Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Đảm bảo An sinh xã hội tại các huyện nghèo Tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.06 KB, 116 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
--------

ĐINH MẠNH TRƯỜNG

ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI
TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
--------

ĐINH MẠNH TRƯỜNG

ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI
TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS VŨ QUANG LỘC

HÀ NỘI - 2014



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ

LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội
1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội
Chương 2

11
11
22

THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ
HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN
BIÊN THỜI GIAN QUA

2.1.
2.2.
2.3.
Chương 3

Một số đặc điểm các huyện nghèo tỉnh Điện Biên

Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết


31
31
41
70

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN
SINH XÃ HỘI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH

ĐIỆN BIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo đảm bảo An sinh xã

74

hội ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên
3.2. Giải pháp thực hiện đảm bảo An sinh xã hội các

74

huyện nghèo tỉnh Điện Biên

78

KẾT LUẬN

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

101


PHỤ LỤC

105

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

An sinh xã hội

ASXH


Ngân hàng phát triển Châu Á

ADB

Bảo hiểm xã hội

BHXH

Bảo hiểm y tế

BHYT

Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN


Cộng hịa dân chủ nhân dân

CHDCND

Cơng nghiệp xây dựng

CNXD

Dân tộc nội trú

DTNT

Dân tộc thiểu số

DTTS

Giao thông nơng thơn

GTNT

Kế hoạch hóa gia đình

KHHGĐ

Kinh tế xã hội

KTXH

Mặt trận tổ quốc


MTTQ

Ngân hàng thế giới

WB

Nông lâm nghiệp

NLN

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc

UNICEF

Thể dục thể thao

TDTT

Thương mại cổ phần

TMCP

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT


Trợ giúp xã hội

TGXH

Vật liệu xây dựng

VLXD

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Xóa đói giảm nghèo

XĐGN

Xây dựng cơ bản

XDCB


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảm bảo an sinh xã hội (ASXH) là một bộ phận trong mơ hình phát
triển xã hội để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Hoạt động của hệ thống ASXH là nơi thể hiện rõ nhất tính “định
hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, trong đó

con người ln có được, bao gồm cả cảm nhận được, một cuộc sống yên ổn
và an tồn, có khả năng phịng ngừa những cú sốc và có những “chiếc phao
cứu sinh” khi gặp phải những biến cố, rủi ro bất thường. Dưới góc độ của
khoa học kinh tế chính trị ASXH được xem như là một khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội: Phân phối lại thu nhập quốc dân để tái sản xuất sức lao động.
Đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay có vị trí, vai trị hết sức quan trọng
trong quá trình xây dựng, phát triển và ổn định đất nước, góp phần hiện thực
hóa các quyền xã hội của mọi người dân; đặc biệt đối với các huyện nghèo
tỉnh Điện Biên đảm bảo ASXH góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
những người có hồn cảnh khó khăn… Với những chính sách đảm bảo ASXH
của Chính phủ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau từ trung ương các tổ chức kinh
tế - xã hội và các cá nhân đã giúp người dân nơi đây từng bước thoát nghèo và
vươn lên làm giầu trên chính q hương mình.
Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên chính là nền tảng của
phát triển kinh tế - xã hội, nhằm điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các vùng
kinh tế và các nhóm dân cư, có thể được coi như là một giá đỡ đảm bảo thu nhập
cho người dân. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững tại các
huyện nghèo ngang bằng với các huyện khác trong tỉnh Điện Biên.
Điện Biên là một tỉnh mới được thành lập, tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ có
tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Tồn tỉnh hiện có 5/10 huyện nghèo theo


4

chuẩn mới của Chính phủ. Nhưng với những chủ trương, chính sách đúng đắn,
phát huy tốt nguồn lực tại chỗ và tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trợ của Chính
phủ, cũng như các tổ chức kinh tế, tổ chức nhân đạo, từ thiện trong và ngoài
nước, tỉnh Điện Biên trong thời gian qua đã từng bước thực hiện tốt việc đảm
bảo ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị, xã hội

ngày càng phát triển ổn định…Các chương trình, dự án đảm bảo ASXH ngày
càng đồng bộ và hoàn thiện với số người dân tại các huyện nghèo được giải
quyết việc làm ngày tăng; số người tham gia BHXH ngày càng lớn, diện bao phủ
không ngừng được mở rộng; chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo
được triển khai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đã giảm
đáng kể; đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc
biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hồn cảnh khó khăn.
Tuy nhiên, trên thực tế việc đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh
Điện Biên hiện còn phân tán, chồng chéo, hiê ̣u quả chưa cao, tạo việc làm và
giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo cịn cao; mức trợ cấp
xã hơ ̣i còn thấp; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng u cầu phát triển; cơng tác
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; tỉ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; tỉ lệ người tham gia Bảo hiểm xã hội
(BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp; đời sống của một bộ phận người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số chưa bảo đảm được mức tối thiểu và có sự
chênh lệch giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình
chung của cả huyện.
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là sự thiếu
thống nhất trong nhận thức về nơ ̣i dung, vị trí và vai trị của đảm bảo ASXH
trong mơ hình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực tại chỗ của các huyện
nghèo trong thực hiện đảm bảo ASXH còn hạn chế, chủ yếu phải dựa vào


5

nguồn ngân sách của tỉnh, của Trung ương và sự hỗ trợ từ các tổ chức kinh tế,
xã hội khác; chưa khuyến khích người dân và các đối tác xã hội tích cực chủ
động tham gia, bởi vậy hệ thống ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội tại các địa phương.

Chính vì vậy, đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên nói
riêng, các huyện nghèo trong cả nước nói chung là một sự nghiệp cao cả và
còn phải nỗ lực phấn đấu lâu dài. Để làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn;
thực trạng và những quan điểm, giải pháp trong đảm bảo ASXH đối với các
huyện nghèo, tác giả xin lựa chọn vấn đề: “Đảm bảo An sinh xã hội tại các
huyện nghèo Tỉnh Điện Biên” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, cùng với việc tập trung phát triển kinh tế, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển hệ thống ASXH
nhằm bảo đảm quyền lợi của mọi người dân, đặc biệt chú ý đến người nghèo,
người dân tộc, dân cư vùng nông thôn, dân cư vùng sâu, vùng xa. Đầu tư của
Nhà nước cho ASXH ngày càng tăng, quản lý Nhà nước về ASXH từng bước
được tăng cường, sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội
ngày càng nhiều. Nhờ vậy, tỷ lệ nghèo giảm nhanh, đối tượng tham gia và thụ
hưởng các chính sách ASXH ngày càng mở rộng và tăng về số lượng; người
dân, đặc biệt dân cư vùng nông thôn bước đầu đã chủ động phịng ngừa, đối phó,
giảm thiểu và khắc phục có hiệu quả những rủi ro, để ổn định cuộc sống, hoà
nhập tốt hơn vào cộng đồng.
Tuy nhiên, hệ thống ASXH còn nhiều bất cập, thể hiện ở mức độ bao phủ
thấp, đối tượng hưởng lợi còn hạn chế, các khoản tiền trợ cấp ASXH chỉ bảo


6

đảm một phần trong tổng nhu cầu chi tiêu của hộ gia đình. Bởi vậy để làm rõ
hơn kết quả thực hiện công tác ASXH ở nước ta trong thời gian qua đã có các
cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trong đó đáng chú ý là cơng trình
của các tác giả sau:
* Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Đề án chiến lược

ASXH giai đoạn 2011-2020. Đề án đã đề cập trên góc độ lý luận về q trình
thực hiện cơng tác ASXH như: quan điểm, đối tượng, mục tiêu, định hướng giải
pháp và kinh phí thực hiện ASXH.
Gần đây nhất tháng 1 năm 2014, Viện khoa học Lao động và xã hôi thuộc
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam đã phát hành cuốn sách có nội
dung đặc biệt quan trọng đến hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam
với tên sau: “Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020”. Cuốn sách
đã nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như những nội dung, chính sách
chủ yếu và thực trạng của hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện nay; định hướng
phát triển chính sách ASXH đến năm 2020; cuốn sách đã cung cấp đầy đủ
những nội dung cơ bản về hệ thống ASXH của Việt Nam, nêu lên thực trạng
công tác ASXH trong những năm qua, đồng thời đề ra những mục tiêu cụ thể cả
trước mắt cũng như lâu dài, định hướng chính sách phát triển cơng tác ASXH
trong thời gian tới. Cuốn sách của PGS.TS, Mai Ngọc Cường chủ biên, Chính
sách xã hội nơng thơn: kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam. NXB lý
luận chính trị, Hà nội 2006; và “Về an sinh xã hô ̣i ở Viêṭ Nam giai đoạn 20122020 NXB chính trị Quốc gia (năm 2013).
Đề tài cấp Bộ năm 2002 của các tác giả: Bùi Văn Hồng, nghiên cứu mở
rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm và thu


7

nhập; Nguyễn Văn Định, tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam trong nền
kinh tế thị trường đề tài cấp Bộ (năm 2000); Nguyễn Tiệp, các giải pháp nhằm
thực hiện xã hội hố cơng tác trợ giúp xã hội, đề tài cấp Bộ năm 2002; Đặng
Cảnh Khanh, vấn đề trợ giúp xã hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt
nam đề tài KX. 04. 05 (năm 1994);
* Cơng trình nghiên cứu cấp nhà nước mang mã số KX 04.05: “Luận cứ
khoa học cho việc đổi mới và hồn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong
điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam”, do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, làm chủ đề tài. Kết quả nghiên cứu của đề
tài đề cập đến một cách khá hệ thống vấn đề bảo đảm xã hội như: đã làm rõ khái
niệm về đảm bảo xã hội; mối quan hệ giữa bảo đảm xã hội với các chính sách xã
hội, vị trí, vai trị và sự cần thiết khách quan của bảo đảm xã hội trong nền kinh
tế thị trường, khẳng định bảo đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực
cho phát triển kinh tế xã hội. Đề tài đã nghiên cứu khá công phu về các bộ phận
cấu thành quan trọng của bảo đảm xã hội là BHXH, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã
hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành này, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển
trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.
* Luận văn Tiến sỹ của tác giả Mai Ngọc Anh – Chuyên ngành quản lý
kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội với tên đề tài: “ASXH đối với
nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Đề tài đã nghiên cứu
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hồn thiện hệ thống
ASXH đối với nơng dân trong điều kiện kinh tế thị trường; tổng kết kinh nghiệm


8

về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở một số nước trên
thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc xây dựng hệ thống
ASXH đối với nông dân ở nước ta; khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước
ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hệ
thống ASXH hiện hành đối với nông dân.
* Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Chương Phát – Chuyên ngành
Kinh tế nông nghiệp, Trường đại học Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Đại học
Thái Nguyên với đề tài: "Ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo đói
của hộ nơng dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái". Đề tài có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đồn thể và nhân dân có

thể nhận diện bức tranh toàn cảnh về ASXH và ảnh hưởng của hệ thống ASXH
tới vùng nông thôn với một mức độ nhất định. Từ đó, giúp cho nhà nước có căn
cứ xây dựng pháp luật, chế độ, chính sách; phương hướng hoạt động phù hợp
nhằm tăng cường ASXH; cải thiện đời sống, xố đói giảm nghèo và giảm thiểu
rủi ro cho những người bị thiệt thòi trong xã hội; đưa đất nước phát triển bền
vững đi lên trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu đã có những bài viết, cơng trình nghiên cứu bàn về hệ thống ASXH, cũng
như đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay. Có thể nêu lên một số cơng trình nghiên
cứu, bài viết của một số tác giả như sau: Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ thống
an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; Patricia Justino, khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia về an sinh xã
hội ở Việt Nam (UNDP); PGS, TS Vũ Văn Phúc – Tổng biên tập Tạp chí Cộng
sản, An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; GS, TS Hoàng


9

Chí Bảo – Hội đồng lý luận Trung ương, An sinh xã hội với ổn định và phát triển
bền vững ở Việt Nam (Tạp chí Tuyên giáo, năm 2014); ThS. Nguyễn Văn Chiều –
khoa Khoa học quản lý, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, ASXH và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của
khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách ASXH ở Việt Nam; Cùng tác
giả ThS. Nguyễn Văn Chiều có bài đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản, Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ đổi
mới; ThS.Nguyễn Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và
ASXH vùng đặc biệt khó khăn…
Các nghiên cứu trên tuy đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học, lý luận
thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung ở nước

ta những năm qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đảm bảo ASXH dưới góc độ
của mơn kinh tế chính trị ở một tỉnh miền núi mới được tách ra có nhiều
huyện nghèo vẫn chưa được giải quyết thấu đáo, còn nhiều vấn đề đặt ra nóng
bỏng, cấp bách cần giải quyết, đặc biệt những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
tại các huyện nghèo, xã nghèo
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đảm bảo ASXH tại
các huyện nghèo tỉnh Điện Biên hiện nay trên góc độ của khoa học kinh tế chính
trị. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp để giải quyết vấn đề
ASXH ở các huyện này trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo


10

tỉnh Điện Biên hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện
Biên thời gian qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất Quan điểm và giải pháp đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo
cho thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên theo nghĩa rộng.
* Phạm vi nghiên cứu
Lựa chọn 05 huyện nghèo tỉnh Điện Biên (Mường Nhé, Mường Ảng, Điện
Biên Đông, Tủa Chùa và Nậm Pồ); thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tái sản xuất sức lao động và nguồn lực con người trong phát triển kinh tế để làm rõ
các vấn đề lý luận đảm bảo ASXH, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt trong tình
hình kinh tế khó khăn, suy giảm.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin
(trừu tượng hoá khoa học) và các phương pháp khác như: kết hợp lơgíc và lịch sử,
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảm


11

bảo ASXH ở các huyện nghèo nói riêng và cả nước ta nói chung.
- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan chức năng và các
huyện nghèo trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện công tác đảm bảo ASXH trong
thời gian tới.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và
học tập mơn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu 3 chương (7 tiết).


12


Chương 1
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội
1.1.1. An sinh xã hội và các nguyên tắc của nó
* Khái niệm về An sinh xã hội
ASXH là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thực chất đây là
hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc dân
trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động, chính vì vậy trong
tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đặt vấn để phân phối trong sự liên
hệ với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Mác cho rằng trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà nước và pháp luật và với
sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải thực hiện phân phối “làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu” mặc dù ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản
trình độ kinh tế cịn có hạn nhưng con người đã được phát triển tự do, toàn diện
được xã hội quan tâm đến mọi mặt của đời sống. Theo Lê nin, cách phân phối
này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy
đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng
theo lao động của mình, được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hôi.
Nhưng khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng
với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát
triển, trình độ văn hóa được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa thành thị và nơng thơn được xóa bỏ, lao động trở thành
nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên
phải chuyển sang một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu
dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích
thích lao động nữa, con người khi đó được giải phóng một cách triệt để, được
tự do phát triển theo những khả năng của mình.



13

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.
Có thể coi hai câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới đây
mang hàm ý rộng lớn, sâu xa, liên quan đến ASXH: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Và “Đảng cần có một kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn
hóa nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [6, tr.23].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ASXH hình thành và phát triển từ rất sớm.
Trong cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, nói về cơng hội Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã viết: “Lại có bất thường phí như để dành lúc bãi
cơng hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ người mất việc làm,
khi ốm đau, tai nạn, hoặc làm những việc cơng ích”. Đây là ý tưởng manh nha
của BHXH, BHYT, ASXH. Ngay sau khi giành được chính quyền, năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Nhà nước ta xây dựng và ban hành
Hiến pháp, trong đó quy định những người già, hoặc người tàn tật không việc
làm thì được giúp đỡ. Trong giai đoạn từ năm 1947 đến những năm 50 của thế
kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo, ban hành một loạt chính sách,
chế độ liên quan đến cán bộ, cơng chức, người lao động như chế độ tiền
lương, phụ phí, chế độ trợ cấp BHXH đối với cán bộ, công chức, viên chức;
chế dộ đãi ngộ quân nhân. Trong những năm 60 của thế kỷ XX, khi tổ chức
cơng đồn phát triển, chế độ BHXH, chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu, tuất được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm chỉ đạo, ban hành. Đây là những yếu tố nền tảng của ASXH.



14

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo đến toàn bộ các lĩnh
vực đời sống, các giai cấp, tầng lớp với tầm nhân văn, nhân sinh rộng lớn.
Hàng loạt bài nói, viết, chính sách chế độ được ban hành từ rất lâu, nhưng đến
nay vẫn còn nguyên tính chỉ đạo và giá trị thời đại như các tác phẩm, bài báo,
bài nói, các chính sách về lao động, việc làm; về dân số - kế hoạch hóa gia
đình; về y tế giáo dục; về tất cả các đối tượng, giai tầng, nghề nghiệp, các đối
tượng đặc thù, khó khăn trong xã hội [6, tr.24].
Như vậy, theo cách nhìn nhận như trên, chúng ta có thể tìm tịi, khám
phá, phát hiện và nhìn nhận những kía cạnh về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có thể khẳng định rằng cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như những tư tưởng xuyên suốt, quán xuyến trong tư tưởng của Người là tất
cả vì dân, vì hịa bình, độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong
điều kiện hồn cảnh nước nhà cịn nhiều khó khăn, Bác Hồ đã quan tâm đến
ASXH cụ thể: Các chính sách liên quan đến thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sỹ, những người đã phải chịu những hy sinh, mất mát vì nền độc lập,
thống nhất của dân tộc. Bác đã nhiều lần nhắc nhở: “Thương binh, bệnh binh,
gia đình qn nhân, gia đình liệt sỹ là người có công với Tổ quốc với nhân
dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu, giúp đỡ
họ, để họ có cuộc sống ổn định, bớt đi những khó khăn của sự mất mát hy
sinh”. Một trong những vẫn đề luôn được Bác quan tâm là vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích của người lao động. Trong bài viết ngày 29/10/1946 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Cơng đồn có nhiệm vụ giữ gìn quyền lợi cho
cơng nhân và giúp cho Chính phủ xây dựng đất nước. Chính phủ Việt Nam
ln là Chính phủ dân chủ vì vậy đã ban hành Bộ luật lao động ấn định giờ
làm, tiền công, bảo vệ đàn bà, người già và trẻ em”. Khi nói đến quan điểm
của Người về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một đối tượng được Bác
quan tâm là phụ nữ và vị trí gia đình trong xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh

cịn thể hiện, thấm đượm trong việc xây dựng, thực hiện chính sách xã hội đối


15

với nhiều đối tượng trong xã hội như người già, trẻ em, thanh niên, trí thức,
cơng nhân, nơng dân, học sinh, sinh viên, đồng bào các dân tộc thiểu số…
Chăm sóc xây dựng và thực hiện tốt chính sách, chế độ cho mọi đối tượng,
mọi tầng lớp trong xã hội chính là ASXH [6, tr.24-25].
Tồn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh thắm đượm tư tưởng vì
nhân dân, vì nhân loại. Lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của Người là hịa bình,
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người Việt Nam và nhân dân lao
động trên thế giới. Người quan tâm đến lợi ích thiết thân, hàng ngày của quần
chúng nhân dân, người lao động. Người nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hiện nay ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social
security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật
ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này
ASXH được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá
nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu
ích để phát triển tài năng đến tột độ.
An sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng hồn thiện về nhận thức
và thực tiễn thực hiện trên toàn thế giới. ASXH theo quan điểm của một số tổ
chức quốc tế cũng có mức độ rộng, hẹp và đối tượng hướng tới khác nhau:
Theo Liên hiệp quốc, ASXH tiếp cận trên quyền của người dân (Điều
25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi người dân và hộ gia
đình đều có quyền có mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao
gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và
có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa

phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…” [40, tr.11].
Theo Ngân hàng thế giới (WB) “ASXH là những biện pháp của chỉnh
phủ nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiền


16

chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và
những bấp bênh thu nhập” [40, tr.11].
Thuật ngữ ASXH cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận:
“ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua
một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và
xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; bảo đảm chăm sóc y tế
và trợ cấp cho các gia đình đơng con” [40, tr.11].
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cũng cho rằng “ASXH là các
chính sách, chương trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có
hiệu quả thị trường lao động giảm thiểu rủi ro của người dân và nâng cao
năng lực của hộ để đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. ASXH
có 5 hợp phần: (i) các chính sách và chương trình thị trường lao động; (ii) bảo
hiểm xã hội; (iii) trợ giúp xã hội; (iv) quỹ hỗ trợ phát triển cộng đồng và (v)
bảo vệ trẻ em [40, tr.12].
ASXH là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên
có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, ASXH bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con
người. Đó là các quan hệ hình thành trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định đời
sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội.
Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập

đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già
cũng như các trường hợp bị thiên tai, dịch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu
đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì
dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.


17

Ở Việt Nam, thuật ngữ ASXH được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác
nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an tồn xã
hội. Có quan điểm cho rằng ASXH trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp cơng cộng nhằm giúp đỡ
chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm
quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Dưới góc độ Kinh tế chính trị: ASXH là một khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội (gồm các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Thực chất
đây là hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc
dân (v + m) trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động và
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực hiện định
hướng XHCN và mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Tiếp cận dưới góc độ quan hệ sản xuất: Đây là một hệ thống quan hệ
giữa người với người trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các quan hệ đó gắn
người lao động cần được đảm bảo ASXH, các chủ thể kinh tế, các tổ chức kinh
tế - xã hội và nhà nước trong quá trình tái sản xuất mà trực tiếp là tái sản xuất
sức lao động thông qua các quan hệ phân phối và phân phối lại. Thu nhập quốc
dân và các nguồn lực khác phục vụ cho đời sống con người, phục vụ cho tái
sản xuất sức lao động, đồng thời thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, thể

hiện bản chất chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù diễn đạt khác nhau, các quan niệm về ASXH đều có những
điểm chung sau đây:
Một là, ASXH là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thơng
qua hệ thống các chính sách can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm
các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức
khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, trẻ em, tàn tật…dẫn đến không có thu
nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa
hoặc quy định).


18

Hai là, ASXH là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là
chính, ngồi ra cịn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị
trường trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính
sách này hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên
được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến
nhóm đối tượng yếu thế (lý dó chính để có sự tham gia của nhà nước).
Ba là, ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó,
phạm vi của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện (cơ bản đáp ứng được
nhu cầu ASXH của người dân một cách toàn diện).
* Các nguyên tắc của ASXH
Thứ nhất: Nhà nước quản lý hoạt động ASXH
+ Nhà nước có trách nhiệm tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối
với các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập, ngay từ đầu Nhà nước đã thành
lập Ban chỉ đạo thực hiện các chính sách về ASXH
+ Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều
chỉnh các hoạt động của ASXH; việc ban hành các văn bản, các chính sách,
pháp luật về ASXH tạo sự đồng bộ, thống nhất thực hiện từ Trung ương đến

địa phương.
+ Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của ASXH.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát là cách ngăn ngừa tốt nhất những vi
phạm, sai sót trong q trình tổ chức thực hiện cơng tác ASXH,
+ Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về ASXH.
+ Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động ASXH
trong phạm vi cả nước.
Thứ hai: Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc mất khả
năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất việc làm, do gặp
thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác.


19

Thứ ba: Thực hiện ASXH trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ
giúp của tồn xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng. Cùng với ngân sách nhà nước
và sự tham gia đóng góp của các thành phần trong xã hội và các tổ chức nước
ngoài và bằng chính sự tham gia, đóng góp của người thụ hưởng các chính
sách này.
Thứ tư: ASXH khơng nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện
mục đích xã hội vì cộng đồng.
Thứ năm: Mức ASXH nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho
những người thụ hưởng.
1.1.2. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội
Về thuật ngữ “Đảm bảo an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành
những từ khác nhau, mặc dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được
dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh: Social Security; tiếng Pháp:
Securite Sociale) nên có tài liệu dùng tên gọi là: Bảo đảm xã hội, An toàn
xã hội, Bảo trợ xã hội hoặc Đảm bảo an sinh xã hội. Để tránh lẫn với cụm

từ “Trật tự an toàn xã hội”, mà ở nước ta hay dùng với một ý nghĩa khác.
Trong bài viết này tác giả sử dụng cụm từ “Đảm bảo an sinh xã hội” cho
nội dung này. Theo nghĩa chung nhất Social Security là sự đảm bảo thực
hiện các quyền của con người được sống trong hồ bình, được tự do làm
ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khn khổ luật pháp; được
bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có
nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết
yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già... Theo nghĩa này thì tầm “bao” của
Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa
như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là
sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho
người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô


20

đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người
bị thiên tai, địch hoạ...
Tại Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã
hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng
cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến
ASXH và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Những năm sau đó, mặc dù trong điều
kiện cịn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đến công tác bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội.
Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống ASXH
và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: đảm bảo
ASXH là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có

khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống.
Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội
hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội
sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các
đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hồ nhập tốt hơn vào cộng
đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo
thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng. Tập trung
triển khai có hiệu quả các chương trình xố đói, giảm nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hố các nguồn lực và phương
thức xố đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát
triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xố đói, giảm nghèo bền
vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thốt nghèo vươn lên làm giàu
và giúp đỡ người khác thoát nghèo. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng


21

với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những
người và gia đình có cơng. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách
người có cơng, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ
trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến.
Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có cơng tích cực tham gia
phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao
hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.
Gần đây nhất tác giả PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Hiệu trưởng Trường
đại học kinh tế (Đại học quốc gia Hà Nội) trong bài: “ Kinh nghiệm phát triển
kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Tuyên
giáo số 1/2013 đã nêu khái niệm về đảm bảo ASXH: Đảm bảo ASXH là đảm

bảo cuộc sống an bình, hạnh phúc cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, tránh
được sự bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống của người dân. Hệ thống ASXH theo
quan điểm hiện đại là một cấu trúc thống nhất bao gồm năm yếu tố: Bảo hiểm xã
hội; Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội và trợ giúp; Ưu đãi xã
hội. Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa kết quả những cơng trình đã được nghiên
cứu, tác giả luận văn đưa ra quan niệm của mình về đảm bảo ASXH như sau:
Đảm bảo An sinh xã hội là tổng thể các hoạt động của toàn xã hội dựa
trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
nhằm huy động, hình thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các
nguồn lực vật chất, tài chính cho các đối tượng được hưởng chính sách
ASXH, để tạo điều kiện cho họ đảm bảo, nâng cao mức sống vật chất, văn
hóa, tinh thần và tái sản xuất sức lao động.
Cần hiểu rằng theo nghĩa đầy đủ hoạt động đảm bảo ASXH là cơng
việc của tồn xã hội trên một lĩnh vực rất rộng lớn, phức tạp và quan trọng
của toàn bộ đời sống xã hội. Đó là hoạt động mà mục tiêu cao cả của nó là vì
cuộc sống hạnh phúc và các quyền con người trong chế độ ta. Cho nên đảm
bảo ASXH không phải là sự ban phát hay đem đến cho đối tượng nào đó được


22

hưởng thụ những giá trị vật chất mang tính tạm thời giống như một sự cứu trợ
vì lý do của những hồn cảnh khơng may mà đây là hoạt động có ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội mang tính nhân văn hết sức sâu sắc. Nếu xét trong quá
trình tái sản xuất xã hội thì nó thuộc về q trình tái sản xuất sức lao động và
tái sản xuất các quan hệ sản xuất xã hội. Rõ ràng đảm bảo ASXH phản ảnh
bản chất của một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Bởi vậy, ở nước ta đảm
bảo ASXH được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, là sự nghiệp của toàn dân mà đối tượng được hưởng là mọi cơng
dân Việt Nam. Tất nhiên tùy theo hồn cảnh, điều kiện khác nhau việc đảm

bảo ASXH cho tường đối tượng cụ thể sẽ có những nội dung và sự quan tâm
khơng giống nhau. Để xây dựng hồn thiện hệ thống các giải pháp về đảm
bảo ASXH, không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn nhận
đánh giá đảm bảo ASXH về hình thành, vận hành trên nền tảng kinh tế - xã
hội với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan. Yêu cầu việc đảm bảo ASXH là
xuất phát từ thực tiễn khách quan, tất yếu, tự thân đối với mỗi đất nước, mỗi
cộng đồng nếu muốn hướng tới sự phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các chính sách đảm bảo ASXH
hồn thiện vì mục tiêu lâu dài trong phát triển.
Cần khẳng định rằng điều có ý nghĩa quyết định để thực hiện được mục
tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH là việc phải tạo ra được các nguồn lực kinh tế,
vật chất tài chính cần thiết, trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở những bước đầu tiên. Dù cho khi nền kinh tế
còn đang nghèo hay khi đã phát triển nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì
khơng bao giờ có thể giải quyết được các yêu cầu lớn lao của đảm bảo ASXH.
Do đó việc xã hội hóa để tạo ta các nguồn lực sẽ là con đường cơ bản để thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH. Nói cách khác phải coi đó
là trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành phần và tổ chức kinh tế, của tất các
nguồn lực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các hoạt động của
các tổ chức, cá nhân và các thành phần xã hội khác.


23

1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội
1.2.1. Nội dung cơ bản của đảm bảo An sinh xã hội
Ở Việt Nam, việc đảm bảo ASXH là một hệ thống chính sách và giải
pháp được áp dụng rộng rãi để trợ giúp các thành viên trong xã hội đối phó
với những khó khăn khi gặp phải rủi ro dẫn đến mất hoặc suy giảm nghiêm
trọng nguồn thu nhập và cung cấp các dịch vụ chăm sóc về mọi mặt của đời

sống xã hội. Xét về thực chất, hệ thống ASXH là nhằm thực hiện 3 chức năng
chiến lược: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc an sinh xã hội truyền thống
CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI

Các quy định của thị
trường lao động
Chính sách thị trường
lao động chủ động

Nhóm chính sách
ASXH dựa vào đóng
góp: Chính sách về
bảo hiểm

Nhóm chính sách ASXH
khơng đóng góp:
Chính sách về trợ giúp xã hội
và giảm nghèo

Hiện nay tại Việt Nam đang áp dụng phổ biến cấu trúc đảm bảo ASXH
theo 4 nội dung cơ bản sau:
Một là, nhóm thực hiện chính sách thị trường lao động chủ động là các
chính sách về việc làm, giáo dục đào tạo, thơng tin việc làm, tín dụng … cho
đối tượng đang có nhu cầu tìm việc làm, thường là người thất nghiệp, thiếu
việc làm và thậm chí là cả những người đang có nhu cầu tìm việc làm tốt hơn
với mục tiêu nâng cao cơ hội tham gia hoặc tái hòa nhập vào thị trường lao
động. Nguồn tài chính dành cho việc thực hiện các chính sách này thường
được lấy từ thuế và từ đóng góp.



×