Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Chuong I2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.25 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chương II: 2. Những lý thuyết của các Triết gia cổ Hi Lạp – La Mã</b>


<b>Chương</b> <b>II:</b> <b>Thời</b> <b>kì</b> <b>cổ</b> <b>đại</b>


(Từ thượng cổ đến hết thế kỉ thứ ba)


<b>2. Những lý thuyết của các Triết gia cổ Hi Lạp – La Mã</b>


Trong thời Cổ Đại, dân tộc Hi Lạp nổi bật lên ở khả năng tổng quát hóa. Họ có nhiều nhà
triết học mạnh dạn xây dựng nên những lý thuyết tổng quát để giải thích các hiện tượng
mn hình mn vẻ khơng ngừng diễn ra xung quanh mình. Đáng chú ý nhất có thuyết các
chất đầu hay nguyên tố của mọi vật, có thuyết nguyên tử về cấu tạo gián đoạn của vật chất.
Thuyết các nguyên tố được hình thành như sau:


Nhà triết học Talet (Thales) ở thành phố Milê (Milet) sống ở thế kỉ thứ 7 sang thế kỉ thứ 6 trước công nguyên, đã suy nghĩ và
kết luận rằng nước là nguyên lí, là chất đầu, là ngun tố của tất cả: “Khơng có gì có thể xuất phát từ khơng có gì, tất cả xuất
phát từ nước và rồi trở lại về nước”. Đung nóng nước thấy nước biến thành khơng khí (hơi nước), cho bay hơi nước (nước
biển) thu được đất (muối). Anaximen (Anaximène) sống khoảng giữa thế kỉ thứ 6 trước cơng ngun cho khơng khí là chất
đầu. Xênơphan (Xenophane) cùng thế kỉ cho đất và nước là chất đầu. Hêraclit (Heraclite) (540 – 480 trước công nguyên) coi


lửa là chất đầu.


Empêđôc (Empédocle) (490 – 430 trước công nguyên) tổng hợp thành thuyết các ngun tố: nước, khơng khí, đất, lửa là 4
chất đầu, là 4 nguyên tố tạo nên mọi vật. Mọi vật thể đều được tạo nên từ chúng theo những tỉ lệ khác nhau.
Chúng ta lưu ý rằng, nguyên tố ở đây nghĩa là thứ đầu tiên, không kể là vật chất hay phi vật chất.
Gần như đồng thời với thuyết các nguyên tố, ra đời thuyết nguyên tử. Một vấn đề to lớn là xét xem vật chất có cấu tạo như
thế nào, có thể chi nhỏ mãi vô cùng không giới hạn, hay có giới hạn?
Lơxip (Leucipe) ở thế kỉ thứ 5 trước công nguyên là tác giả của thuyết nguyên tử. Ông ch rằng vật chất có thể chia nhỏ dần đi
đến những phần tử không thể chia nhỏ hơn được nữa, gọi chúng là các nguyên tử. Có các nguyên tử của nước, khơng khí,


đất, lửa.



Đêmơcrit (Democrite (460- 390 trước cơng ngun), học trị của Lơxip hồn thiện lý thuyết của thầy, được coi là ông tổ thật
sự của thuyết nguyên tử. Đêmơcrit xuất phát từ ngun lý: “khơng có gì thì khơng thể cho cái gì cả”, và lý luận như sau để đi
đến thừa nhận sự tồn tại các nguyên tử: “Nếu bất kì một vật nào có thể chia nhỏ mãi khơng cùng thì có 2 điều, hoặc khơng có
gì cả hoặc cịn lại cái gì đó. Trong trường hợp thứ nhất, vật chất chỉ có một sự tồn tại ảo tưởng mà thôi; trong trường hợp thứ
hai, người ta đặt câu hỏi: cịn lại gì vậy? Câu trả lời logic nhất là có sự tồn tại các nguyên tố thật sự, không chia được, không
chỉ được gọi là các nguyên tử”. Ông quan niệm các nguyên tử của các ngun tố có kích thước và hình dạng nhất định, giải
thích được sự khác nhau về tính chất của các nguyên tố. Những chất thực tế ta thấy là những liên kết của các nguyên tử đó,
nếu có sự thay đổi liên kết thì có thể làm chất này biến thành chất khác.
Lơxip và Đêmôcrit là 2 nhà duy vật hồn tồn, khơng chấp nhận có sự tham gia một vị thần thánh nào trong mọi hiện tượng
trong vũ trụ.


* Platôn (Platon) (429 – 349 trước công nguyên), một triết gia có tên tuổi lớn, trong sách Timê (Timée) của mình, bác bỏ tính
chất vật chất, bác bỏ thuyết nguyên tử, trình bày thuyết các ý của mình: một thượng đế đã xây dựng trật tự của thế giới bằng
ngun tố nước, khơng khí, đất, lửa đã tạo ra 4 loại sinh vật ứng với 4 nguyên tố đó là: loại thứ nhất gồm các thần tạo nên tia
lửa, loại thứ hai gồm các động vật có cánh sống trong khơng khí, loại thứ ba gồm các động vật sống trong nước, loại thứ tư


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Arixtôt (Aristotle) (384 – 322 trước công nguyên), học trị của Platơn, khơng coi nặng như
thầy vấn đề nghiền ngẫm các ý, mà chú ý nhiều đến việc nghiên cứu thiên nhiên, đến các con vật và các cây cỏ. Ông bác bỏ
thuyết nguyên tử, thừa nhận vật chất có thể chia vơ hạn, thừa nhận có 4 ngun tố nước, khơng khí, đất, lửa, tuy nhiên quan
niệm nhau từng cặp: khơ - ẩm, nóng – lạnh, 4 tính chất nguyên thủy ấy kết hợp từng cặp một thành các ngun tố nước,


khơng khí, đất, và lửa theo sơ đồ này.


nóng + khơ = lửa


nóng + ẩm = khơng khí


lạnh + khơ = đất



lạnh + ẩm = nước


Hệ thống ngun tố - tính chất ngun thủy của Arixtơt được trình bày trong hình. Sự khác nhau giữa các chất là do tỉ lệ phối


hợp các tính chất nguyên thủy.


Khi đun nóng nước thiên nhiên, nước được biến thành khơng khí và để lại trong đĩa một bã là đất. Hiện tượng này được giải
thích như sau: nước đã trả ẩm cho lửa, thu nóng của lửa tạo thành khơng khí, đồng thời nước trả lạnh cho lửa, thu khơ của


lửa, tạo thành đất!


Từ đây, Arixtôt rút ra kết luận là: “Hồn tồn có khả năng biến đổi chất này thành chất khác!”. Kết luận này đã thống trị tai hại
trong hóa học một thời gian rất dài, gần 2000 năm với trào lưu giả kim thuật.
Dân tộc La Mã có óc thực tế hơn là óc suy luận, cho nên họ chỉ tiếp thu các tư tưởng triết học của dân tộc Hi Lạp, khơng
đóng góp được gì thêm giúp phát triển lý thuyết vừa trình bày.


*


<b>Vài</b> <b>nét</b> <b>về</b> <b>Nhà</b> <b>trường</b> <b>Alêcxanđri</b> <b>(Alexandrie)</b>


Trong khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì cổ đại sang thời kì trung cổ, từ thế kỉ thứ 2 đến thế kỉ thứ 6 sau công nguyên.
Sự hoạt động mạnh mẽ của Nhà trường Alêcxanđri, có ảnh hưởng khá quan trọng đến sự tiến hóa của các ngành khoa học,


trong đó có hóa học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ba Tư, Tiểu Á, và nhiều nước Á – Phi, tiến quân chiếm Ai Cập, cho xây dựng ở ngay cửa sông Nin (Nil) thành phố mới


Alêcxanđri làm thủ đô cho nước Ai Cập thuộc Hi Lạp.


Thành phố mới này trở thành một trung tâm thương mại và thủ công nghiệp lớn nhất thời bấy giờ, do chiếm vị trí đầu mối cho


nhiều đường giao thơng và biển đi khắp mọi nơi. Dịng vua Ptơlêmê (Ptolémée) trị vì Ai Cập từ thế kỉ thứ 3 trước cơng
ngun với ý đồ chiến lược tán dương, củng cố và khuếch trương ảnh hưởng chính quyền của mình, tìm cách tập trung ở
Alêcxanđri tất cả các nhà thông thái của Hi Lạp và cho xây dựng một Viện hàn lâm khoa học, đó là thư viện cơng cộng đầu
tiên trong lịch sử loài người (một thư viện khổng lồ chứa tới 700.000 sách viết bằng tay). Và một Trường Đại học Alêcxanđri
cũng trở thành một trung tâm khoa học lớn nhất thời bấy giờ, thu hút mạnh mẽ nhiều thanh niên các nơi đến học tập. Những
nhà bác học được mời đến chỉ mới làm được công tác bồi dưỡng, nghiên cứu và giảng dạy nhưng chưa đóng góp được
nhiều cho sự tiến bộ của khoa học vì Viện hàn lâm khoa học Alêcxanđri là một cơ quan cung đình lấy những thuyết duy tâm
làm tư tưởng chủ đạo. Dầu sao, từ Nhà Trường Alêcxanđri này đã xuất hiện một số danh nhân khoa học: Ơclit (Euclide) về
tóan, lý; Acsimet (Archimède) về kỹ thuật, Hêrôphin (Hérophile) về y học,… do đã chú ý gắn liền nghiên cứu khoa học với các
ứng dụng phục vụ nông nghiệp, hang hải, quân sự, thương mại,… Đối với hóa học, nó vẫn được coi như một bộ phận của
“nghệ thuật bí mật thiêng liêng” của các giáo sĩ trong các đền thờ. Họ hoạt động dựa vào nhiều tà thuật mê tín, tuy vậy cũng


đã được tập hợp một số kiến thức về hóa kỹ thuật thủ cơng.


Nhà trường Alêcxanđri tồn tại đến năm 641 và sau đó ngừng hoạt động hẳn do thành phố Alêcxanđri bị người Ả Rập tàn phá


trong một cuộc bao vây 14 tháng liền.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×