Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Bình luận về quyền và trách nhiệm của nhà nước trong quản lý đất đai và thực trạng quản lý của nhà nước thông qua vụ việc cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.28 KB, 28 trang )

Tiểu luận

Đề tài: Bình luận về quyền và trách nhiệm của Nhà nước trong quản
lý đất đai và thực trạng quản lý của nhà nước thông qua vụ việc cụ
thể


DANH MỤC VIẾT TẮT
Trang

A.

B.

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền và trách nhiệm của
Nhà nước trong quản lý đất đai
Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về đất đai

Các nguyên tắc của quản lý nhà nước về đất đai
1.2.1. Công khai minh bạch
1.2.2. Đảm bảo quyền lợi ích của chủ thể sử dụng đất
1.2.3. Đảm bảo yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế

Nội dung về quyền và trách nhiệm của nhà nước về quản lý đất đai


1.3.1.
1..3.2.
Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đất đai
1.4.1. Yếu tố chính trị
1.4.2. Yếu tố nhận thức của đội ngũ quản lý và người sử dụng đất đai
1.4.3. Yếu tố về cơ sở vật chất, kĩ thuật và nghiệp vụ địa chính; đăng ký quyền sử dụng đất,
lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
1.4.4. Yếu tố hội nhập quốc tế

Tiểu kết chương 1
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý của nhà nước về đất đai ở Việt
Nam hiện nay
2.1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai hiện nay thông qua
vụ việc cụ thể
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn các
tỉnh thành phố
Tiểu kết chương 2
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về quyền và trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất đai
3.1. Một số định hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
đất đai


3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và trách
nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất đai
Tiểu kết chương 3
C.

PHẦN KẾT LUẬN
Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu


DANH MỤC VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

TP: Thành phố
SDĐ: Sử dụng đất
KT-XH: Kinh tế - xã hội
UBND: Ủy ban Nhân dân
QLNN: Quản lý Nhà nước
HĐND: Hội đồng Nhân dân
ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
TN&MT: Tài nguyên và môi trường
CNQSDĐ: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CHXHCNVN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Quản lý và sử dụng đất là vấn đề hết sức khó khăn và phức
tạp
đối

với
mọi thời đại. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến
hành
sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần nhiều đất đai
cho
các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, công tác quản lý và sử
dụng
đất
hơn bao giờ hết cần được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất từ
Trung
ương
tới địa phương để quản lý chặt chẽ đất đai, đảm bảo cơng bằng xã
hội,
góp
phần sử dụng đất hiệu quả và bền vững. Nhiệm vụ QLNN về đất
đai của chính quyền trên các tỉnh thành phố là nhiệm vụ hết sức
quan trọng và nặng nề. Đất đai có được phân bổ quản lý sử dụng
đúng mục đích và mang lại lợi ích cho mỗi cá
nhân và cộng đồng, nâng cao giá trị sử dụng hay khơng cịn phụ
thuộc
vào
chất lượng QLNN về đất đai của UBND thành phố. Trọng trách đó
địi
hỏi
chính quyền thành phố phải nắm bắt chính xác nhiệm vụ, quyền
hạn

trách

nhiệm của mình cũng như người SDĐ và đưa ra đặc thù của địa
phương
mình. Quản lý và sử dụng đất là vấn đề hết sức khó khăn và phức
tạp đối với mọi thời đại. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta
đang trong gian đoạn, tiến trình hội nhập hóa kinh tế quốc tế, cần
nhiều đất đai cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy,
cơng tác quản lý và sử dụng đất hơn bao giờ hết cần được thực
hiện nghiêm chỉnh, thống nhất từ cấp Trung ương tới địa phương
để quản lý chặt chẽ đất đai, đảm bảo cơng bằng xã hội, góp phần
sử dụng đất hiệu quả và bền vững. Sau khi Luật đất đai 2013 có


hiệu
lực,
các
nội
dung
về
QLNN
về đất đai đã được thực hiện tương đối đầy đủ, đạt được những
kết
quả
khả
quan. Bên cạnh đó vẫn cịn những tồn tại, hạn chế do đó chưa
đáp
ứng
kịp
thời phục vụ cơng tác quản lý đất đai, do đó, em quyết định lựa
chọn đề tài: “Bình luận về quyền và trách nhiệm của Nhà
nước trong quản lý đất đai và thực trạng quản lý của nhà

nước thông qua vụ việc cụ thể” làm đề tài tiểu luận của mình
lần này.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền và trách nhiệm của Nhà nước
trong quản lý đất đai
1.1. Khái
1.1.1. Khái

niệm và đặc điểm quản lý nhà nước về đất đai
niệm quản lý nhà nước về đất đai
Khái niệm quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy
luật, đạt tới mục đích đã đề ra, đúng ý chí của nhà quản lý
Cịn khái niệm quản lý nhà nước đó là dạng quản lý xã hội mang tính quyền
lực nhà nước được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội
và hành vi hoạt động của cong người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội,
trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Cùng với đó, có người cho rằng đất đai là tài sản quốc gia là tư liệu sản xuất
chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời cũng là sản phẩm lao động. Đất còn là vật
mang của các hệ sinh thái tự nhiên và các hệ sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để
phát triển nền kinh tế quốc dân. Đất đai là loại tài nguyên đặc biệt. Trước hết bởi
đất đai có nguồn gốc tự nhiên, tiếp đến là thành quả do tác động khai phá của con
người. Nếu khơng có nguồn gốc tự nhiên thì con người dù có tài giỏi đến đâu cũng
khơng tự mình tạo ra đất đai được. Con người có thể làm ra các cơng trình và sản
xuất, chế tạo ra mn nghìn thứ hàng hóa, sản phẩm, nhưng khơng ai có thể sáng
tạo ra đất đai. Đất đai là cái có hạn, con người khơng thể làm nó sinh sản
thêm, ngồi diện tích tự nhiên vốn có của trái đất chuyển mục đích sử dụng từ
mục đích này sang mục đích khác. Đất đai có độ màu mỡ tự nhiên, nếu chúng

ta biết sử dụng và cải tạo hợp lý thì đất đai khơng bị thối hóa mà ngược lại
đất đai lại càng tốt hơn.
Đất đai còn là loại hàng hóa đặc biệt. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và
quốc phịng. Độ phì nhiêu của đất sự phân bổ không đồng nhất, đất tốt lên hay
xấu đi, được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp tùy thuộc vào sự QLNN và kế
hoạch, biện pháp khai thác của người quản lý, sử dụng đất. Vì thế, sự ứng xử
với vấn đề đất đai trong hoạt động quản lý không thể được đơn giản hóa, cả
trong nhận thức cũng như trong hành động. Do đó, quyền sở hữu , định đoạt,
sử dụng đất đai, dù Nhà nước hay người dân cũng cần phải hiểu đặc điểm, đặc
thù hết sức đặc biệt ấy .


Cuối cùng, tổng kết từ những khái niệm nêu trên, em có thể rút ra quản lý nhà
nước về đất đai là một lĩnh vực của quản lý nhà nước, là hoạt động của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền trong việc sử dụng các
phương pháp, các cơng cụ quản lý thích hợp tác động đến hành vi, hoạt động của
người sử dụng đất nhằm đạt mục tiêu sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi
trường trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương. Nhà nước nắm chắc tình hình
đất đai để Nhà nước biết rõ các thơng tin chính xác về số lượng đất đai, về chất
lượng đất đai, về tình hình hiện trạng của việc quản lý và sử dụng đất đai. Từ đó,
Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai theo quy hoạch và kế
hoạch chung thống nhất. Nhà nước quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất
đai.
Đồng thời, Nhà nước còn quản lý việc giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; quản lý việc chuyển quyền sử dụng đất;
quản lý việc lập quy hoạch, kế hoạch và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất. Để nắm được quỹ đất, Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản
lý và sử dụng đất đai. Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình phân phối và

sử dụng đất, trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm và bất cập
trong phân phối và sử dụng, Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm,
bất cập đó. Nhà nước cũng thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai để
đảm bảo các lợi ích một cách hài hịa. Hoạt động này được thực hiện thơng
qua các chính sách tài chính về đất đai như: thu tiền sử dụng đất, thu các loại
thuế liên quan đến việc sử dụng đất nhằm điều tiết các nguồn lợi hoặc phần
giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.
1.1.2. Đặc

điểm quản lý nhà nước về đất đai

Thứ nhất, Nhà nước thống nhất QLNN về đất đai từ trung ương đến địa
phương đảm bảo đất đai sử dụng đúng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
nhằm khai thác và SDĐ ổn định, lâu dài thông qua các cơ quan QLNN về đất đai.
Thứ hai, Nhà nước đóng vai trị chính trong việc hình thành chính sách đất
đai và các nguyên tắc của hệ thống QLNN về đất đai, bao gồm pháp luật đất đai
và pháp luật liên quan đến đất đai.
Cuối cùng, Nhà nước quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước: Chính phủ, Hội đồng nhân dân, UBND các cấp trong QLNN về đất đai
trên phạm vi cả nước, cũng như tại địa phương.


1.2.

Các nguyên tắc của quản lý nhà nước về đất đai

Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai là các quy tắc xử sự chung,
những tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ sử
dụng đất phải tuân thủ trong quá trình quản lý và sử dụng. Quản lý nhà nước về đất
đai có các ngun tắc sau:

1.2.1. Cơng

khai minh bạch

Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tài sản chung của tồn dân. Vì
vậy, khơng thể có bất kỳ một cá nhân hay một nhóm người nào chiếm đoạt tài
sản chung thành tài sản riêng của mình được. Chỉ có Nhà nước - chủ thể duy
nhất đại diện hợp pháp cho tồn dân mới có tồn quyền trong việc quyết định số
phận pháp lý của đất đai, thể hiện sự tập trung quyền lực và thống nhất của
Nhà nước trong quản lý nói chung và trong lĩnh vực đất đai nói riêng. Vấn đề
này được quy định tại Điều 54, Hiến pháp 2013 “Nhà nước thống nhất quản
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả” và được cụ thể hơn tại Điều 4, Luật Đất đai
2013 “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, sự tập trung và thống nhất quản lý nhà
nước về đất đai cũng phải đảm bảo tính cơng khai minh bạch bằng việc cơng khai
thông tin đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên cổng thông tin điện tử của
các cơ quan có thẩm quyền quản lý.
1.2.2. Đảm

bảo quyền lợi ích của chủ thể sử dụng đất

Từ khi Hiến pháp 1980 ra đời quyền sở hữu đất đai ở nước ta chỉ nằm
trong tay Nhà nước còn quyền sử dụng đất đai vừa có ở Nhà nước, vừa có ở
trong từng chủ sử dụng cụ thể. Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất đai mà
thực hiện quyền sử dụng đất đai thông qua việc thu thuế, thu tiền sử dụng... từ
những chủ thể trực tiếp sử dụng đất đai. Vì vậy, để sử dụng đất đai có hiệu
quả Nhà nước phải giao đất cho các chủ thể trực tiếp sử dụng và phải quy
định một hành lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích cho người

trực tiếp sử dụng, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Vấn đề này được thể
hiện ở Điều 5, Luật Đất đai 2013: Người sử dụng đất được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng
đất theo quy định của Luật này,…. Như vậy, theo quy định trên, đất


đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sỡ hữu và thống
nhất quản lý sẽ trao quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất (người sử
dụng đất) dưới các hình thức Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai
năm 2013. Muốn đảm bảo kết tốt quyền sở hữu toàn dân và quyền từng người
sử dụng phải có cơ chế kết hợp, trong đó, quyền và trách nhiệm của các bên
(Nhà nước và người sử dụng) phải được cơng nhận và thể chế hóa bằng các văn
bản pháp luật.
1.2.3. Đảm

bảo yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế

Nhà nước ta đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới để đảm bảo
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới nhà nước cần phải có các
nguyên tắc quản lý đất đai đảm bảo yêu cầu kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Xây dựng các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, có tính
khả thi cao. Quản lý và giám sát tốt việc thực hiện các phương án quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất. Có như vậy, quản lý nhà nước về đất đai mới phục vụ
tốt cho chiến lược phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế mà vẫn đạt
được mục đích đề ra. Xuất phát từ vai trị vị trí của đất đai đối với sự sống và phát
triển của xã hội lồi người nói chung, phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói
riêng, mà đất đai địi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Đất đai là tài sản quốc
gia thể hiện quyền lãnh thổ của quốc gia đó. Vì vậy, cần thiết có sự quản lý Nhà
nước về đất đai.

Ngoài các yếu tố trên trong điều kiện hiện nay khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, những yếu tố thị trường, trong đó có sự hình thành và
phát triển của thị trường bất động sản. Đất đai và nhà ở là nhu cầu vật chất thiết
yếu của con người, là những yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành thị trường bất
động sản. Hiện nay, thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển nhanh nhưng còn
mang nhiều yếu tố tự phát, thiếu định hướng, thị trường bất động sản, thị trường
sức lao động chưa có thể chế rõ ràng, phát triển cịn chậm chạp, tự phát, thị
trường vốn và cơng nghệ cịn yếu kém. Do vậy, việc hình thành đồng bộ các loại
thị trường nói chung và hình thành, phát triển thị trường bất động sản nói riêng là
tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Tăng cường năng lực và hiệu quả QLNN
đối với đất đai được bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu
quả tài nguyên đất đáp ứng nhu cầu đời sống của xã hội, do tính định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta quy định.


Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, đất đai có sự thay đổi căn bản về bản
chất kinh tế - xã hội: Từ chỗ là tư liệu sản xuất, là điều kiện sống chuyển sang là tư
liệu sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá, phương diện kinh tế của đất trở
thành yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất đai theo hướng ngày càng nâng
cao hiệu quả. Chính vì vậy, việc quản lý nhà nước về đất đai là hết sức cần thiết
nhằm phát huy những yêu cầu của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và hạn chế
những khuyết tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra cũng làm tăng tính
pháp lý của đất đai.
1.3.

Nội dung về quyền và trách nhiệm của nhà nước về quản lý đất đai

Đất đai là một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có các thuộc
tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đốn được,
có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự

nhiên, kinh tế - xã hội như: thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thuỷ
văn, thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người. Theo quy định
của pháp luật về đất đai thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Trong quá trình thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý về đất đai, thì nhà nước có quyền và trách nhiệm theo quy
định của pháp luật. Trong đó, theo quy định tại Luật Đất đai 2013 thì Nhà nước có
quyền và trách nhiệm đối với đất đai được quy định rất cụ thể.
1.3.1. Quyền

của nhà nước đối với đất đai

Đầu tiên, về quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai bao gồm các quyết
định về quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; quyết định về mục đích sử
dụng đất; các quy định về hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất; một số quyết
định thu hồi đất, trưng dụng đất; các quyết định về giá đất; các quyết định trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất; một số quyết định chính sách tài chính
về đất đai và các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Quyền thứ hai, nhà nước quyết định mục đích sử dụng đất: Nhà nước quyết
định mục đích sử dụng đất thơng qua quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất
và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Thứ ba, nhà nước quy định hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất: Nhà
nước quy định hạn mức sử dụng đất gồm hạn mức giao đất nông nghiệp, hạn mức
giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở và hạn mức nhận chuyển


quyền sử dụng đất nơng nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước quy định thời hạn sử dụng
đất bằng 2 hình thức đó là sử dụng đất ổn định lâu dài và sử dụng đất có thời hạn.
Thứ tư, nhà nước quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất: Nhà nước quyết định
thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: Thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; Thu hồi đất do vi

phạm pháp luật về đất đai; Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; Nhà nước quyết
định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phịng, chống
thiên tai.
Thứ năm, nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất: Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thơng qua các hình thức như: quyết
định giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất hay quyết
định cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê; hoặc công nhận quyền sử dụng đất.
Thứ sáu, nhà nước quyết định giá đất bao gồm 2 quy định về nguyên tắc,
phương pháp định giá đất và ban hành khung giá đất, bảng giá đất và quyết định
giá đất cụ thể.
Thứ bảy, nhà nước quyết định chính sách tài chính về đất đai bao gồm 2 quy
định về quyết định chính sách thu, chi tài chính về đất đai và nhà nước điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại
thơng qua chính sách thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đầu tư cơ sở hạ tầng và
chính sách hỗ trợ cho người có đất thu hồi.
Thứ tám, nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất: Nhà
nước quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất phù hợp với hình thức
giao đất, cho th đất, cơng nhận quyền sử dụng đất, nguồn gốc sử dụng đất và
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất.
Cuối cùng, thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai:Quốc hội ban hành
luật, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc
gia; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong
phạm vi cả nước. Bên cạnh đó Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông
qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt; thông qua bảng giá đất, việc thu hồi đất thực hiện các dự



án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo
thẩm quyền quy định tại Luật Đất đai 2013; giám sát việc thi hành pháp luật về đất
đai tại địa phương. Và Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định tại Luật Đất đai 2013.
1.3.2. Trách

nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất đai

Đất đai là một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có các thuộc
tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đốn được,
có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự
nhiên, kinh tế - xã hội như: thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thuỷ
văn, thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người. Theo Luật đất
đai năm 2013, hệ thống theo dõi và đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất đai là
thành phần của hệ thống thông tin đất đai; được thiết lập thống nhất từ Trung ương
tới địa phương và được công khai trên mạng thông tin quốc gia theo quy định của
pháp luật. Hệ thống theo dõi và đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất đai phải
phản ánh quy mô, chất lượng và hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai; tác động của
chính sách, pháp luật về đất đai; mức độ minh bạch và sự tham gia của nhân dân
vào quá trình quản lý và sử dụng đất đai thông qua các chỉ số định lượng và định
tính. Luật đất đai 2013 quy định Bộ Tài ngun và Mơi trường có trách nhiệm như:
Thứ nhất, thiết kế, xây dựng hệ thống theo dõi và đánh giá đối với quản lý và
sử dụng đất đai; quản lý, tổ chức vận hành hệ thống theo dõi và đánh giá quản lý
và sử dụng đất đai ở Trung ương; hướng dẫn việc quản lý và vận hành hệ thống
theo dõi và đánh giá quản lý và sử dụng đất đai ở địa phương.
Thứ hai, chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện việc đánh giá hàng năm về
quản lý, sử dụng đất đai và tác động của chính sách, pháp luật về đất đai.
Thứ ba, lập báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất theo chuyên đề về quản lý, sử
dụng đất đai và tác động của chính sách, pháp luật về đất đai.
Thứ tư, ban hành tiêu chí, quy trình đánh giá đối với quản lý, sử dụng đất đai

và tác động của chính sách, pháp luật về đất đai; biểu, mẫu báo cáo và trách nhiệm
báo cáo của hệ thống cơ quan tài nguyên và môi trường.
Cuối cùng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo việc xây dựng,
vận hành hệ thống theo dõi và đánh giá đối với quản lý, sử dụng đất đai ở địa
phương.


Nhìn chung, theo quy định của pháp luật về đất đai thì đất đai thuộc sở hữu
tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trong quá trình
thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai, thì nhà nước
có quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp luật, cùng với đó trách nhiệm của
nhà nước trong quản lý về đất đai được biểu hiện rất rõ nét trong hệ thống quản lý
như:
Thứ nhất, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả
nước.
Thứ hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm chính trước Chính
phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
Thứ ba, Bộ cơ quan ngang bộ có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình phải có trách nhiệm giúp Chính phủ trong quản lý nhà nước về đất
đai.
Cuối cùng, ở ủy ban nhân dân các cấp phải có trách nhiệm quản lý nhà nước
về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định của pháp luật hiện hành về
quản lý đất đai.

1.4. Các yếu tố tác động
1.4.1. Yếu tố chính trị

đến quản lý nhà nước về đất đai

Trong xã hội có giai cấp, pháp luật một mặt thể hiện quyền lực của nhà

nước, nhưng mặt khác, cũng là biểu hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp
cầm quyền. Với ý nghĩa chính trị như vậy, pháp luật với những thuộc tính của
mình, đã trở thành cơng cụ quản lý không thể thay thế của giai cấp thống trị
để thực hiện sự thống trị. Trong đó, hình thức và hoạt động áp dụng pháp luật
chính là “hiện thân”, là “cánh tay nối dài” của ý chí nhà nước mà khơng gì
khác hơn là ý chí của giải cấp lãnh đạo xã hội. Dưới chế độ Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ý chí đó được đặt vào sứ mệnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam: “là đội tiên phong của giải cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Theo
đó, mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng được Nhà
nước thể chế hoá, cụ thể hố bằng những quy phạm pháp luật. Do đó, để hoạt động


áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng pháp luật trong QLNN về đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước nói riêng ln đạt hiệu quả, thì khơng thể khơng nói đến
những điều kiện chính trị nhất định. Nếu tình hình chính trị trong nước thiếu ổn
định; đường lối quan điểm của Đảng về chính sách đất đai thiếu nhất quán, minh
bạch, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xây dựng pháp luật và áp
dụng pháp luật. Hiện nay, các điều kiện chính trị xã hội nước ta như sự bình đẳng
của những người lao động với nhau về mọi mặt; hệ thống chính trị xã hội ngày
càng được củng cố và phát triển, nhất là sự khẳng định, tính nhất quán xuyên suốt
về chính sách đất đai trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng đã
được thể chế hoá vào Hiến pháp và pháp luật là những nhân tố luôn hậu thuẫn tích
cực, bảo đảm hiệu quả cao cho hoạt động áp dụng pháp luật, trong đó có cơng tác
giải quyết tranh chấp đất đai ở các cấp chính quyền địa phương.Đường lối chính
sách của đảng và nhà nước là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến quản lý nhà nước
về đất đai. Nhà nước nào cũng luôn thực hiện quyền cai trị của mình trước hết
bằng pháp luật. Nhà nước dùng pháp luật tác động vào ý chí con người để điều
chỉnh hành vi của con người.

Pháp luật là cơng cụ duy trì trật tự an tồn xã hội trong lĩnh vực đất đai.
Trong hoạt động xã hội, vấn đề đất đai gắn chặt với lợi ích vật chất và tinh
thần của mọi chủ thể sử dụng đất nên vấn đề này dễ nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong các mâu thuẫn đó có những vấn đề phải dùng đến pháp luật mới
xử lý được. Pháp luật là công cụ bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và các nghĩa vụ khác. Trong sử dụng đất đai,
nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng không phải lúc nào nghĩa vụ
đó cũng được thực hiện một cách đầy đủ có rất nhiều trường hợp phải dùng
biện pháp cưỡng chế và bắt buộc thì nghĩa vụ đó mới được thực hiện. Pháp
luật là cơng cụ mà qua đó Nhà nước bảo đảm sự bình đẳng, cơng bằng giữa
những người sử dụng đất. Nhờ những điều khoản bắt buộc, thơng qua các
chính sách miễn giảm, thưởng, phạt cho phép Nhà nước thực hiện được sự
bình đẳng cũng như giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích trong lĩnh vực đất
đai giữa những người sử dụng đất. Pháp luật là công cụ tạo điều kiện cho các
công cụ quản lý khác, các chế độ, chính sách của Nhà nước được thực hiện có
hiệu quả hơn. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCNVN có các cơng
cụ pháp luật liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quản lý đất đai cụ thể như: Hiến
pháp, Luật đất đai, Luật dân sự, các pháp lệnh, các nghị định, các quyết định, các
thông tư, các chỉ thị, các nghị quyết... của Nhà nước, của Chính phủ, của các bộ,


các ngành có liên quan đến đất đai một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và các văn bản
quản lý của các cấp, các ngành ở chính quyền địa phương.Đường lối chính sách
thơng thống việc giao đất cho th đất thực hiện bằng pháp luật thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tạo điều kiện cho hội nhập kinh tế quốc tế và
yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
1.4.2. Yếu

tố nhận thức của đội ngũ quản lý và người sử dụng đất đai


Yếu tố nhận thức pháp luật của đội ngũ quản lý nhà nước về đất đai là
hết sức quan trọng. Sự am hiểu và nhận thức tốt về pháp luật giúp cho việc
quản lý đất đai được tiến hành một cách công khai minh bạch, khách quan
dân chủ đảm bảo quyền con người quyền công dân trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về đất đai làm cho yếu tố nhận thức của
người sử dụng đất ngày càng cao. Yếu tố nhận thức của người sử dụng đất là yếu tố
quan trọng trong việc quản lý nhà nước về đất đai, trong bồi thường hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất, trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
1.4.3.

Yếu tố về cơ sở vật chất, kĩ thuật và nghiệp vụ địa chính; đăng ký quyền sử dụng
đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Cơ sở vật chất, kỹ thuật và nghiệp vụ đại chính là một trong những yếu
tố tác động đến quản lý nhà nước về đất đai. Để nắm được số lượng đất đai,
Nhà nước phải tiến hành điều tra, khảo sát đo đạc để nắm được quỹ đất theo
từng loại đất và từng loại đối tượng sử dụng đất. Bản đồ địa chính là bản đồ
chi tiết phản ánh hiện trạng sử dụng đất trên đó vừa thể hiện các yếu tố kỹ
thuật như hình thể, vị trí diện tích, kích thước các cạnh lại vừa thể hiện các
yếu tố xã hội như: chủ sử dụng đất, mục đích sử dụng đất, tình trạng pháp lý
về quyền sử dụng đối với thửa đất, tình trạng quy hoạch…
Đây có thể coi là nguồn tài liệu gốc quan trọng nhất để từ đó thực hiện các
nhiệm vụ khác của công tác quản lý đất đai, đăng ký quyền sử dụng đất, lập và
quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đăng ký quyền sử dụng đất, xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu
đất đai là việc thiết lập ban đầu và cập nhật biến động hệ thống hồ sơ ở dạng
giấy và dạng số về tồn bộ nguồn lực đất đai, tình hình phân bổ sử dụng đất,
tình trạng pháp lý trong quản lý và sử dụng đất, thông tin về người sử dụng



đất…nhằm phục vụ công tác tra cứu, quản lý, hoạch định chính sách quản lý
nhà nước về đất đai.
1.4.4. Yếu

tố hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm
của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng xuyên suốt của công cuộc
đổi mới. Trong quản lý nhà nước về đất đai hội nhập quốc tế là yếu tố tác
động đến hoạt động này. Hội nhập quốc tế địi hỏi cơng tác quản lý nhà nước
về đất đai của Đảng và nhà nước ta ngày càng công khai, minh bạch tạo sức hút
với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp tăng trưởng kinh tế.
Yếu tố hội nhập quốc tế đòi hỏi cán bộ, cơ quan nhà nước thực hiện công tác quản

nhà nước về đất đai cần phải tích cực hơn trong cơng tác quản lý góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, tiếp thu khoa
học công nghệ mới và kỹ năng quản lý trên nhiều lĩnh vực góp phần tạo cho
nước nhà có đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên
môn lẫn quản lý.
Tiểu kết chương 1
Quản lý nhà nước về đất đai là nhu cầu khách quan là công cụ đề bảo vệ và
điều tiết các lợi ích gắn liền với đắt đai và quan trọng nhất là bảo vệ chế độ sở
hữu về đất đai Nhiệm vụ này cần được đổi mới một cách cụ thể và phù hợp để đáp
ứng yêu cầu quản lý và tương xứng với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn. Nguồn tài nguyên đất đai có hạn. Vì vậy, việc quản lý,
bảo vệ, khai thác và sử dụng phải theo quy hoạch, kế hoạch, đảo bảo hợp lý, tiết
kiệm, hiệu quả và bền vững. Chính sách, pháp luật đất đai đảm bảo đưa đất đai
trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.


Chương 2: Thực trạng công tác quản lý của nhà nước về đất đai ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai hiện nay thông qua vụ việc
cụ thể


Mặc dù, Luật Đất đai đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng pháp luật về
đất đai còn chồng chéo, có những kẽ hở gây lãng phí, thất thốt tài sản của Nhà
nước, làm phát sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực và khiếu kiện. Đất đai là một
tài sản vô giá của các quốc gia, để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
đất đai, Luật đất đai 2013 quy định việc đánh giá quản lý sử dụng đất đai phải được
thực hiện từ Trung ương đến địa phương, đây là một cơng cụ có hiệu quả giúp cơ
quan tài nguyên môi trường các cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước của
mình một cách thiết thực nhất. Nhiệm vụ theo dõi, đánh giá tình hình quản lý, sử
dụng đất đai là nội dung đổi mới của Luật đất đai năm 2013 nhằm đánh giá đúng
tình hình triển khai thi hành luật, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về đất đai,
hiệu quả sử dụng đất và tác động của chính sách, pháp luật đất đai đến kinh tế, xã
hội và môi trường ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, tình
hình quản lý và sử dụng đất đai của nước ta trong những năm gần
đây khá phức tạp, quá trình tổ chức quản lý và sử dụng đất cũng
đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém, nảy sinh nhiều vấn đề mới
nằm ngồi tầm kiểm sốt của nhà nước như: sử dụng đất khơng
đúng mục đích, giao đất trái thẩm quyền, tranh chấp và lấn chiếm
đất đai, quy hoạch sai nguyên tắc, khiếu nại tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai ngày càng nhiều…
Trên thực tế, gần đây xảy ra một vụ việc rất nghiêm trọng liên quan đến công
tác quản lý nhà nước về quản lý đất đai, quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn TP
Phan Thiết (Bình Thuận) từ năm 2016 đến năm 2018 có nhiều sai phạm. Theo Kết
luận, công tác quản lý nhà nước về quản lý đất đai, quản lý trật tự xây dựng trên
địa bàn các xã Tiến Lợi, Phong Nẫm và Thiện Nghiệp có biểu hiện tùy tiện trong

việc lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất hằng năm; không phù hợp với Quy
hoạch sử dụng đất TP Phan Thiết giai đoạn 2011-2020 đã được UBND tỉnh Bình
Thuận phê duyệt, dẫn đến những sai phạm có tính hệ thống. Đây là Kết luận thanh
tra về công tác quản lý nhà nước về quản lý đất đai, quy hoạch đô thị tại địa bàn TP
Phan Thiết đã được Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Nguyễn Ngọc Hai ký tại Văn
bản số 1696/KL-UBND ngày 16-5-2019. Vụ việc diễn ra như sau:
Từ đầu năm 2016 đến tháng 9-2018, UBND TP Phan Thiết đã có quyết định
cho chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nơng nghiệp trồng cây hằng năm, cây lâu
năm sang đất ở nông thôn đối với 139 thửa đất với tổng diện tích 176.815,8 m2
trên địa bàn các xã Tiến Lợi, Thiện Nghiệp và xã Phong Nẫm không đúng quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã được UBND tỉnh Bình Thuận phê duyệt,


làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai. Cố ý, tùy tiện làm trái các
quy định của Nhà nước trong việc xác định khu vực, vị trí thửa đất, mục đích sử
dụng đất trước khi chuyển mục đích khơng đúng thực tế, khơng đúng quy định
(xác định vị trí thửa đất trước khi chuyển mục đích, thay đổi, điều chỉnh thơng tin
bất thường, ln xác định thấp hơn quy định) gây thất thoát cho ngân sách nhà
nước. Qua kiểm tra ngẫu nhiên 65/160 hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính khi thực
hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nơng nghiệp sang đất ở nông thôn
ở ba xã Tiến Lợi, Phong Nẫm, Thiện Nghiệp thì cả 65 hồ sơ Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) TP Phan Thiết ghi thiếu thơng tin vị trí đất nơng
nghiệp trước khi chuyển mục đích, nhưng Chi cục Thuế TP Phan Thiết khơng
chuyển trả lại để Chi nhánh VPĐKĐĐ TP Phan Thiết bổ sung thơng tin theo quy
định, mà vẫn tính tiền sử dụng đất và ra thông báo nộp tiền sử dụng đất. Thấy một
số trường hợp có biểu hiện bất thường, Công an tỉnh kiểm tra phát hiện sai phạm
trong cách tính nộp tiền sử dụng đất. Từ đó, các cơ quan chức năng của TP Phan
Thiết chuyển thông tin và Chi cục Thuế TP Phan Thiết mới tính lại tiền sử dụng
đất. Chỉ tính riêng năm cá nhân trên địa bàn xã Thiện Nghiệp sau khi xác định lại
việc tính tiền sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất ở nơng thơn (tổng diện tích là

65.709,8 m2) thì số tiền chênh lệch phải thu là hơn 5,7 tỷ đồng (nếu việc cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trên là đúng quy định pháp luật).
“Lách luật trong tách thửa đất nông nghiệp” là một trong những chiêu thức
nhằm thu lợi bất chính đã được thực hiện. Theo đó, hầu hết các hộ gia đình, cá
nhân xin tách một thửa đất nơng nghiệp có diện tích lớn nằm gần đường giao
thơng, nằm tiếp giáp đường giao thông thành nhiều thửa đất nông nghiệp để thửa
đất được tách nằm xa đường giao thơng, khơng có đường giao thơng, chỉ có một
thửa đất có diện tích nhỏ nằm giáp đường giao thơng (thửa đất khoảng 1.000 m2
theo quy định được tách thửa đất nơng nghiệp). Sau đó xin chuyển mục đích sử
dụng đất sang đất ở và các thửa đất cho tách ra sẽ nằm xa đường giao thơng, khơng
có đường giao thơng được xác định thửa đất nằm ở vị trí 5, thì nộp tiền chuyển
mục đích sử dụng đất sang đất ở rất ít, thậm chí là khơng đồng. Kiểm tra ngẫu
nhiên 10 hồ sơ hợp thửa, tách thửa, chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Chi
nhánh VPĐKĐĐ TP Phan Thiết thì hầu hết các hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển
nhượng đất từ nhiều người (cả đất ở nông thôn và đất nơng nghiệp), sau đó xin
chuyển một phần diện tích lớn đất nơng nghiệp sang mục đích sử dụng đất ở, phần
diện tích nơng nghiệp cịn lại có đơn xin tặng (hiến) đất làm đường đi chung. Phần


diện tích lớn đã chuyển mục đích sang đất ở thì các hộ gia đình và cá nhân này có
đơn đề nghị hợp thửa đất với lý do “thuận lợi cho việc sử dụng chung”.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận theo các thửa đất được tách thì các đối
tượng này thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) hầu hết. Điển
hình như các trường hợp: bà V.T.L ở xã Phong Nẫm có diện tích 9.215,4 m2 xin
tách thành 92 thửa đất, sau đó đã thực hiện thủ tục CNQSDĐ hết 92 thửa đất. Ông
P.V.Q ở xã Tiến Lợi có diện tích 3.776 m2 tách thành 30 thửa đất, đã thực hiện
CNQSDĐ hết 30 thửa đất. Ơng P.H.T có diện tích 10.860 m2, tách thành 90 thửa
đất, đã CNQSDĐ hết 90 thửa đất. Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Thuận khi
cho tách thửa đất ở nơng thơn, khơng kiểm tra việc UBND TP Phan Thiết cho phép
chuyển mục đích sử dụng từ đất nơng nghiệp sang đất ở nông thôn, nên không phát

hiện việc UBND TP Phan Thiết cho chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nơng
nghiệp sang đất ở nông thôn trái quy định. Điều này dẫn đến tình trạng các hộ gia
đình, cá nhân lợi dụng việc cơ quan có thẩm quyền cho tách thửa đất ở trên diện
tích được chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định; phân lô nền đất, thực hiện
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn (nền đất ở) rất nhiều tại các xã
Thiện Nghiệp, Phong Nẫm, Tiến Lợi. Các cá nhân chuyển nhượng đất ở nộp tiền
sử dụng đất thấp hơn so với quy định, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Đặc
biệt trường hợp ông P.H.T ở phường Đức Long, mặc dù ngày 12-2-2018, UBND
TP Phan Thiết có văn bản xác định vị trí lô đất xin tách thửa của ông này nằm
trong quy hoạch trồng cây công nghiệp, tạm thời chưa cho tách thửa. Nhưng chỉ
sau một ngày (ngày 13-2-2018 ), lãnh đạo Sở TN&MT vẫn ký cho tách 11 thửa đất
ở với diện tích 9.783,5 m2 và đến tháng 3-2018 tiếp tục ký cho tách 90 thửa đất ở
(mỗi thửa 100 m2 trở lên) trên diện tích chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp sang đất ở nông thôn trái quy định, tạo điều kiện giúp sức để ông P.H.T
chuyển nhượng hết các thửa đất ở nông thôn.
Việc UBND TP Phan Thiết cho chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp trồng cây hằng năm, cây lâu năm sang đất ở nông thôn trái với các quy định
pháp luật làm phá vỡ quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn các xã Tiến Lợi, Thiện Nghiệp, Phong Nẫm đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cá nhân lợi dụng việc cơ quan có thẩm
quyền cho tách thửa đất ở trên diện tích được chuyển mục đích sử dụng đất trái quy
định; phân lô bán nền đất, thực hiện việc chuyển nhượng quyển sử dụng đất ở trên
địa bàn các xã Tiến Lợi, Thiện Nghiệp, Phong Nẫm đã tạo điều kiện, giúp sức cho
một số cá nhân tách thửa đất, hợp thửa hình thành điểm dân cư tạo mới, phân lô


bán nền đất thu lợi bất chính số tiền lớn, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước,
gây bức xúc trong dư luận. Từ những sai phạm trên, Chủ tịch UBND tỉnh Bình
Thuận đã yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc sang Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
tỉnh tiếp tục điều tra dấu hiệu về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai; tội lợi

dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ làm trái các quy định trong
xác định vị trí thửa đất khơng đúng quy định (ln xác định vị trí thửa đất thấp hơn
quy định để được tính tiền chuyển mục đích sử dụng đất rất thấp).
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn các tỉnh thành
phố
Một trong những hạn chế còn tồn tại và là thách thức của pháp luật đất
đai hiện nay là quy hoạch sử dụng đất. Thực tiễn cho thấy, nhiều đồ án quy hoạch
hiện nay được lập và thực hiện theo phương pháp lạc hậu, thiếu các công cụ quản
lý quy hoạch hiện đại và toàn diện. Do vậy, không đạt được mục tiêu đã đề ra. Đặc
biệt, chất lượng của nhiều quy hoạch còn thấp, thiếu đồng bộ trong sử dụng đất
cũng như chưa đầy đủ căn cứ pháp lý thể hiện ở việc các quy hoạch phải điều
chỉnh, bổ sung nhiều lần; thiếu tính khả thi, không đảm bảo nguồn lực đất đai để
thực hiện. Việc không đồng nhất các chỉ tiêu thống kê các loại đất dẫn đến việc
đánh giá các chỉ tiêu thực hiện quy hoạch khơng đầy đủ, chính xác. Chỉ tiêu phê
duyệt chưa đảm bảo diện tích đất tối thiểu so với quy chuẩn xây dựng về giao
thông, y tế, giáo dục…
Bên cạnh đó, cơng tác quản lý, kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, thường
xuyên dẫn tới tình trạng vi phạm quy hoạch diễn ra phổ biến nhưng chưa được phát
hiện và xử lý kịp thời, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế, nhất là trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội. Việc lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất chưa thực sự được chú trọng. Tình trạng quy hoạch “treo” còn phổ
biến, cả nước vẫn còn hàng ngàn dự án “treo” chưa được thu hồi.
Một hạn chế còn tồn tại khác, hệ thống chính sách pháp Luật Đất đai tuy đã
được điều chỉnh, bổ sung thường xuyên, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tế. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai nhiều, nhưng thiếu đồng
bộ, thiếu ổn định. Cụ thể: Luật Đấu thầu 2013 quy định về các trường hợp, trình tự,
thủ tục đấu thầu dự án; Luật Đất đai 2013 quy định về các trường hợp đấu giá
quyền sử dụng đất. Tuy vậy, Luật Đất đai và Luật Đấu thầu chưa có quy định thống
nhất về việc trường hợp đã đấu thầu dự án thì có phải đấu giá quyền sử dụng đất
khơng và trường hợp đã đấu giá quyền sử dụng đất thì có phải đấu thầu dự án hay



khơng? Bên cạnh đó, mặc dù, Luật Đất đai quy định việc theo dõi, đánh giá tình
hình quản lý, sử dụng đất, tác động của chính sách, pháp luật đất đai đến kinh tế,
xã hội và môi trường ở từng địa phương phải tiến hành thường xuyên nhưng việc
triển khai chưa đem lại hiệu quả cao. Năm 2015 có 39 tỉnh, thành phố gửi báo cáo;
năm 2016 có 47 tỉnh (trong đó, có 30 tỉnh gửi báo cáo đúng thời hạn, 33 tỉnh nộp
báo cáo đúng quy định, 27 tỉnh có chất lượng báo cáo tương đối đạt yêu cầu). Mặt
khác, hệ thống cơ quan kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về đất đai còn thiếu ổn
định về tổ chức; lực lượng cịn mỏng; năng lực, trình độ chun mơn nghiệp vụ
của một bộ phận cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra còn yếu; trang thiết bị
phục vụ hoạt động phát hiện và xử lý vi phạm còn thiếu; quy định mức xử phạt vi
phạm còn thấp và việc xác định mức xử phạt hành chính theo quy định hiện hành
cịn khó khăn.
Ngồi ra, một số doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển nhượng đất được Nhà
nước cho thuê dưới hình thức góp vốn liên doanh, hợp tác đầu tư bằng giá trị lợi
thế quyền thuê đất, sau đó, thực hiện thối tồn bộ phần vốn góp, thực chất là hình
thức lách luật để chuyển nhượng đất. Hoạt động này cùng với những bất cập, thiếu
minh bạch trong xác định giá trị lợi thế quyền thuê đất khi góp vốn của doanh
nghiệp, xác định giá trị khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất của các địa phương
đã tạo cơ hội để các tổ chức, cá nhân trục lợi, tham nhũng, gây thất thoát vốn, tài
sản Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do hiện nay chưa xây dựng được hệ thống
theo dõi đánh giá và hướng dẫn thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước; việc
đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất đai ở địa phương còn chưa được quan
tâm, chưa tổ chức được bộ máy để triên khai, chưa xây dựng kế hoạch thực hiện,
chưa có được tiêu chí thống nhất, chưa có nội dung đánh giá đầy đủ; vì thế chưa có
được những kết quả đánh giá sát thực với từng địa phương và thống nhất trên cả
nước; ngoài ra hệ thống cơ quan kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về đất đai còn
thiếu ổn định về tổ chức; lực lượng còn mỏng; năng lực, trình độ chun mơn
nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra còn yếu, chưa

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm trong quản lý, sử dụng đất đai; đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã cịn chưa
được ổn định; trang thiết bị phục vụ hoạt động phát hiện và xử lý vi phạm còn
thiếu; quy định mức xử phạt vi phạm còn thấp và việc xác định mức xử phạt hành
chính theo quy định hiện hành cịn khó khăn.
Tiểu kết chương 2


Trong thời gian tới, để quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu
quả nguồn tài nguyên đất đai, cần tiếp tục phát huy hơn nữa các nhân tố tích
cực đồng thời hạn chế các nhân tố tiêu cực đảm bảo đưa công tác quản lý và
sử dụng đất vào về nếp, phục vụ tốt cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong QLNN về đất đai.

Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền
và trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất đai
3.1. Một số định hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai
Nhận thức rõ tầm quan trọng và tác động to lớn của chính sách, pháp luật đất
đai đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, tại Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Đảng ủy Tổng cục Quản lý đất đai đã và đang chỉ đạo ráo riết Tổng cục bám sát
các quan điểm, định hướng của các Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI, quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai
2013, để tham mưu về việc xây dựng, ban hành các văn bản đi kèm với Luật Đất
đai, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh của đất nước. Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương khóa XI, để khắc phục
những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về đất đai trong thời gian qua và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, cần tập trung vào một số
định hướng sau:
Thứ nhất, hồn thiện cơng tác quy hoạch sử dụng đất.
Thứ hai, đổi mới cơ chế giao đất và cho thuê đất để giải quyết những bất cập

trong thực tiễn, đó là việc sử dụng đất lãng phí, hiệu quả thấp và thất thu ngân sách
nhà nước, tình trạng tham nhũng trong thực hiện việc giao đất, cho thuê đất.
Thứ ba, định giá đất, thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng đảm bảo
cân đối lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Thứ tư, đổi mới chính sách tài chính về đất đai để trở thành công cụ quản lý
thị trường, chống đầu cơ về đất đai, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu
quả, điều tiết lợi ích hợp lý từ sử dụng đất giữa Nhà nước, cộng đồng và người sử
dụng đất.


Thứ năm, tăng cường kiểm soát, thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về
pháp luật đất đai, đặc biệt là thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai nhằm chấn chỉnh những yếu kém, hạn chế và nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về đất đai.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế để phòng, chống tham nhũng trong quản lý nhà
nước về đất đai một cách hiệu quả.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và trách nhiệm của Nhà
nước trong quản lý đất đai
Để hoàn thành mục tiêu và định hướng phát triển đến năm 2030 là xây dựng
hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đạt trình độ của các nước phát triển trong khu
vực thì việc đánh giá công tác quản lý và sử dụng đất đai của các địa phương từ khi
có Luật đất đai 2013 đến nay là rất quan trọng; giúp cơ quan quản lý nhà nước
đánh giá tổng quan tình hình quản lý, sử dụng đất trong thời gian qua từ đó hoạch
định các chính sách quản lý trong thời gian tới, để góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, ngành quản lý đất đai cần quan tâm thực hiện
được các nội dung giải pháp chủ yếu sau:
(1) Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai trên nguyên tắc tiếp tục
duy trì chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đất
đai tham gia thị trường bất động sản; khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai; đảm bảo

dân chủ, công bằng xã hội và phát triển bền vững.
(2) Hoàn thiện hệ thống điều tra, đánh giá tài nguyên đất, đảm bảo cung cấp
đầy đủ thông tin, tư liệu về số lượng, chất lượng, tiềm năng và môi trường đất phục
vụ cho việc hoạch định chính sách và ban hành quyết định của cơ quan nhà nước
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất.
(3) Xây dựng hệ thống đăng ký đất đai hiện đại với quy trình, thủ tục cơ bản
được tự động hóa bằng cơng nghệ số; triển khai thống nhất trong cả nước hệ thống
hồ sơ địa chính dạng số được chỉnh lý biến động thường xuyên đầy đủ, kịp thời;
trong đó, hồn thành việc xây dựng và vận hành hệ thống hồ sơ địa chính dạng số
ở một số tỉnh và thành phố.


(4) Xây dựng hệ thống kiểm kê, thống kê đất đai được tự động hóa dựa trên
hệ thống hồ sơ địa chính dạng số được cập nhật chỉnh lý thường xuyên, đầy đủ,
đảm bảo cung cấp số liệu thống kê, kiểm kê nhanh chóng và chính xác.
(5) Hồn thiện hệ thống quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất với vai trị cơng
cụ quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo phân bổ tài nguyên đất đai hợp lý, quản lý
và sử dụng đất hiệu quả, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất phù
hợp với sự chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế trong q trình cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
(6) Hồn thiện hệ thống các cơng cụ tài chính, kinh tế đất để điều tiết các
quan hệ đất đai và quản lý thị trường bất động sản. Trong đó, hệ thống định giá đất
đảm bảo được yêu cầu định giá đất phục các mục địch khác nhau trong quản lý, sử
dụng và giao dịch về quyền sử dụng đất; hệ thống phát triển quỹ đất được hoàn
thiện về các mặt quy trình chun mơn, cơ chế và tiềm lực tài chính hợp lý, đáp
ứng nhu cầu tạo quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.
(7) Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sốt
nhằm đưa cơng tác quản lý, sử dụng đất theo đúng pháp luật.
(8) Hoàn thành việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai thành một bộ phận
của Hệ thống Dữ liệu Quốc gia.

(9) Kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức; nâng cao năng lực cán bộ ngành
Quản lý đất đai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo chức năng thống
nhất quản lý nhà nước về đất đai trên phạm vi cả nước, có sự phân cơng, phân cấp
rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư
trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học cơng nghệ ngang tầm trình độ tiên tiến
của các nước trong khu vực nhằm phát huy cao nhất năng lực thể chế và hiệu quả
của công tác quản lý đất đai trên phạm vi cả nước.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục sẽ hồn
thiện các chính sách liên quan đến đất đai theo hướng phù hợp với thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của thực tiễn, nhằm tạo động
lực mới cho xã hội phát triển; đẩy mạnh tính cơng khai, minh bạch, đẩy mạnh cải
cách hành chính, tạo lập mơi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh.
Bên cạnh đó, Đảng ủy Tổng cục Quản lý đất đai sẽ chỉ đạo Tổng cục chú
trọng việc tuyên truyền chính sách, pháp luật về đất đai; tăng cường công tác thanh


tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các điểm nóng, các vấn đề bức
xúc để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm. Theo đó, thanh tra, kiểm
tra phải đi liền với xử lý trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và người đứng đầu tổ
chức để xảy ra sai phạm, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục sẽ đẩy
mạnh công tác điều tra cơ bản; đo đạc, lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất; đổi mới sắp xếp việc sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp; đổi
mới phương pháp thực hiện và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công tác thống
kê, kiểm kê đất đai định kỳ và theo chuyên đề nhằm cung cấp số liệu chính xác
phục vụ cơng tác quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội...
Đảng ủy Tổng cục Quản lý đất đai chỉ đạo Tổng cục từng bước hiện đại hóa
hệ thống quản lý đất đai từ Trung ương đến địa phương dựa trên nền tảng khoa học
công nghệ tiên tiến; hệ thống quản trị minh bạch, hiệu quả; tập trung xây dựng và

hoàn thiện sớm hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu đất đai phục vụ đa mục tiêu; thiết
lập hệ thống, theo dõi đánh giá nhằm đảm bảo sự quản lý thống nhất; đào tạo, đào
tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ nhằm phát triển nguồn nhân
lực ngành quản lý đất đai đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng phù hợp với các
tiêu chuẩn, vị trí việc làm; ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có trình độ
cao, chun gia đầu ngành.
Tiểu kết chương 3
Xác định nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai có ảnh hưởng mạnh mẽ,
trực tiếp đến ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo quốc phịng, an ninh và phát triển
KT - XH bền vững. Vì vậy, Đảng bộ Tổng cục Quản lý đất đai nhiệm kỳ 2020 2025 đề ra nhiệm vụ quan trọng là phải tổ chức thực hiện tốt các chủ trương chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với công tác quản lý, sử dụng tài
nguyên. Bước sang nhiệm kỳ 2020 – 2025, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quản lý đất đai đề ra một số nhiệm vụ định hướng lớn như: Tiến hành tổng kết
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/12/2012 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp
tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại để đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về đất
đai; tổng kết thi hành Luật Đất đai.


×