Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Trình bày tóm tắt cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL trên địa bàn HN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.79 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ BÀI..................................................................................................................ii
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................iii
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
............................................................................................................................3
1. Khái niệm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập...........................................................................................................3
2. Mục tiêu của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập...............................................................................................3
3. Nội dung thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự
nghiệp công lập...............................................................................................4
II. Thực trạng thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội...............................................10
1. Kết quả đạt được khi áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các
đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội............................10
2. Hạn chế, bất cập khi áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các
đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội............................12
III. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội...............................................14
KẾT LUẬN.........................................................................................................19

1


ĐỀ BÀI
Trình bày tóm tắt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan hành chính
hoặc ĐVSNCL, phân tích thực tiễn áp dụng cơ chế này tại địa phương, hoặc cơ
quan anh/chị đang công tác.


2


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định các nguyên tắc, quy định chung về cơ
chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực: Giáo dục đào tạo;
dạy nghề; y tế; văn hóa.
2. Nghị quyết số 19 - NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng
3. ThS. NGUYỄN THỊ NGUYỆT (Khoa Kế toán - Trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Công nghiệp): Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp cơng
lập.
4. Nguyễn Trường Giang, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2017: Đổi mới cơ chế
tài chính đơn vị sự nghiệp công theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XII.
5. Các bài báo online
- Tạp chí tài chính online:
/>- Báo Hà Nội mới:
/>
3


MỞ ĐẦU
Việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập từ cơ chế nhà nước bao
cấp sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là xu thế tất yếu của xã hội hiện nay.
Thực tế cho thấy, việc nâng cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định mới sẽ tạo động lực và thúc đẩy sự phát triển của việc cung cấp sản
phẩm dịch vụ công, thỏa mãn nhu cầu của dân cư, thúc đẩy sự phát triển của các
đơn vị cung cấp dịch vụ cơng lên một trình độ cao hơn.
Ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP

quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. So với cơ chế cũ, quy
định mới đã có nhiều đột phá về cơ chế cung cấp dịch vụ công và cơ chế hoạt
động của đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. Thực tế cho thấy, việc nâng
cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP
là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực hiện tốt chính
sách này sẽ tạo động lực và thúc đẩy sự phát triển của việc cung cấp sản phẩm
dịch vụ công, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của dân cư, thúc đẩy sự phát triển của
các đơn vị cung cấp dịch vụ cơng lên một trình độ cao hơn.
Nghị quyết số 19 - NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị và tầm quan trọng của các đơn vị sự
nghiệp công lập trong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh những kết quả mang lại
đóng góp tích cực vào kinh tế - xã hội, thực tế phát triển của hệ thống đơn vị sự
nghiệp vẫn chưa như kỳ vọng. Do đó, việc đổi mới cơ chế hoạt động cũng đã trở
thành yêu cầu cấp thiết, cấp bách trong bối cảnh việc đảm bảo chi ngân sách nhà
nước để duy trì hệ thống các đơn vị sự nghiệp, tác động tới điều chỉnh cơ cấu
ngân sách theo hướng tăng chi thường xuyên và giảm chi đầu tư.
Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập đã từng bước đổi mới và đạt được những thành
tựu nhất định. Số đơn vị tự chủ về chi thường xuyên ngày càng tăng; mức tự chủ
tăng đã giúp giảm phần nào kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước (NSNN).
Nhiều đơn vị đã chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển chuyên
1


môn, nâng cao chất lượng giảng dạy, phát triển nguồn thu, tăng thu nhập cho
người lao động… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực
hiện cơ chế này cũng bộc lộ khơng ít hạn chế, vướng mắc. Giám sát mới đây của
Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội về vấn đề này cho thấy, nhiều
đơn vị sự nghiệp công lập của thành phố đã triển khai thực hiện cơ chế tự chủ,
song vẫn cịn nhiều bất cập…

Để tìm hiểu rõ hơn về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập cũng như thực tiễn áp dụng cơ chế này, học viên đã chọn
đề tài: “Trình bày tóm tắt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan
hành chính hoặc ĐVSNCL, phân tích thực tiễn áp dụng cơ chế này tại địa
phương, hoặc cơ quan anh/chị đang công tác” làm đề bài tập tiểu luận của
mình. Trong bài viết này, học viên sẽ phân tích thực tiễn áp dụng cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm tại các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các đơn vị này.

2


NỘI DUNG
I. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập
1. Khái niệm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp cơng lập
được hiểu là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp công được trao quyền tự quyết
định, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân
sự và các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình, nhưng khơng vượt q mức
khung do Nhà nước quy định.
Đơn vị sự nghiệp công lập được hiểu là các tổ chức của Nhà nước cung
cấp các dịch vụ công như: Giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, dịch vụ công
cộng... Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm này, cả nước có
khoảng 58 nghìn đơn vị sự nghiệp cơng lập với khoảng 2,5 triệu biên chế (chưa
kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà
nước). Đơn vị sự nghiệp cơng lập có vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà
nước nhưng cũng đang là gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

2. Mục tiêu của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập
Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập là:
Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp
trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực
tài chính để hồn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị
để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, nhằm từng
bước giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy tính sáng tạo, năng động,
xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình.

3


Thứ hai, thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho
xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động
sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự
nghiệp, Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát
triển; bảo đảm cho các đối tượng chính sách - xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy định
ngày càng tốt hơn.
3. Nội dung thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị
sự nghiệp công lập
Nội dung thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự
nghiệp công lập được quy định chi tiết trong Nghị định 16/2015/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 14/2/2015 về Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp cơng
lập gồm có 4 nội dung chính là: Tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, Tự chủ về tổ
chức bộ máy, Tự chủ về nhân sự và Tự chủ về tài chính.
2.1. Tự chủ về thực hiện nhiệm vụ

Tự chủ trong xây dựng kế hoạch
Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công bao gồm phần kế
hoạch do đơn vị tự xác định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, năng lực của đơn
vị theo quy định của pháp luật và phần kế hoạch theo chức năng, nhiệm vụ được
giao.
Đối với dịch vụ sự nghiệp cơng khơng sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nước: Đơn vị sự nghiệp công tự xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ, báo cáo
cơ quan quản lý cấp trên để theo dõi, kiểm tra và giám sát việc thực hiện;
Đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước:
Đơn vị sự nghiệp cơng xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ báo cáo cơ quan
quản lý cấp trên để phê duyệt và quyết định phương thức giao kế hoạch cho đơn
vị thực hiện.
Tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ
4


Quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch của đơn vị,
kế hoạch của cơ quan quản lý cấp trên giao, đảm bảo chất lượng, tiến độ;
Tham gia đấu thầu cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công phù hợp với lĩnh
vực chuyên môn của đơn vị được cấp có thẩm quyền giao;
Liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân để hoạt động dịch vụ đáp
ứng nhu cầu của xã hội theo quy định của pháp luật.
2.2. Tự chủ về tổ chức bộ máy
Đơn vị sự nghiệp công được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các
đơn vị không thuộc cơ cấu tổ chức các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ
quan có thẩm quyền, khi đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật; xây dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị cấu thành trình
cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Riêng đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và
đơn vị sự nghiệp công do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: Xây

dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị trình cơ quan có
thẩm quyền quyết định.
2.3. Tự chủ về nhân sự
Đơn vị sự nghiệp cơng xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo
chức danh nghề nghiệp trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; tuyển dụng, sử dụng,
bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và quản lý viên chức, người lao
động theo quy định của pháp luật; thuê hợp đồng lao động để thực hiện nhiệm
vụ.
Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn
vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên quyết định số lượng người làm
việc; đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên đề xuất số
lượng người làm việc của đơn vị trình cơ quan có thẩm quyền quyết định; đơn vị
sự nghiệp công do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên đề xuất số
lượng người làm việc trên cơ sở định biên bình quân 05 năm trước và khơng cao
hơn số định biên hiện có của đơn vị, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định
5


(đối với các đơn vị sự nghiệp công mới thành lập, thời gian hoạt động chưa đủ
05 năm thì tính bình quân cả quá trình hoạt động).
Trường hợp đơn vị sự nghiệp cơng chưa xây dựng được vị trí việc làm và
cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp, số lượng người làm việc được
xác định trên cơ sở định biên bình quân các năm trước theo hướng dẫn của Bộ
Nội vụ.
2.4. Tự chủ về tài chính
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định việc phân loại đơn vị sự nghiệp
công dựa vào tiêu chí tự chủ về kinh phí đầu tư và kinh phí thường xun. Theo
đó, các đơn vị sự nghiệp được phân theo 4 loại: (i) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo
đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; (ii) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi
thường xuyên; (iii) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên; (iv) Đơn vị sự nghiệp công được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Nội dung tự chủ về tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể
như sau:
Tự chủ trong chi đầu tư và chi thường xuyên của các đơn vị sự nghiệp
công
Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng
cân đối các nguồn tài chính, đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu
tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Các đơn vị sự nghiệp công tự chủ
chi đầu tư và chi thường xuyên được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước
hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức
tín dụng theo quy định. Nội dung chi đối với các đơn vị sự nghiệp cụ thể như
sau:
Đối với các đơn vị tự chủ theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền: Căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt
động chuyên môn, chi quản lý cao hơn hoặc thấp hơn mức chi, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn
vị. Các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước
6


có thẩm quyền, căn cứ tình hình thực tế, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp
theo mức độ được tự chủ tài chính của từng loại đơn vị sự nghiệp công lập
(SNCL) và theo quy chế chi tiêu nội bộ.
Đối với các đơn vị tự chủ tài chính thấp: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao
và khả năng nguồn tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động chuyên
môn, chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định.
Đối với nhiệm vụ chi không thường xuyên: Đơn vị chi theo quy định của
Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) và pháp luật hiện hành đối với từng nguồn
kinh phí và phải thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về mức chi, tiêu

chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc; tiêu
chuẩn, định mức trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động;
chế độ cơng tác phí nước ngồi; chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc
tế ở Việt Nam.
Bên cạnh quy định về các mức chi trên, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
cũng quy định về mức chi tiền lương và thu nhập tăng thêm. Cụ thể như sau:
- Về chi tiền thưởng
Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm chi thường
xuyên và chi đầu tư. Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên phải tự bảo đảm tiền
lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị, NSNN không cấp bổ sung. Đối với
đơn vị chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi
thường xuyên, chi tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định, bao gồm cả
nguồn NSNN cấp bổ sung.
Đối với phần thu nhập tăng thêm, các đơn vị được chủ động sử dụng Quỹ
Bổ sung thu nhập để thực hiện phân chia cho người lao động trên cơ sở quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị theo nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu
quả công tác của người lao động và thu nhập tăng thêm cho cán bộ quản lý tối
đa không quá 2 lần hệ số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao
động trong đơn vị.
- Về tự chủ trong giao dịch tài chính
7


Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp trong giao dịch với
bên ngoài, đặc biệt là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, đồng thời tạo
thêm nguồn thu cho đơn vị, Chính phủ quy định: Đơn vị sự nghiệp công được
mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản
ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng NSNN.
Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp
hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chun ngành (nếu có),

khơng được bổ sung vào Quỹ Bổ sung thu nhập. Nghị định cũng quy định, đơn
vị SNCL được huy động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất theo
quy định của pháp luật và phải có phương án tài chính khả thi để hoàn trả vốn
vay, chịu trách nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay vốn.
Vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP nêu rõ, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp (công ty TNHH
một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ), khi đáp ứng đủ các
điều kiện: Hoạt động dịch vụ sự nghiệp công có điều kiện xã hội hóa cao; giá
dịch vụ sự nghiệp cơng tính đủ chi phí (bao gồm cả trích khấu hao tài sản cố
định); Được Nhà nước xác định giá trị tài sản và giao vốn cho đơn vị quản lý
theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; hạch toán kế
toán để phản ánh các hoạt động theo quy định của các chuẩn mực kế tốn có liên
quan áp dụng cho doanh nghiệp.
Khi vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp
được xác định vốn điều lệ và bảo toàn vốn; được huy động vốn, đầu tư vốn ra
ngồi đơn vị; quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định theo doanh
nghiệp; quản lý doanh thu, chi phí và phân phối lợi nhuận; thực hiện chế độ kế
toán, thống kê như doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ quy định điều khoản chuyển tiếp nhằm tạo điều
kiện cho các đơn vị sự nghiệp có căn cứ thực hiện đúng các quy định pháp luật
trong giai đoạn chuyển đổi giữa cơ chế quản lý cũ sang thực hiện theo cơ chế
mới.
8


 Nhìn chung, so với cơ chế cũ, quy định mới đã có nhiều đột phá về cơ chế
cung cấp dịch vụ công và cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch
vụ công. Cụ thể như:
Phân biệt rõ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN và

danh mục dịch vụ cơng khơng sử dụng kinh phí NSNN. Quy định này đã giới
hạn khn khổ, phạm vi những loại hình dịch vụ cơng thiết yếu, những loại dịch
vụ cơng cần có sự hỗ trợ từ NSNN; đối với những loại dịch vụ công không thiết
yếu NSNN sẽ không hỗ trợ.
Đã ban hành lộ trình tiếp cận việc tính giá cung cấp dịch vụ công theo
nguyên tắc thị trường. Điều này tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công lập
được tự chủ thực sự trong việc tính tốn các chi phí đầu vào, đầu ra theo cơ chế
hoạt động của doanh nghiệp và có giải pháp thu hồi chi phí để tái đầu tư cung
cấp dịch vụ công, đảm bảo đời sống cho người lao động. Đồng thời, việc thực
hiện quy định này sẽ tạo ra mơi trường cạnh tranh bình đẳng hướng tới nâng cao
chất lượng, giảm chi phí giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ công do Nhà nước
thành lập và các đơn vị cung cấp dịch vụ công thuộc thành phần kinh tế ngoài
nhà nước.
Tạo điều kiện để từng bước chuyển việc hỗ trợ các đối tượng chính sách
trong sử dụng dịch vụ công thông qua Nhà nước bù giá cho các đơn vị cung cấp
dịch vụ công lập, sang Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch
vụ cơng. Chính sách này nhằm khắc phục việc NSNN hỗ trợ bình quân, dàn trải
qua giá chưa tính đủ chi phí cho tất cả các đối tượng sử dụng dịch vụ công, sang
hỗ trợ đúng đối tượng chính sách cần được Nhà nước hỗ trợ, tiết kiệm chi
NSNN; đối tượng chính sách có điều kiện để lựa chọn các dịch vụ công thiết
yếu; các đơn vị cung cấp dịch vụ cơng lập có điều kiện thu đủ chi phí cung cấp
dịch vụ để tái đầu tư phát triển.
Khuyến khích và yêu cầu các đơn vị sự nghiệp công lập thay đổi phương
thức hoạt động, đổi mới tổ chức, chấp nhận cơ chế cạnh tranh bình đẳng với các
đơn vị cung cấp dịch vụ cơng ngồi cơng lập. Việc làm này sẽ góp phần tạo điều
9


kiện cho các đơn vị cơng lập, ngồi cơng lập cùng phát triển, khuyến khích thúc
đẩy xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ công, giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN.

Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc ban hành các
tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ
sự nghiệp công.
II. Thực trạng thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Ngày 21/5/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 695/QĐTTg về kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP một cách kịp
thời, thống nhất, đồng bộ và toàn diện. Trong đó, quy định cụ thể các nội dung
cơng việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các bộ, nghành, địa
phương.
1. Kết quả đạt được khi áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Về tổ chức bộ máy và nhân sự:
Các đơn vị đã có các phương án chủ động sắp xếp, kiện toàn, tổ chức lại
đảm bảo bộ máy tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và khoa học - công nghệ tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực
quản trị quốc tế nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, tăng nguồn
thu sự nghiệp của đơn vị…
Trong giai đoạn năm 2018 - 2020, tại một số địa phương đã thực hiện
quyết liệt và đạt được được một số kết quả nhất định. Tại Hà Nội, sau khi thực
hiện sắp xếp, kiện tồn, các đơn vị sự nghiệp cơng lập trực thuộc sở, ban, ngành
đã giảm từ 401 đơn vị xuống còn 280 đơn vị (giảm tương đương 30,2%); các
đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện đã giảm từ 206 đơn vị còn 96 đơn vị (giảm
tương đương 53,4%).
Về tài chính:
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài
chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực,
10


như các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân

sách nhà nước (NSNN) giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; đồng thời chủ
động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao số lượng, chất
lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp cơng, từ đó phát triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp cơng lập cùng với nguồn kinh phí tiết
kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm bù đắp
một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ. Nhờ tăng
cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện cơ chế tự chủ, thu nhập và
đời sống của người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã từng bước
được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức bình quân
khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị. Riêng một số đơn vị sự
nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học tự bảo đảm tồn bộ chi phí hoạt
động đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động khoảng 2 - 3
lần.
Ngoài ra, cơ chế tự chủ đã giúp các đơn vị sự nghiệp công lập huy động
nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp. Nhờ đó, cơ sở vật chất của các đơn vị
sự nghiệp công lập đã được tăng cường, tạo điều kiện mở rộng các hoạt động sự
nghiệp phong phú, đa dạng, phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao.
UBND TP. Hà Nội đã đặt ra tại Kế hoạch số 137/KH-UBND ngày
18/6/2018 về triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính các đơn vị sự
nghiệp cơng lập thuộc TP. Hà Nội giai đoạn 2018 - 2021.
Theo đó, giai đoạn 2018 - 2021, TP. Hà Nội phấn đấu có 10% đơn vị tự
chủ tài chính, giảm bình qn 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các
đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 – 2015.
Trong giai đoạn 2018 - 2020 đạt 257 đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm
bảo chi đầu tư, chi thường xuyên và tự đảm bảo chi thường xuyên; trong đó, đợt
1 có 97 đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính (trong đó nâng tự chủ thêm 96 đơn vị).
Đợt 2 có 61 đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính.
Các đơn vị sự nghiệp cơng lập nâng mức tự chủ tài chính sẽ được giao
quyền tự chủ nhiều hơn như: Được quyết định số lượng người làm việc; được
11



chủ động quyết định việc sử dụng nguồn tài chính, tổ chức xây dựng và thực
hiện kế hoạch hoạt động của đơn vị để nâng cao thu nhập cho công chức, viên
chức, người lao động.
2. Hạn chế, bất cập khi áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức và hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp cơng lập hiện nay vẫn cịn nhiều tồn tại, yếu kém và cịn khơng ít
những khó khăn, thách thức phải vượt qua.
Sau một thời gian triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP vẫn chưa được
thực hiện một cách đồng bộ và quyết liệt. Nguyên nhân là do nhiều quy định
trong Nghị định vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chuyên ngành, bởi mỗi lĩnh vực
có những đặc thù riêng và yêu cầu quản lý trong cung cấp dịch vụ công khác
nhau, nên khơng thể có một nghị định điều chỉnh, bao quát toàn bộ các hoạt
động cung cấp dịch vụ công.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP chỉ ban hành những quy định khung làm
căn cứ để xây dựng, ban hành các quy định cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt
động của các lĩnh vực chuyên ngành nên các bộ, ngành còn lúng túng khi xây
dựng các nội dung quy định. Thêm vào đó là do tâm lý chờ được hỗ trợ qua giá
và cấp bù kinh phí khi các đơn vị thực hiện các dịch vụ công đã tồn tại quá lâu,
gây nên tính thụ động cho các đơn vị SNCL…
Chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp cơng lập cịn lớn,
một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính cịn
hình thức, có phần thiếu minh bạch; việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình
điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công chưa kịp thời.
Việc thực hiện xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp cơng cịn chậm.
Cơng tác thanh tra, kiểm tra, kiểm tốn, giám sát và xử lý sai phạm trong hoạt
động của đơn vị sự nghiệp cơng lập cịn nhiều bất cập…
Theo báo Hà Nội mới: Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã giao quyền tự

chủ tài chính cho 16 đơn vị sự nghiệp công lập, song đến nay mới có 2 đơn vị tự
12


bảo đảm chi thường xuyên. Đó là Nhà hát Múa rối Thăng Long và Trung tâm
Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Việc tự chủ 100% chi thường xuyên như ở Nhà hát Múa rối Thăng Long
đã là rất nỗ lực, song hoạt động còn nhiều bất cập. Phó Giám đốc Nhà hát Múa
rối Thăng Long Chu Văn Lượng cho biết, nguồn thu của đơn vị tương đối ổn
định, trong đó năm 2019 vượt thu hơn 6 tỷ đồng so với chỉ tiêu giao. Từ đó, đơn
vị dành một phần kinh phí để sửa chữa cơ sở vật chất, nhưng quy trình xin cấp
trên duyệt rất chậm, có hạng mục trình duyệt hơn 1 năm vẫn chưa được chấp
thuận.
Bảo tàng Hà Nội hiện tại chưa thực hiện được cơ chế tự chủ chi thường
xuyên, nhưng theo Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Tiến Đà, đơn vị đã có những khu
trưng bày chuyên đề và nhiều doanh nghiệp du lịch rất muốn đưa khách đến
tham quan. Song, trở ngại chính là quy định khơng được bán vé, tức khơng có
nguồn thu “hoa hồng” từ vé của doanh nghiệp nên nơi đây rất vắng khách. Vì
thế, để tăng nguồn thu, thành phố Hà Nội cần sớm cho phép để đơn vị bán vé
tham quan, thúc đẩy hoạt động du lịch, tiến tới tự chủ chi thường xuyên vào năm
2022.
Các đơn vị sự nghiệp công lập ngành Giáo dục và đào tạo cũng gặp nhiều
khó khăn trong thực hiện cơ chế tự chủ chi thường xuyên. Có trường áp lực
trong hoạt động tuyển sinh hằng năm, vì phụ huynh so sánh mức thu học phí của
nhà trường cao hơn các trường công lập khác chưa thực hiện cơ chế tự chủ.
Trong khi, khơng thu học phí đủ cân đối thì không đủ trang trải cho chi lương và
hoạt động thường xuyên. Do xây dựng mức thu học phí bảo đảm cân đối cho tự
chủ toàn phần chi thường xuyên, nên tỷ lệ tuyển sinh của các trường thực hiện
cơ chế tự chủ chi thường xuyên đều không đạt so với dự kiến. Bên cạnh đó, tự
chủ về tài chính, nhưng chưa được tự chủ về nhân sự, nên việc tuyển dụng giáo

viên đáp ứng đủ chuẩn của nhiều trường cũng khó thực hiện.
Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình giao thơng thành phố cũng
đối mặt nhiều khó khăn khi thực hiện cơ chế tự chủ chi thường xun. Theo ơng
Phạm Hồng Tuấn (Giám đốc Ban), để tự cân đối chi thường xuyên, đơn vị phải
13


có nhiều dự án. Song thực tế, ban đang phải giải quyết 200 dự án tồn đọng khi
sáp nhập 7 đơn vị, mà hầu hết hồ sơ thất lạc, ngân sách đã chi, nhưng chưa quyết
tốn xong. Bên cạnh đó, viên chức, lao động của đơn vị lên tới hơn 300 người
nhưng chất lượng không đồng đều, dẫn đến hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ.
III. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các đơn vị
sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Cùng với các giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, để nâng
cao chất lượng quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công lập, tăng cường chất
lượng dịch vụ cơng trên địa bàn Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung, cần
tiếp tục chú trọng những giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện luật pháp, thể chế, chính sách khuyến khích
xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp cơng.
Hồn thiện hệ thống chính sách về tự chủ, tự chịu trách nhiệm, rà soát,
sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật
chuyên ngành cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, nhằm
đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi và thực hiện hiệu quả cơng tác
cung cấp các dịch vụ cơng của mình.
Thực hiện chính sách hỗ trợ ngân sách nhà nước đối với các đơn vị cung
cấp dịch vụ công theo hướng tạo điều kiện và bảo đảm sự bình đẳng giữa các
đơn vị sự nghiệp cơng lập và ngồi cơng lập trong việc tiếp cận các nguồn tài
chính cơng, cung cấp dịch vụ công cho xã hội trên nguyên tắc: Trong cùng một
lĩnh vực cung cấp dịch vụ công, đơn vị nào có chất lượng và hiệu quả cao hơn sẽ

được ưu tiên tiếp cận nguồn lực tài chính cơng, khơng phân biệt đơn vị cơng lập
hay ngồi cơng lập.
Tổ chức đánh giá, rà soát, quy hoạch lại các lĩnh vực cung cấp dịch vụ
công trong xã hội đối với một số lĩnh vực không thiết yếu; các thành phần kinh
tế trong xã hội đã cơ bản đáp ứng nhu cầu xã hội, hoặc xã hội đã chấp nhận việc

14


cung, cầu dịch vụ theo cơ chế thị trường thì khơng nhất thiết phải duy trì các đơn
vị cung cấp dịch vụ công thuộc quyền sở hữu nhà nước.
Các đơn vị sự nghiệp công này yêu cầu chuyển sang hoạt động theo cơ
chế doanh nghiệp hay cơ chế tự đảm bảo tồn bộ kinh phí hoạt động thường
xun. Tiến tới, ngân sách nhà nước sẽ không hỗ trợ một số đơn vị sự nghiệp
cơng lập đã được hình thành trước đây như: Các trung tâm văn hóa, các trung
tâm thể thao, một số trường học, bệnh viện...
Trường hợp Nhà nước cần cung cấp dịch vụ thì thực hiện cơ chế đấu thầu,
đặt hàng đối với các đơn vị này trên ngun tắc tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ,
bình đẳng với đơn vị cung cấp dịch vụ khác.
Về lâu dài, cần nghiên cứu thay việc ban hành danh mục dịch vụ công sử
dụng ngân sách nhà nước sang việc ban hành danh mục các đối tượng được
hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước trong sử dụng dịch vụ công. Theo đó, thay đổi
cách hỗ trợ của Nhà nước thơng qua sản phẩm dịch vụ công sang việc hỗ trợ cho
đối tượng sử dụng dịch vụ công.
Thứ hai, bổ sung xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư về ngân sách nhà
nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhà nước chủ động thay đổi cơ bản cách thức hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từng bước chuyển từ giao dự toán
khoán chi hoạt động thường xuyên như trước đây, sang đặt hàng, đấu thầu cung
cấp dịch vụ công.

Trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn
chất lượng của từng loại hình dịch vụ cơng cung cấp, nguồn tài chính cơng được
phân phối công khai, minh bạch cho các đơn vị sử dụng có hiệu quả nhất, khơng
phân biệt cơ sở cơng lập hay ngồi cơng lập. Qua đó, tạo mơi trường cạnh tranh
lành mạnh, bảo đảm cho các đơn vị sự nghiệp cơng lập và ngồi cơng lập phát
triển bình đẳng.
Cùng với đó, Nhà nước chủ động thay đổi cách thức hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước cho các đối tượng chính sách thông qua các cơ sở cung cấp dịch vụ
công như hiện nay, hỗ trợ trực tiếp, tạo sự bình đẳng trong hưởng thụ và tạo điều
15


kiện cho các đơn vị cung cấp dịch vụ công được bù đắp chi phí hoạt động cung
cấp dịch vụ; chủ động thực hiện cơ cấu lại, chi thường xuyên từ ngân sách nhà
nước cho các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ cơng theo hướng bảo đảm kinh
phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị được giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công phục vụ cho các đối tượng chính sách, xã hội, đơn vị sự
nghiệp cơng ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới và hải đảo.
Nhà nước cần từng bước thực hiện tái cơ cấu đầu tư ngân sách nhà nước
đối với việc cung cấp theo hướng tăng dần tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ bản
để tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng, ưu tiên đầu tư các cơ sở như
giáo dục, y tế... tại các địa bàn kinh tế trọng điểm, khu vực miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, nhằm thu hẹp khoảng cách về cung cấp và thụ hưởng giữa
các khu vực, vùng, miền trong cả nước.
Qua đó, từng bước giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên từ ngân sách nhà
nước cho cung cấp dịch vụ công, đồng thời, có chính sách huy động đóng góp từ
xã hội để bù đắp các chi phí thường xuyên cho cung cấp dịch vụ công.
Thứ ba, đổi mới cơ chế quản lý tài chính cơng đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập.

Tăng cường phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đồng bộ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính trên cơ sở có
tính đến đặc điểm từng loại hình đơn vị, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ
quản lý. Các đơn vị phải chịu trách nhiệm giải trình về việc thực hiện tự chủ và
có cơ chế giám sát, kiểm tra các đơn vị tự chủ bảo đảm thực hiện đúng nhiệm vụ
được giao.
Đổi mới phương thức giao dự toán kinh phí đối với các đơn vị cung cấp
dịch vụ cơng cơ bản, phục vụ đối tượng chính sách theo hướng Nhà nước đặt
hàng cung cấp sản phẩm, dịch vụ; có sự gắn kết tương xứng giữa số lượng, chất
lượng dịch vụ cơng cung cấp và kinh phí Nhà nước đặt hàng.
16


Tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công, phù hợp với thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước. Các đơn vị tự
chủ sử dụng kinh phí được Nhà nước đặt hàng nhưng phải đáp ứng tốt yêu cầu
về số lượng, chất lượng dịch vụ công cung cấp. Nhà nước xây dựng và ban hành
cơ chế kiểm định độc lập về chất lượng dịch vụ công cung cấp trên các lĩnh vực
hoạt động; cần tăng cường kiểm định chất lượng dịch vụ cơng, đẩy nhanh tiến
độ hồn thành kiểm định chất lượng đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ cơng,
khuyến khích các đơn vị tham gia kiểm định chất lượng theo chuẩn khu vực và
quốc tế; thực hiện triển khai xếp hạng, tăng cường minh bạch thông tin về điều
kiện đảm bảo chất lượng và chất lượng dịch vụ công nhằm nâng cao năng lực tự
chủ.
Đổi mới cơ chế tài chính cơng đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công
lập, cung cấp các dịch vụ sự nghiệp cơng có khả năng xã hội hóa cao, tự bảo
đảm tồn bộ chi phí hoạt động.
Các đơn vị này được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung
cấp dịch vụ cơng, được hạch tốn kinh tế đầy đủ chi phí cần thiết; quyết định thu

giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí cần thiết, do cấp có thẩm
quyền ban hành; được Nhà nước giao vốn và bảo tồn, phát triển nguồn vốn; có
quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo
quy định; được huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần
kinh tế khác, để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, tự quyết định
biên chế và trả lương, trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả,
chất lượng hoạt động.
Cách làm trên sẽ thay đổi cơ bản về phương thức quản trị nội bộ đối với
các cơ sở cung cấp dịch vụ công. Các đơn vị sẽ phải tiếp cận dần với các
phương thức quản trị hiện đại, tiên tiến của doanh nghiệp, phải nâng cao chất
lượng dịch vụ để thu hút người sử dụng và tăng nguồn thu cho đơn vị, phải cạnh
tranh bình đẳng về chất lượng dịch vụ và về mức thu phí.

17


Cơ chế này sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị
cơng lập, ngồi cơng lập, theo hướng giảm mức thu phí, nâng cao chất lượng
dịch vụ cơng, có lợi cho người sử dụng dịch vụ và cho tồn thể xã hội.
Bên cạnh đó, thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết
của các đơn vị sự nghiệp cơng lập; hồn thiện chính sánh thu hút nguồn vốn đầu
tư từ các thành phần kinh tế, để đầu tư nâng cấp, mở rộng, nâng cao chất lượng
và đa dạng hóa dịch vụ cơng đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trên nguyên
tắc không thay đổi nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quyền sở hữu của
Nhà nước, tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng dịch vụ công cung cấp, xử
lý hài hòa quyền lợi của Nhà nước, người lao động, người dân, nhà quản lý và
nhà đầu tư trong khuôn khổ pháp luật.

18



KẾT LUẬN
Xây dựng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp
công lập nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của
Nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và bảo đảm công
bằng trong đơn vị sự nghiệp công lập; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần xây dựng hệ thống các chính sách
để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng
ngày càng cao.
Nghị định số 16/2015/NÐ-CP được đánh giá là bước đột phá mới trên lộ
trình đổi mới tồn diện, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công, tăng cường giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp, giảm áp lực tài
chính cho ngân sách nhà nước.
Song, thực tế cho thấy, có sự triển khai Nghị định này trái ngược nhau đối
với hai loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với những đơn vị sự nghiệp
công lập năng động, có khả năng tự chủ cao nhưng đang bị “trói buộc” bởi các
cơ chế quản lý cũ thì Nghị định số 16/2015/NĐ-CP sẽ là động lực mới. Đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập thiếu năng động, hoặc hoạt động ở các khu vực
khơng thuận lợi, cịn phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước thì chưa sẵn sàng
chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ. Bên cạnh đó, việc thực hiện xã hội hố
lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp cơng hiện nay cịn chậm. Cơng tác thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán, giám sát và xử lý sai phạm trong hoạt động của đơn vị sự nghiệp
công lập còn nhiều bất cập…
Việc nâng cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là một chủ
trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực hiện tốt chính sách này sẽ
có tác động đến việc tạo động lực, thúc đẩy sự phát triển của việc cung cấp sản
phẩm dịch vụ công, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Để cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm phát huy hiệu quả, bên cạnh các
giải pháp học viên đề xuất ở trên, các đơn vị cũng cần đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản lý,

19


cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm thay
đổi và nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở các cấp, các ngành, các đơn vị sự
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội nói riêng và trên tồn xã hội nói chung.

20



×