết, cần đánh giá đội ngũ CB, giáo viên Toán và kết quả học
tập của HS làm cơ sở nghiên cứu các thực trạng DH mơn Tốn.
- Bảng số liệu khảo sát 2.7 cho thấy: Trong số 36 CB, GV được
thăm dò khảo sát ở 03 trường THPT trên địa bàn huyện có 8 đồng chí là
CBQL đã và đang trực tiếp giảng dạy, 9 đồng chí là Tổ trưởng – Tổ phó
và 25 GV Tốn; trong đó có 10 giáo viên đạt trình độ trên chuẩn. Nghịch
lí là GV có bằng cấp cao hơn tập trung ở hai trường nhỏ, chất lượng
thấp; trong khi các GV có năng lực CM cao, có bề dày thành tích tập
trung chủ yếu ở trường THPT Kim Thành nhưng bằng cấp đa số chỉ đạt
chuẩn Đại học; đó cũng là mâu thuẫn cần tìm hiểu và làm rõ: Có sự
khơng tương thích giữa bằng cấp với năng lực thực sự và các kĩ năng sư
phạm? Các nguyên nhân đến từ yếu tố bên trong bao gồm: Từ lãnh đạo ở
các trường đó đã thực sự quan tâm, đã có những giải pháp phát huy
nguồn nhân lực chất lượng cao hiện có, đã tạo môi trường tốt để cạnh

tranh đầu vào HS, về cơ chế chính sách và các điều kiện khác chưa hay
từ ngun nhân chủ quan của chính các GV đó? Từ các yếu tố bên ngoài:
Chất lượng đào tạo, cơ chế chính sách?.


Chất lượng dạy học mơn Tốn năm học 2017-2018
T
T

1

2

3

Trườn

Số

g

lượn

THPT
Kim
Thành
Kim
Thành
II
Đồng

Gia

Tổng cộng

g

1344

1060

705
3109

Giỏi

SL

%

40

29.

3

9

Học lực
TB


Khá

S

SL

%

670

49.6

17

15

400

37.7

40

7
68

18

300

42.6


35

62.

137

129.

9

9

0

9

15
9
12

L

Yếu

%
1.
3
3.
8

4.
9

92 10

Kém

S

SL

%

30

2.2

0

75

7.1

6

30

4.3

5


13

13.

5

6

L

11

%
0
0.
6
0.
7
1.
3

Từ bảng thống kê có thể nhận xét rằng kết quả DH mơn Tốn yếu,
kém chủ yếu ở các trường THPT Đồng Gia và THPT Kim Thành II,
nhưng thi đỗ tốt nghiệp vẫn rất cao (có năm đạt 100%), rất mâu thuẫn
với số liệu thống kê từ Phòng Khảo thí & Kiểm định chất lượng thì tỉ lệ
điểm Tốn dưới TB và “liệt” (dưới 2 điểm) cao hơn so với điểm tổng
kết.Vấn đề đặt ra:
Một là, việc KTĐG trong nội bộ các trường đã thực sự nghiêm túc
đi vào thực chất, bám sát các yêu cầu đổi mới?

Hai là, việc DH dù đã có những kết quả đáng khích lệ nhưng chưa
thực sự chất lượng và hướng tới phát triển năng lực và các nhu cầu của
HS?
Ba là, việc tổ chức thi THPT Quốc gia đã thực sự nghiêm túc bởi
yếu tố gộp “2 trong 1” chi phối (có sự mâu thuẫn khó hịa hợp trong một
bài thi vừa đảm bảo mục tiêu xét tốt nghiệp vừa chọn nhân tài, người có
đủ năng lực để học tiếp bậc cao hơn). Qua đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến


ý thức, nỗ lực học tập của học sinh và việc quản lí, triển khai nhiệm vụ
dạy học của CB, GV các trường THPT trong huyện
Bốn là, đối chiếu kết quả học tập với các mội môn khác cũng cho
thêm nhận định: Mơn Tốn là một mơn học mà học sinh gặp rất nhiều khó
khăn trong q trình học tập ở cấp trung học phổ thơng do độ khó, trừu
tượng; đỏi hỏi học sinh phải có tố chất nhất định (dù chỉ với mức thấp nhất
là yêu cầu cho giáo dục đại trà hay thi học sinh giỏi các cấp, xét tuyển vào
Đại học và Cao đẳng thì mơn Tốn có điểm trung bình mơn ln thấp hơn
các mơn học khác).
Như vậy, với cùng với các yếu tố bên ngoài từ cơ chế, chính sách
và các thách thức, cùng các điều kiện về đội ngũ và thực trạng chất
lượng dạy và học mơn Tốn hiện nay mới chỉ cơ bản đáp ứng ở mức độ
nhất định, chưa tương xứng với tiềm năng và truyền thống. CB,GV cần
nhiều nỗ lực và quyết tâm cao hơn để tìm ra các giải pháp vượt qua,
hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu GD của ngành, của địa phương và
bản thân mơn Tốn.
Thực trạng nhận thức và công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
nhằm nâng cao nhận thức và năng lực của cán bộ quản lí, giáo viên
về dạy học mơn Tốn theo định hướng phát triển năng lực
a) Thực trạng nhận thức của CBQL, GV về DH theo định hướng
phát triển năng lực

Qua tìm hiểu thực trạng, có thể nhận định rằng: Nhận thức của đội
ngũ CBQL và GV mơn Tốn về DH theo định hướng phát triển năng lực
của HS là chưa thực sự sâu sắc, còn mơ hồ và hiểu lầm, ngộ nhận. Việc
đổi mới PP cịn chậm, mang tính đối phó, thiếu niềm tin và chưa an
tâm…
- Nguyên nhân khách quan:


+ Sự thay đổi liên tục, thiếu ổn định, rất mơ hồ giữa đổi mới thuần
túy chỉ là làm khác đi với khơng ít vấn đề thay vì chú tâm đến bản chất,
các vấn đề cốt lõi để làm cho tốt hơn. Các chủ trương lớn cùng các chính
sách vĩ mô về Đổi mới GD & ĐT chưa thực sự đảm bảo (từ triết lí GD,
ngun tắc tồn diện rút ra từ nguyên lí phổ biến trong Triết học như
tính khả thi, tính thực tiễn, chưa tính đến đặc điểm văn hóa lịch sử, điều
kiện KT – XH của nước ta khơng hồn tồn giống ở các nước mơ hình);
ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin, dẫn đến thái độ đón nhận chưa tích
cực, khiến dư luận nói chung cịn băn khoăn, chưa thực sự đồng thuận.
Một trong số các dẫn chứng cụ thể:
Thứ nhất, chương trình, nội dung cịn nặng nề, ôm đồm kiến thức,
HS phải học quá nhiều thứ (Tiềm năng con người là vô hạn nhưng sức
khỏe, thời gian, và các điều kiện khác là có hạn. Các em phải học quá
nhiều thứ, quá nhiều môn đồng thời nhưng khơng tính đến nhu cầu của
người học, nếu khơng có nhu cầu sẽ khơng biến thành động lực, khi
khơng có động lực thì việc học là gượng ép, nhồi nhét không hiệu quả.
Lẽ ra các em không phải học, chưa phải học q nhiều mơn hoặc dễ q
có thể tự học, hoặc sau này tự biết mà không phải trả giá đắt, hoặc
những kiến thức đó, những mơn học đó sẽ học sau nếu có nhu cầu mà
khơng ảnh hưởng lớn). Gây lãng phí các nguồn lực, thậm chí các em HS
bị quá tải, stress… ảnh hưởng đến sự phát triển tự nhiên về thể chất và
hình thành nhân cách (dễ cáu gắt, bực bội, khơng kìm chế được cảm xúc

bởi áp lực “núi bài học”, “núi công việc”…).
Thứ hai, khơng khó để nhận thấy: Mơn GDCD là vô cùng quan
trọng, “ai cũng cần” (Ngoại ngữ rất quan trọng nhưng chỉ thực sự cần
cho một bộ phận nhất định). Đặc biệt, cộng với nhiều sự vụ về bạo lực
học đường, về đạo đức XH, trật tự an toàn của người dân, xét nhiều mặt
có thể khẳng định rằng GDCD cịn quan trọng hơn cả Văn hay Tốn


nhưng chưa được đánh giá đúng, đầu tư đúng và đặt đúng vị trí, thậm chí
trong Chương trình GD tổng thể chưa được coi là 1 trong 5 môn học bắt
buộc. Mặt khác, nội dung môn GDCD hàn lâm như triết học… ở lứa tuổi
này là chưa thực sự phù hợp, HS cần được ưu tiên dạy về đạo đức, hành
vi, kĩ năng sống hơn. Khi HS ngoan, biết suy nghĩ sẽ tự điều chỉnh hành
vi, tiết chế các cảm xúc, có ý chí nghị lực vươn lên sẽ giảm thiểu các hậu
quả xấu như bạo lực, hành vi ứng xử; từ đó HS có ý thức tự giác học tập,
thậm trí có thể tự học và học tốt hơn được hầu hết các mơn trong đó có
Tốn.
Thứ ba, với những bất cập đó, nhiều khi các GV dạy Tốn vẫn
“phải làm quá nhiều nhiệm vụ của thầy cô bộ môn GDCD” trong tiết
học, gây ảnh hưởng không nhỏ đến thời lượng và chất lượng tiết học
Tốn đó. Do vậy, nếu hiểu theo nghĩa tích cực và suy rộng, các cấp lãnh
đạo cần phải thực sự quan tâm tới triết lí: “ngoan thì gì cũng có” trong
xây dựng cơ chế chính sách và thiết kế chương trình tổng thể.
+ Ngồi ra, hình thức và nội dung KT, ĐG hiện nay chưa thật sự
phù hợp, đồng bộ với tinh thần đổi mới. Điều này khiến thầy cô phải dạy,
HS phải học theo cách “thực dụng” để đạt được mục tiêu cần thiết nhưng
trước mắt, đó là cần có điểm thi cao để đỗ vào Đại học, đỗ vào trường
“danh giá” mà “hy sinh” chủ trương lớn: “Phát triển năng lực, phẩm
chất người học” rất cần thiết cho mục tiêu dài hạn.
- Nguyên nhân chủ quan: Công tác TCCB: “phát hiện bồi dưỡng,

quy hoạch, bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng”. Các HT thường
chỉ tập trung chỉ đạo QLDH sao cho ổn định, các hoạt động diễn ra an
toàn; chưa thực sự chú trọng đến chỉ đạo đổi mới PPDH, hình thức tổ
chức DH theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Các GV cịn
nặng thói quen “Thầy giảng, trò nghe và ghi nhớ”, coi đây là giải pháp
an tồn mang tính đối phó với việc chương trình q nặng, ôm đồm


nhiều môn, nhiều nội dung bắt buộc…như đã nêu ở trên (để trong một
khoảng thời gian ngắn nhất có thể học và làm được điểm cao nhất cho
mục tiêu đỗ đạt trước mắt). Ngồi ra, các GV cịn có thói quen cố hữu,
ngại thay đổi, thiếu sáng tạo nên ít sử dụng các PPDH hiện đại. HS
thường tiếp thu thụ động, ít tự tìm tịi, nghiên cứu, thậm chí chưa ngoan,
ý thức hạn chế, thiếu ước mơ hoài bão, ý chí vươn lên. Đa số HS vẫn
“mang nặng tâm lí học để đối phó với các kỳ thi”.
b) Thực trạng cơng tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức,
trình độ cho CBQL, GV về DH mơn Tốn theo định hướng phát triển
năng lực
Các trường THPT trong huyện đã quan tâm tới công tác tuyên
truyền, bồi dưỡng, đạo tạo nằm nâng cao nhận thức và trình độ CM,
nghiệp vụ cho CB, GV thậm chí cả các NV thiết bị, phục vụ về các chủ
trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước như Nghị quyết 29, của
BCH TW Đảng khóa XI , đặc biệt nhấn mạnh về “định hướng phát triển
năng lực”; các thông tư, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ, của Sở và
riêng của từng NT nhằm giúp CB, GV cập nhật các quy định mới, các
kiến thức, PP mới, xu thế mới.
Tuy nhiên, chất lượng bồi dưỡng CM, nghiệp vụ nhằm nâng cao
nhận thức, trình độ hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Các lớp bồi
dưỡng cịn nặng về hành chính, ngắn về thời gian và hình thức, ít cuốn
hút được người học. Một bộ phận GV cốt cán được cử đi học nhận thức

chưa sâu sắc, đón nhận và tiếp thu kiến thức chưa tích cực do những
nguyên nhân khách quan về chủ quan đã nêu ở trên. Sau đó triển khai
phổ biến cho các GV trong Tổ CM chưa đầy đủ, hình thức, đối phó hành
chính. Khơng ít GV hiện nay cịn yếu về năng lực CM, nghiệp vụ; ý thức
chính trị, trách nhiệm với công việc; ý thức tự rèn luyện, phấn đấu, ham


học hỏi. Vì vậy việc nâng cao nhận thức; năng lực CM cho GV là yêu
cầu cần thiết cho các giải pháp mang tính cấp bách hiện nay.
Thực trạng thực hiện mục tiêu dạy học mơn Tốn theo định hướng
phát triển năng lực
Để đánh giá được thực trạng thực hiện mục tiêu nêu trên, ta sẽ
nghiên cứu và xem xét trên bảng số liệu sau:
Thực trạng thực hiện mục tiêu DH mơn Tốn theo định hướng phát
triển năng lực
X

Mức độ thực hiện
T
T

Mục tiêu dạy học

Hình thành và phát triển nhân
cách
Phát triển trí tuệ, các năng lực
2 chung, các năng lực chuyên
biệt
Chuẩn kiến thức: Mức cơ bản,
biết, hiểu, vận dụng từng mức

độ lần lượt từ thấp đến cao,
3 phân tích, tổng hợp, so sánh…
trong Tốn học, tích hợp mơn
học và ứng dụng trong cuộc
sống
Chuẩn kĩ năng: Về ngơn ngữ,
thuật ngữ tốn học chính xác;
tính tốn, sử dụng bảng thơng
4 minh, máy tính, biến đổi,
chứng minh, ứng dụng Tích
phân để tính diện tích, thể tích,
dựng vẽ hình…
1

Khơng Ít cần
cần
thiết
thiết
S
SL %
%
L

Th

bậc

Cần Rất cần
thiết thiết
S

% SL %
L

3

12 7 28 10 40 5

20 2.68

3

5

20 5 20 9 36 6

24 2.64

4

3

12 3 12 12 48 7

28 2.92

1

4

16 4 16 11 44 6


24 2.76

2


X

Mức độ thực hiện
T
T

Mục tiêu dạy học

Khơng Ít cần
cần
thiết
thiết
S
SL %
%
L

Th

bậc

Cần Rất cần
thiết thiết
S

% SL %
L

Rèn luyện khả năng suy luận
Toán học, phát triển tư duy
5 lôgic – trừu tượng, lập luận 3
chặt sẽ, sâu sắc; khả năng
quan sát, dự đoán, phát hiện…

12 8 32 11 44 3

12 2.56

5

6 Bồi dưỡng các phẩm chất

16 7 28 11 44 3

12 2.52

6

4

Từ kết quả khảo sát trên: Nội dung “Chuẩn kiến thức: Mức cơ bản,
biết, hiểu, vận dụng từng mức độ lần lượt từ thấp đến cao, phân tích, tổng
hợp, so sánh…trong Tốn học, tích hợp mơn học và ứng dụng trong cuộc
sống” có


X

=2.92 và “Chuẩn kĩ năng: Về ngơn ngữ, thuật ngữ tốn học

chính xác; tính tốn, sử dụng bảng thơng minh, máy tính; biến đổi, chứng
minh, ứng dụng Tích phân để tính diện tích, thể tích, dựng vẽ hình…” với
ĐTB

X

=2.76. Rất tiếc, mục tiêu “Bồi dưỡng các phẩm chất” không được

đánh giá tương xứng.
Từ kết quả khảo sát và qua tìm hiểu: Cơ bản các giáo viên đã đánh
giá đúng giá trị của DH mơn Tốn theo “định hướng phát triển năng
lực”. Tuy nhiên, cịn khơng ít GV vẫn chưa nhận thức sâu sắc nên chưa
tổ chức DH và các hoạt động GD bổ trợ để hướng tới và đảm bảo đầy đủ
các mục tiêu đổi mới DH mơn Tốn thơng qua các phiếu “khơng cần
thiết và ít cần thiết” bị lựa chọn cịn khá nhiều.
Ngun nhân có thể việc đổi mới GD & ĐT theo định hướng phát


triển năng lực chưa lâu, sự thấm sâu và sức lan tỏa còn hạn chế. Nhiều
GV chưa nhận thức đầy đủ và ngại thay đổi, ít cập nhật các kiến thức
CM nghiệp vụ để có nhìn nhận và triển khai tích cực hơn. Lãnh đạo các
NT cũng chưa thực sự sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo; do đó cần tăng
cường hơn nữa trong quán triệt, tuyên truyền để thay đổi nếp nghĩ, cách
làm còn cố hữu lâu nay.
Thực trạng thực hiện nội dung dạy học mơn Tốn theo định hướng
phát triển năng lực

Đổi mới việc thực hiện nội dung chương trình giảng dạy là vơ
cùng cần thiết nhằm đảm bảo yêu cầu truyền dạy các chuẩn kiến thức, kĩ
năng, kiến thức phương pháp... cho HS theo các văn bản, quy định,
hướng dẫn của Bộ và Sở GD & ĐT Hải Dương. Kết quả thực hiện được
đánh giá như sau:
Thực trạng thực hiện nội dung dạy học mơn Tốn
Mức độ thực hiện
T
T

1

2

Nội dung

Yếu

Trun Khá
Tốt
g
bình
S
S
S
S
%
%
%
%

L
L
L
L

Đảm bảo cơ bản theo
chuẩn kiến thức, kĩ năn;
tinh giản, thiết thực và 10 40
theo kịp với sự phát triển
của KH - CN, KT - XH,...
Giảm nhẹ các kiến thức
hàn lâm, kinh viện, trừu
tượng, không quá quan
trọng sự tuyệt đối, KH, an
9 36
tồn, trong q trình hình
thành khái niệm mới, để
đảm bảo tính SP (dễ hiểu,
dễ nhớ,…)

X

Th

bậc

8 32

5


2
0

2

8

1.9
6

4

7 28

6

2
4

3

1
2

2.1
2

3



3

4

5

Tăng ứng dụng, thực
hành, tái hiện kiến thức
thông qua sử dụng TBDH, 9 36
mơ hình trực quan và các
hoạt động trải nghiệm.
Đảm bảo phù hợp với khả
năng tiếp thu, nhận thức
của từng đối tượng, hiệu
quả. Có sự hài hịa giữa 6 24
giảm tải với tích hợp và
phát triển, sáng tạo các
kiến thức mới.
Kiến thức phải nền tảng để
hình thành và phát triển
11 44
năng lực, không coi thường
kiến thức

6 24

7

2
8


3

1
2

2.1
6

2

8 32

7

2
8

4

1
6

2.3
6

1

7 28


5

2
0

2

8

1.9
2

5

Qua các kết quả khảo trên có thể đánh giá rằng: Nội dung “Đảm
bảo phù hợp với khả năng tiếp thu, nhận thức của từng đối tượng, hiệu
quả. Có sự hài hịa giữa giảm tải với tích hợp và phát triển, sáng tạo các
kiến thức mới…” với ĐTB

X

X

= 2,36 có thứ bậc cao nhất. Tiếp đến với

= 2,16 là nội dung “Tăng ứng dụng, thực hành, tái hiện kiến thức

thông qua sử dụng thiết bị dạy học, mơ hình trực quan và các hoạt động
trải nghiệm”. Tuy nhiên, nội dung “Kiến thức phải nền tảng để hình
thành và phát triển năng lực, khơng coi thường kiến thức” có thể xếp

cuối khi so sánh, nhưng với số điểm rất thấp như vậy là khơng thể chấp
nhận bởi tính chất quan trọng của “kiến thức”, đây là hiện tượng hiểu
lầm rất phổ biến, hiểu sai và hiều máy móc của khơng ít các GV Toán
trong địa bàn huyện trong suốt thời gian qua về “định hướng năng lực”;
dẫn tới hiện tượng chủ quan, khơng coi trọng giảng dạy kiến thức mà bỏ
sót kiến thức cần thiết dẫn tới thiếu hụt hiến thức nền tảng, căn bản để
để tưởng tượng, suy luận và sáng tạo hình thành, phát triển năng lực HS


(đặc trưng mơn Tốn) làm suy giảm và thiếu ổn định về chất lượng dạy
và học mơn Tốn trên địa bàn huyện trong thời gian qua.
Qua đó cũng cho thấy, các nội dung DH được thực hiện có ưu
điểm là đảm bảo đúng tiến độ, quy định về phân phối chương trình; đã
chú trọng nhất định đến tính thực tiễn và phù hợp với năng lực của từng
đối tượng, dù chưa đáp ứng đầy đủ các kì vọng và mới dừng ở đạt các
nội dung về chuẩn kiến thức kĩ năng. Để đảm bảo mức an toàn cao và
xuất phát từ điều kiện KT-XH cịn khó khăn: Thực tế khó tránh là “học
để thi” cho “nhu cầu trước mắt” (tư tưởng thực dụng bị động - dù bản
thân HS và GV có thể khơng muốn) và rất khó để đồng thời hình thành,
phát triển các năng lực, phẩm chất cho mục tiêu chiến lược dài hạn của
mỗi cá nhân. Do vậy, cách lựa chọn nội dung truyền thụ còn nặng về dạy
kiến thức, không dám lược bỏ nhiều kiến thức hàn lâm, (có nhiều mâu
thuẫn: “Chủ chương là giảm tải”… nhưng “các kiến thức trong đề thi
thì rất nặng, cịn rất khó” và “chủ trương thì cần có trọng tâm, trọng
điểm” nhưng “đề thi và chương trình yêu cầu dàn trải để chống học tủ
học lệch”). Cũng từ nghiên cứu trên, GV Tốn ở các trường trên địa bàn
huyện cịn gặp nhiều khó khăn, cùng các mâu thuẫn đã nêu tạo những
rào cản, cần được chia sẻ và tìm ra biện pháp tháo gỡ để vượt qua trong
việc lựa chọn các nội dung đảm bảo các yêu cầu cho định hướng phát
triển năng lực.

Thực trạng lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học mơn Tốn theo
định hướng phát triển năng lực
Thực trạng sử dụng PPDH mơn Tốn theo định hướng phát triển năng
lực
T
T

Phương pháp DH

Th
X

Mức độ thực hiện


bậc

Chưa Thỉnh Thườn

Rất


bao

thoản

g

giờ


g

xuyên

thườn
g

xuyên
S
S
S
%
% SL %
%
L
L
L
1
2
3

Linh hoạt sử dụng 1 hoặc kết
hợp nhiều PP
Các PPDH hiện đại, sử dụng
nhiều kĩ thuật DH tích cực
Các PP truyền thống.
Linh hoạt sử dụng 1 hoặc kết

4 hợp một số hình thức tổ chức


0

0

7 28 10 40 8 32 2.8

4 16 10 40 10 40 1
0

4

0 5 20 12 48 8 32

5 20 9 36 10 40 1

2.3
2
3.0
4

4 2.3

2
3
1

4

DH


Từ bảng số liệu khảo sát trên, PPDH được GV lựa chọn và sử
dụng nhiều nhất là “Các PP truyền thống” có ĐTB
theo với ĐTB

X

X

đạt 3,04. Tiếp

= 2,8 là PP “Linh hoạt sử dụng một hoặc kết hợp

nhiều PP”. Xếp 2 vị trí cuối với ĐTB lần lượt là 2.32 và 2.3 là “Các
PPDH hiện đại sử dụng nhiều kĩ thuật dạy học tích cực” và “ Linh hoạt
sử dụng 1 hoặc kết hợp một số hình thức tổ chức DH” không được các
GV ưu tiên khi lựa chọn sử dụng.
Có thể khẳng định rằng: Rất khó để tuyệt đối nhất là các vấn đề
mở, nhiều sự lựa chọn nên “khơng có PP nào là tối ưu” phù hợp cho
mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng…, cần phải linh hoạt trong lựa chọn,
kết hợp nhiều PP để tận dụng những ưu thế của PP này bổ trợ cho PP
pháp kia sẽ đem lại giá trị, tính khả thi và đạt hiệu quả cao nhất. Tuy
nhiên, qua số liệu thông kê ở trên và như đã từng phân tích: Khơng ít
các các GV còn ngại thay đổi, chậm đổi mới. Đặc biệt, qua tìm hiểu
từ học sinh và tham vấn từ các CBQL giàu kinh nghiệm, thậm chí cả


những HT đã nghỉ hưu đã khẳng định thêm một thực tế rằng: Khơng
ít GV Tốn khi xưa học lệnh, khơng có kiến thức tồn diện các từ
mơn học khác cũng như những hiểu biết cần thiết về thế giới TN và
XH (quan niệm sai lầm chỉ cần giỏi Toán là đủ) nên rất khó khăn để

có PPDH hiệu quả.
Bên cạnh đó, do “tâm lí học để thi” nên đơi khi không thể phủ
nhận PP truyền thống cũng mang lại hiệu quả nhất định (đảm bảo
trong khoảng thời gian ngắn nhất, nguồn lực đầu tư ít nhất, học HS
được học và được luyện giải nhiều kiến thức để thi nhất. Đặc trưng
của mơn Tốn với lượng kiến thức lớn; kiến thức, ngôn ngữ không
gần gũi với đời thường nên rất trừu tượng và khó hiểu. Nhưng người
dạy có thể khắc phục, sẽ bổ trợ cho nhược điểm “truyền thống” bằng
việc các em HS có thể tự giác suy nghĩ, tự nghiên cứu để tự hiểu
trong thời gian học ở nhà). Vì vậy, đó cũng là lí do chính yếu mà các
GV “n tâm” DH mơn Tốn theo PP truyền thống và đương nhiên sẽ
ảnh hưởng tới phát triển năng lực cho phát triển mỗi cá nhân HS sau
này. Đây cũng mâu thuẫn, là điều các nhà hoạch định cơ chế, chính
sách; xây dựng chương trình phải suy nghĩ tìm sâu nguyên nhân, hạn
chế các tác động bởi các điều kiện KT cùng các vấn đề XH chưa cho
phép và theo kịp các tiến trình đổi mới.
Thực trạng lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học mơn Tốn theo
định hướng phát triển năng lực
Thực trạng sử dụng các PTDH môn Tốn
Mức độ thực hiện
T
T

Phương tiện DH

Trung
Khá Tốt
bình
S
S

S
S
%
%
%
%
L
L
L
L
Yếu

Th
X ứ
bậc


1

2

3

4

5

6

Máy chiếu để giảng bài mơn Tốn

với đèn chiếu Overhead, máy quay
5
chụp truyền trực tiếp lên máy chiếu
và các PTDH khác
Phần mềm hỗ trợ dạy học cho riêng
mơn Tốn, bảng điện tử tương tác 7
thông minh…
Phần mềm hỗ trợ HS học trên lớp và tự
học ở nhà như: “Geometer’s,
6
Sketchpad,
Cabri
Geometry,
Maple,Violet …”
Phần mềm kiểm tra, đánh giá năng
13
lực.
Các máy tính của giáo viên và phịng
học bộ mơn kết nối mạng Internet,
5
mạng nội bộ để bổ trợ cho dạy và
học Toán.
Tổ chức, tự làm và hướng dẫn học
sinh làm đồ dùng dạy học, mơ hình 14
học tập…

20 5 20 5 20 10 40 2.8

1


2.1
2

4

24 9 36 9 36 1 4 2.2

3

52 11 44 1 4 0 0

1.5
2

5

20 7 28 8 32 5 20

2.5
2

2

56 10 40 1 4 0 0

1.4
8

6


28 9 36 8 32 1 4

Từ các số liệu thống kê trên cho thấy: Phương tiện “Máy chiếu để
giảng bài mơn Tốn với đèn chiếu Overhead, máy quay chụp truyền trực
tiếp lên máy chiếu và các phương tiện dạy học khác” có ĐTB
Tiếp theo, với ĐTB

X

X

đạt 2.8.

= 2.52 vấn đề “Các máy tính của giáo viên và

phịng học bộ mơn kết nối mạng Internet, mạng nội bộ để bổ trợ cho dạy và
học Toán.” Xếp vị trí số 2. Ở vị trí thứ 3 với ĐTB

X

= 2.2 , đáng tiếc

“Phần mềm hỗ trợ HS học trên lớp và tự học ở nhà như: Geometer’s
Sketchpad, Cabri Geometry, Maple, Violet... ” các thầy cô giáo đã
không sử dụng nhiều.


Cùng với những thành công bước đầu của công cuộc đổi mới phát
triển đất nước, KT phát triển khởi sắc, sự quan tâm đầu tư của nhà nước,
của địa phương cho sự nghiệp GD và những thành tựu của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0; các điều kiện về cơ sở vật chất và TBDH đã cơ
bản và từng bước hiện đại, đáp ứng các yêu cầu cao hơn cho công tác
dạy và học.
Ứng dụng CNTT là một định hướng đúng, giúp tạo sự sinh động
cho bài học; ứng dụng CNTT làm tăng giá trị thông tin, tương tác nhanh
hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn. Ứng dụng CNTT trong DH giúp GV
không phải dùng sức quá nhiều để “thư thái, bình tâm” hơn sẽ chủ động
và có nhiều điều kiện trong tổ chức, triển khai các hoạt động. HS cũng
chủ động hơn, có nhiều điều kiện để nghe lại để suy nghĩ, phân tích thấu
đáo hơn; đặc biệt: HS có thể lựa chọn các phần mềm, nhà cung cấp dịch
vụ, dự và nghe giảng trực tuyến từ các GV dạy giỏi trên cả nước; có thể
giúp HS học mọi lúc và ở mọi nơi.
Qua bảng số liệu thống kê, đánh giá thực trạng trên: Đa số các GV
đã ý thức, sáng tạo trong việc sử dụng CNTT, phương tiện vật chất để
mang lại hiệu quả cao trong GD. Tuy nhiên, mức độ thực hiện đánh giá
chung còn nhiều hạn chế. Khơng ít GV khai thác cịn mang tính hình
thức, thụ động chỉ dành để “biểu diễn” cho các đợt hội giảng, hội
thi...Nhiều trường không khai thác hiệu quả, chưa tương xứng yêu cầu và
giá trị từ các ứng dụng, gây lãng phí các nguồn lực. Một số GV chưa có
ý thức trau dồi nghiệp vụ, kĩ năng sử dụng CNTT, đáng tiếc hơn với GV
Tốn có nhiều lợi thế để hiểu, để tiếp thu, khai thác sử dụng càng không
thể chấp nhận được. Đó là hạn chế mà các HT cần có những chỉ đạo,
những chế tài đủ mạnh để mỗi cá nhân, mỗi nhà trường phải theo kịp với
sự phát triển, sự thông minh của HS; là cơ hội tốt để tiếp nhận lượng tri


×