Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao kĩ năng đặt câu hỏi theo các mức độ nhận thức của học sinh khi dạy phần văn xuôi ngữ văn 12 tại trường THPT quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 22 trang )

MỤC LỤC
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.

Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Các mức độ nhận thức của học sinh và vai trò của “giao
việc vừa sức”
1.2. Vai trò của kĩ năng đặt câu hỏi vàphân loại câu hỏi trong
dạy học
2. Thực trạng vấn đề
2.1. Nhận xét sơ bộ về các tác phẩm văn xuôi Ngữ văn 12
2.2. Mức độ nhận thức và đặc điểm tiếp nhận của học sinh lớp
12 trường THPT Quan Sơn
2.3. Thực trạng đặt câu hỏi khi giáo viên trường THPT Quan
Sơn dạy các tác phẩm văn xuôi Ngữ văn 12
3. Một số giải pháp nâng cao kĩ năng đặt câu hỏi theo các mức
độ nhận thức của học sinh khi dạy phần văn xuôi Ngữ văn 12
tại trường THPT Quan Sơn.
3.1. Xây dựng các mẫu câu hỏi theo mức độ nhận thức của
học sinh
3.2. Sử dụng câu hỏi song ngữ Việt – Thái
4. Hiệu quả của đề tài
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
1
2
2

3
3
3
3
5
5
5
6
7
7
15
16
18
18
19


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình Ngữ văn, phân môn Đọc văn – nhất là các giờ Đọc hiểu
văn bản có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn tình cảm,
thái độ và năng lực thẩm mĩ cho học sinh. Ở một mức độ nhất định, các tiết Đọc
hiểu văn bản khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh. Niềm u
thích say mê mơn học phần lớn được “tiếp lửa” từ những tiết học này. Tuy nhiên
có những tiết học Ngữ văn không được như mong muốn, hiệu quả tiết học
khơng cao. Hiện thực đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong đó phải kể đến
hạn chế trong kĩ năng đặt câu hỏi của giáo viên.Cá biệt, có những giáo viên sử
dụng câu hỏi không đạt yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm nên chưa đủ sức
lôi cuốn học sinh tham gia giờ học với tinh thần hứng thú, say mê.
Đặc biệt với học sinh khối 12, vấn đề học và hiểu bài rất quan trọng. Câu

hỏi của giáo viên giúp cho học sinh rèn luyện cách suy nghĩ, tự lực, cho phép
học sinh thực hành các khái niệm và quy tắc các em được học đồng thời tạo cơ
hội cho chính chúng ta - người giáo viên - kiểm tra và sửa lỗi ngay tại chỗ. Qua
hệ thống câu hỏi,giáo viên có thơng tin phản hồi để biết được học sinh có hiểu
bài hay khơng.Câu hỏi trong dạy học như một cây cầu dẫn học sinh đến với thế
giới tri thức một cách chủ động, đặc biệt đối với học sinh khối 12 khi các em
phải chuẩn bị thật tốt kiến thức và kĩ năng để thi tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên, để
có một hệ thống câu hỏi phong phú và cách hỏi thực sự hiệu quả giúp phát triển
năng lực của học sinh thì khơng phải giáo viên nào cũng có được. Chính vì vậy
tôi lựa chọn đề tài:
“Một số biện pháp nâng cao kĩ năng đặt câu hỏi theo các mức độ nhận
thức của học sinh khi dạy phần văn xuôi Ngữ văn 12 tại trường THPT
Quan Sơn” để cùng chia sẻ, trao đổi với các đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, bản thân tôi dướng đếnnghiên cứu cấu trúc chương
trình Ngữ Văn 12, khảo sát các tiết dạy văn xuôi Ngữ văn 12 của các thầy cô
trường THPT Quan Sơn để xác định các rào cản khách quan, rào cản chủ quan
khiến học sinh gặp khó trong tiếp nhận tri thức mơn học. Từ đó hình thành các
kĩ năng tiếp nhận văn bản văn xuôi cho học sinh 12 của trường THPT Quan Sơn
từ đơn giản đến phức tạp.Xây dựng hệ thống câu hỏi trong quá trình học tập thu
thập thông tin phản hồi nhằm đánh giá nhận xét đúng đắn hơn về các đối tượng
học sinh.Kiểm tra đánh giá, nhận xét học sinh để điều chỉnh phương pháp dạy
học một cách kịp thời, hợp lí, hướng đến nâng cao hiệu quả dạy học tại trường
THPT Quan Sơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tôi thực hiện nghiên cứu đặc điểm các văn bản văn xuôi Ngữ văn 12; các
tiết dạy phần văn xuôi Ngữ văn 12 của các thầy cô trường THPT Quan Sơn
trọng tâm là cách thức đặt câu hỏi, các dạng câu hỏi mà giáo viên sử dụng cho
các bài, các mục và cho các đối tượng học sinh.
2



4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi kết hợp các phương pháp: Phân tích, tổng hợp;
phương pháp so sánh, kiểm tra đánh giá, nhận xét; đọc, tìm hiểu tài liệu; quan
sát, dự giờ của giáo viên Ngữ Văn cùng chuyên ngành; thực nghiệm sư phạm để
đánh giá tính khả thi của đề tài.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Những kinh nghiệm được đúc rút trong đề tài này là những vấn đề mới mẻ,
bao gồm những mẫu câu hỏi theo mức độ nhận thức và câu hỏi bằng song ngữ
dành cho các em học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế về năng lực tiếng Việt.

3


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Các mức độ nhận thức của học sinh và vai trò của “giao việc vừa
sức”
Năm 1956, Benjamin Bloom, một giáo sư của trường Đại học Chicago đã
đưa ra thang đánh giá về các mức độ nhận thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp. Theo đó, có sáu mức độ nhận thức như sau:
Một là Nhớ (knowledge) – tức khả năng ghi nhớ và nhận diện thông tin.
Nhớ là cần thiết cho tất các mức độ tư duy. Nhớ ở đây được hiểu là nhớ lại
những kiến thức đã học một cách máy móc và nhắc lại.
Hai là Hiểu (comprehension) - khả năng hiểu, diễn dịch, diễn giải, giải
thích hoặc suy diễn (dự đốn được kết quả hoặc hậu quả). Hiểu khơng đơn
thuần là nhắc lại cái gì đó. Học sinh phải có khả năng diễn đạt khái niệm theo ý
hiểu của mình.
Ba là Vận dụng (application) - khả năng sử dụng thông tin và chuyển đổi

kiến thức từ dạng này sang dạng khác (sử dụng những kiến thức đã học trong
hoàn cảnh mới). Vận dụng là bắt đầu của mức tư duy sáng tạo, tức là vận dụng
những gì đã học vào đời sống hoặc một tình huống mới.
Bốn là Phân tích (analysis) - khả năng nhận biết chi tiết, phát hiện và phân
biệt các bộ phận cấu thành của thơng tin hay tình huống. Ở mức độ này đòi hỏi
khả năng phân nhỏ đối tượng thành các hợp phần cấu thành để hiểu rõ hơn cấu
trúc của nó.
Năm là Tổng hợp (synthesis) - Tổng hợp là khả năng hợp nhất các thành
phần để tạo thành một tổng thể/sự vật lớn. Ở mức độ này học sinh phải sử dụng
những gì đã học để tạo ra hoặc sáng tạo một cái gì đó hồn tồn mới.
Sáu là Đánh giá (evaluation) - Đánh giá là khả năng phán xét giá trị hoặc
sử dụng thông tin theo các tiêu chí thích hợp. (Hỗ trợ đánh giá bằng lý do/lập
luận). Để sử dụng đúng mức độ này, học sinh phải có khả năng giải thích tại
sao sử dụng những lập luận giá trị để bảo vệ quan điểm.(5)
Hành trình người thầy dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh tri thức môn học, hình
thành phẩm chất và năng lực vừa là con đường khoa học vừa là một con đường
nghệ thuật. Trong đó, dù hỏi hay giao việc thì người thầy cũng phải tuân thủ
nguyên tắc “giao việc vừa sức”, “câu hỏi vừa sức” bởi đây là nguyên tắc quan
trọng và là yêu cầu chung cho mọi biện pháp dạy học. Câu hỏi phải nằm trong
giới hạn của khả năng tri giác thông tin, ngôn ngữ, hiểu ngữ nghĩa và ý trong
câu, kinh nghiệm cảm nhận các tình huống giao tiếp, năng lực tư duy, tưởng
tượng, khả năng độc thoại,diễn đạt ý nghĩ của học sinh. Có như vậy mới phát
huy được hết khả năng, kích thích phát triển tư duy học sinh.
1.2.Vai trò của kĩ năng đặt câu hỏi và phân loại câu hỏi trong dạy học
Đặt câu hỏi là một trong những kỹ năng hữu ích mà giáo viên cần phát
triển. Trong một tiết dạy, người giáo viên giỏi luôn biết sử dụng nhiều câu hỏi
với nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, người đặt câu hỏi cũng phải có kĩnăng
và hiểu biết thì mới có thể diễn đạt câu hỏi một cách rõ ràng, chính xác, đưa ra
4



câu hỏi đúng thời điểm, phù hợp với nội dung bài học, với mức độ nhân thức
của học sinh để đem lại hiệu quả tối đa, và khai thác câu trả lời để đặt câu hỏi
tiếp theo.Học sinh thường nhận thấy hỏi và trả lời là một hoạt động thú vị, sôi
nổi. Đặc biệt là khi trả lời đúng, các em sẽ tự tin hơn rất nhiều và có cảm giác
thành công. Ngay cả khi những học sinh không được gọi trả lời cũng thấy tự tin
hơn nếu các em cũng nghĩ được câu trả lời đúng. Cảm giác thành công này, cùng
với những lời khen ngợi và tán thưởng của giáo viên sẽ cổ vũ các em rất nhiều.
Câu hỏi được sử dụng ở cả hình thức nói lẫn viết.Trong đề tài này tơi muốn
tập trung phân tích vào các câu hỏi dạng nói của giáo viên (cịn gọi là vấn đáp
hay hỏi đáp). Nhiều chuyên gia giáo dục, kể cả các giáo viên dạy giỏi có kinh
nghiệm đều xem kỹ thuật đặt câu hỏi là một trong những cơng cụ đắc lực. Vì
vậy tìm hiểu, nghiên cứu, trau dồi kĩ năng đặt câu hỏi là một phần rất quan trọng
đối với giáo viên, đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo và sự linh hoạt trong khâu lên
lớp.Hỏi- đáp (còn gọi là vấn đáp) là phương pháp giáo viên đặt câu hỏi và học
sinh trả lời câu hỏi (hoặc ngược lại), nhằm rút ra những kết luận, những tri
thức mới mà học sinh cần nắm, hoặc nhằm tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng,
đào sâu những tri thức mà học sinh đã học. Phương pháp đặt câu hỏi vấn đáp
cung cấp rất nhiều thơng tin chính thức và khơng chính thức về học sinh. Việc
làm chủ, thành thạo các kĩ thuật đặt câu hỏi đặc biệt có ích trong khi dạy học.
(5). Qua hỏi - đáp, giáo viên có thể thu thập được thơng tin mình muốn mà
khơng cần đến bất kì một loại đánh giá viết nào. Vấn đáp là một đặc trưng rất
phổ biến của mọi lớp học và sau mỗi bài giảng, đây là hoạt động dạy học thường
dùng nhất.
Tuỳ theo vị trí của phương pháp vấn đáp trong quá trình dạy học, cũng như
tuỳ theo mục đích, nội dung của bài giảng, người ta phân biệt những dạng vấn
đáp cơ bản sau:Hỏi - đáp gợi mở, hỏi - đáp củng cố, hỏi - đáp tổng kết, hỏi - đáp
kiểm tra. (5) Tuỳ vào mục đích và nội dung bài học, giáo viên có thể sử dụng
một trong bốn hoặc cả bốn dạng phương pháp vấn đáp nêu trên.
Xét trong lĩnh vực dạy học và dựa trên mục đích, chức năng của câu hỏi thì

có thể phân ra các loại câu hỏi sau: Câu hỏi đóng, câu hỏi mở, câu hỏi giả định,
câu hỏi hành động, câu hỏi làm rõ, câu hỏi mở rộng, câu hỏi so sánh, câu hỏi
tóm tắt.
Ngồi cách phân loại trên, dựa trên thang nhận thức Bloom, có thể phân
loại thành những dạng câu hỏi sau: Câu hỏi biết, câu hỏi hiểu, câu hỏi vận dụng,
câu hỏi phân tích, câu hỏi đánh giá, câu hỏi tổng hợp. (4)
Trong đề tài này, tôi chủ yếu xoay quanh các dạng câu hỏi theo thang nhận
thức Bloom nhằm tìm ra hướng đi phù hợp khi giáo viên dạy các văn bản văn
xuôi Ngữ văn 12 đặt trong mối quan hệ với mức độ nhận thức của học sinh.

2. Thực trạng vấn đề
5


2.1. Nhận xét sơ bộ về các tác phẩm văn xi Ngữ văn 12
Mơn Ngữ văn ở trường THPT nói chung, chương trình Ngữ văn 12 nói
riêng là sự tích hợp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Mỗi phân
mơn có vai trị vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kĩ
năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó phân mơn
Đọc văn, nhất là các giờ Đọc hiểu văn bản có tầm quan trọng đặc biệt trong bồi
dưỡng tư tưởng tình cảm và năng lực thẩm mĩ cho học sinh. Bởi vậy khi đưa các
tác phẩm vào trong chương trình, các tác giả biên soạn sách đã công phu lựa
chọn những tác phẩm giàu giá trị thẩm mĩ, giá trị nhận thức, giá trị giáo dục…
Các tác phẩm văn học được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 12 bao gồm
hai loại lớn là thơ và văn xi; trong đó có các thể khác nhau ở các giai đoạn:
Sau cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 và từ 1975 đến hết thế kỉ XX; thuộc
văn học Việt Nam và văn học nước ngồi.
Trong khn khổ đề tài này, tôi chỉ hạn định nghiên cứu kĩ năng đặt câu hỏi
trong các tiết văn xuôi Ngữ văn 12 thuộc phần văn học Việt Nam (không kể
những văn bản đọc thêm và văn học nước ngoài). Chương trình gồm những tác

phẩm:Người lái đị sơng Đà(Nguyễn Tn),Ai đã đặt tên cho dịng sơng?(Hồng
Phủ Ngọc Tường),Vợ chồng A Phủ(Tơ Hoài),Vợ nhặt(Kim Lân), Rừng xà
nu(Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình(Nguyễn Thi),Chiếc
thuyền ngồi xa(Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba, da hàng thịt(Lưu Quang
Vũ).
Những tác phẩm nêu trên gồm các thể loại: Bút kí, tùy bút, truyện ngắn và
kịch; đều là những tác phẩm mang giá trị thẩm mĩ cao. Mặt khác, những tác
phẩm này không chỉ thực hiện sứ mệnh của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ
đơn thuần mà qua đó, học sinh vừa thấy được đặc trưng trong sáng tác của mỗi
tác giả, diện mạo riêng của mỗi giai đoạn văn học; thấy được biểu hiện sinh
động quá trình vận động của đời sống văn học trong tiến trình lịch sử. Qua tiếp
cận các tác phẩm văn học trên, học sinh vừa được học VĂN vừa được học về
ĐỜI bởi khả năng liên hệ thực tiễn được gợi ra từ các tác phẩm ấy rất lớn. Điều
đó cũng đồng nghĩa với việc những thách thức đặt ra cho giáo viên càng cao,
càng khó khi dạy văn xuôi Ngữ văn 12.
2.2. Mức độ nhận thức và đặc điểm tiếp nhận của học sinh lớp 12 trường
THPTQuan Sơn
Trường THPT Quan Sơn là một trong những trường thuộc huyện miền núi
cao của tỉnh Thanh Hóa, được thành lập năm 1999. Đa số học sinh nhà trường
đều là học sinh dân tộc Thái. Hầu hết các em học sinh này đều sinh sống ở các
xã vùng sâu vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn. Tuy các em được tiếp xúc với
tiếng Việt ở nhà trường từ nhỏ nhưng sự tiếp xúc đó khơng thường xun, chỉ
giới hạn trong những tiết học ngắn ngủi trên lớp. Trong thực tiễn giao tiếp và
sinh hoạt, các em học sinh dân tộc thiểu số chủ yếu sử dụng tiếng mẹ đẻ và chỉ
thành thạo tiếng mẹ đẻ nên việc tiếp nhận, lĩnh hội tri thức vướng phải nhiều
khó khăn, cả trong q trình lĩnh hội và tạo lập văn bản. Vốn từ tiếng Việt của
các em hầu hết mới chỉ đạt ở mức đảm bảo giao tiếp cơ bản, với những từ ngữ
6



thông dụng nhất trong giao tiếp hàng ngày. Khi học Ngữ Văn – các em phải tiếp
nhận và tạo lập bằng vốn tiếng Việt mang tính nghệ thuật cao – thì hầu hết các
em học sinh dân tộc Thái ở trường THPT Quan Sơn cảm thấy khó khăn, quá sức.
Mặt khác, điểm đầu vào của các em khi thi vào lớp 10 rất thấp (trường
THPT Quan Sơn ln thuộc nhóm các trường có điểm chuẩn thi vào lớp 10 thấp
nhất tồn tỉnh). Điều đó chứng tỏ mặt bằng kiến thức nền tảng của các em khơng
cao.Đến lớp 12, có một số em học tốt môn Ngữ văn nhưng tỉ lệ học khá - giỏi
quá ít ỏi.
Hai yếu tố nêu trên khiến các giáo viên Ngữ văn trường THPT Quan Sơn
luôn trăn trở: Làm sao để hướng dẫn các em lĩnh hội được những tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ trong khi năng lực ngôn ngữ và mức độ nhận thức của các em còn
nhiều hạn chế? Làm sao để phát huy được năng lực của những em có tố chất
ngay trong lớp học đại trà?
2.3. Thực trạng đặt câu hỏi khi giáo viên trường THPT Quan Sơn dạy các
tácphẩm văn xuôi 12
Hiện nay trường THPT Quan Sơn có 06 giáo viên Ngữ văn. Trong đó, 05
giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy từ 10 năm trở lên, 01 giáo viên mới được
tuyển dụng, đang trong thời gian tập sự; 02/06 giáo viên là người dân tộc Thái ở
địa phương; 05/06 giáo viên đã hồn thành chương trình tiếng chữ dân tộc Thái,
có chứng chỉ do Sở giáo dục đào tạo Thanh hóa cấp; 06/06 giáo viên có thể giao
tiếp bằng tiếng Thái. Qua khảo sát thực tế và tiến hành dự giờ đồng nghiệp khi
dạy phần văn xuôi Ngữ Văn 12, tôi nhận thấy:
Về thế mạnh:
- Tất cả các giáo viên nắm vững chuẩn kiến thức, kĩ năng của mỗi bài học,
thể hiện trong việc chuẩn bị giáo án chu đáo, triển khai bài dạy logic, khoa học.
- Hầu hết giáo viên vận dụng phương pháp dạy học sáng tạo, linh hoạt phù
hợp với đặc điểm bài học, do đó đó phát huy được tính tư duy độc lập cho học
sinh, giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài học và rèn luyện tốt kĩ năng cho
các em.
Về hạn chế:

- Nhiều khi giáo viên đặt câu hỏi cịn dập khn, đơn điệu, gị bó khiến học
sinh trả lời và tiếp thu một cách thụ động.
- Hệ thống câu hỏi thiếu khoa học, chưa tạo được “tình huống có vấn đề”
để kích thích tư duy, khả năng sáng tạo của học sinh. Đôi khi câu hỏi mà giáo
viên đặt ra rất khó hiểu, mơ hồ, ngay cả đến giáo viên dự giờ cũng cảm thấy
lúng túng, hoặc hệ thống câu hỏi đưa ra đa phần là câu hỏi nhận biết, chỉ tập
trung tái hiện kiến thức chứ không phong phú đa dạng, câu hỏi không phù hợp
với các mức độ nhận thức khác nhau của các đối tượng học sinh.
- Có giáo viên chưa biết khai thác tận dụng triệt để và linh hoạt các câu hỏi
trong sách giáo khoa.
- Có những câu hỏi chứa các từ học sinh dân tộc Thái khơng hiểu được vì
vốn từ tiếng Việt của các em cịn nghèo nàn dẫn đến việc khơng trả lời được câu
hỏi.
7


- Có những học sinh “bị bỏ rơi” trong lớp học do giáo viên đặt câu hỏi quá
sức với các em; có những em học sinh trở thành “chủ cơng” trong suốt tiết học
khi giáo viên đưa ra câu hỏi chỉ nhóm khá giỏi trả lời được.
Do có những hạn chế trong khâu đặt câu hỏi từ phía giáo viên nên chưa tạo
được sự tương tác giữa giáo viên và học sinh và giữa các học sinh với nhau để từ
đó phát triển tư duy đa chiều, đặc biệt chú trọng phát triển các năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực giao tiếp ở học sinh. Những hạn chế đó khiến khơng khí
và hiệu quả dạy học các tiết văn xuôi Ngữ văn 12 không được như mong muốn
của cả người dạy và người học.
3. Các giải pháp nâng cao kĩ năng đặt câu hỏi theo các mức độ nhận thức
của học sinh khi dạy phần văn xuôi Ngữ văn 12 tại trường THPT Quan
Sơn.
3.1. Xây dựng và vận dụng linh hoạt các mẫu câu hỏi theo mức độ nhận thức
của học sinh

Với mỗi mức độ nhận thức, có những “câu lệnh” riêng để dẫn dắt, định
hướng học sinh chiếm lĩnh tri thức.Trong dạy học phần văn xuôi Ngữ văn 12,
dựa vào mục tiêu bài học và các mức độ nhận thức khác nhau của các em học
sinh mà giáo viên xây dựng cho mình hệ thống câu hỏi hợp lí để áp dụng cho
từng phần, từng mục.
a. Câu hỏi Nhớ:
Thông thường, ở trường THPT Quan Sơn, trước khi học mỗi văn bản, học
sinh được giao việc tự đọc sách giáo khoa và soạn bài ở nhà. Văn bản văn học vì
thế ít nhiều đã được các em “đào xới” một lần dù nơng hay sâu. Các em ít nhiều
nhớ được các chi tiết, hình ảnh, các ý cơ bản liên quan đến tác giả, tác phẩm ở
phần Tiểu dẫn. Giáo viên nên sử dụng các câu hỏi mang tính ghi nhớ, phát hiện,
“đọc là thấy”, “nhìn là biết”như:
- Dựa vào Tiểu dẫn trong sách giáo khoa, em hãy nêu những thông tin cơ
bản về cuộc đời và sự nghiệp nhà văn? (Theo đó, giáo viên có thể dẫn dắt cụ thể
về những thông tin mà học sinh cần nêu, chẳng hạn như: tên tuổi, quê quán, yếu
tố gia đình, yếu tố quê hương, yếu tố thời đại, đề tài chính, các tác phẩm tiêu
biểu, phong cách nghệ thuật…). Dựa vào câu lệnh của giáo viên, học sinh bằng
trí nhớ hoặc dựa vào sách giáo khoa có thể đưa ra câu trả lời về những kiến thức
nền, chẳn hạn như:
- Với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, cũng từ câu hỏi trên, học
sinh dựa vào sách giáo khoa, có thể đưa ra câu trả lời:
+ Lưu Quang Vũ (1948 - 1988), quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức, năng khiếu nghệ thuật được bộc lộ từ nhỏ. Lưu
Quang Vũ là nghệ sĩ đa tài. Từ 1978 – 1988, một nguồn sáng tạo mạnh mẽ đột
khởi bùng cháy dưới ngòi bút Lưu Quang Vũ khiến ông gây chấn động dư luận,
từ đó trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu Việt Nam. (1)
+ Các các phẩm chính: “Hương cây”, “Mây trắng của đời tôi”, “Bầy ong
trong đêm sâu”, “Sống mãi tuổi mười bảy”, “Lời nói dối cuối cùng”, “Nàng Xi ta”, “Chết cho điều chưa có”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”…
8



- Với tác phẩm “Vợ nhặt”, câu hỏi Nhớ như trên sẽ định hướng các em
nhận biết:
+ Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh bắc Ninh. Do hồn cảnh gia đình khó
khăn, chỉ học hết tiểu học nhưng với tố chất nghệ thuât, Kim Lân đã cống hiến
hăng say cho văn chương và cách mạng.
+ Kim Lân thường viết về nông thôn và người nơng dân, ơng có những
trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê với những “thú đồng quê”,
“phong lưu đồng ruộng”. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm
của Kim Lân vẫn thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam
nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thơng minh, hóm
hỉnh, tài hoa.(1)
+ Tiêu biểu là hai tập truyện: “Nên vợ nên chồng”, “Con chó xấu xí”.
Dạng câu hỏi mang tính nhận biết này cũng được dùng để hướng dẫn khai
thác thông tin nền về tác phẩm, về chi tiết, hình ảnh…Mẫu câu hỏi thường dùng
là:
- Dựa vào phần Tiểu dẫn, em hãy nêu những thông tin cơ bản về tác phẩm
(đoạn trích)? (Giáo viên định hướng linh hoạt tùy từng văn bản: Xuất xứ, hoàn
cảnh sáng tác, đề tài, …).
- Em hãy tìm những chi tiết nói về…?
- Câu, từ, hình ảnh nào trong tác phẩm chứng tỏ…?
Với mẫu câu hỏi ấy, học sinh dễ dàng tìmđược:
+ Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965, ra mắt lần đầu tiên trên
tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ số 2/1965, sau đó in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. (1)
+ “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con
chó xấu xí” (1962). Tiền thân của tác phẩm là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – một
tác phẩm được tác giả viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị thất lạc bản
thảo. Sau khi hịa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ
để viết truyện ngắn này.

Bằng câu hỏi Em hãy tìm những chi tiết nói về…? Câu, từ, hình ảnh nào
trong tác phẩm chứng tỏ…?, giáo viên cũng thôi thúc được các em đọc văn bản
để nhận diện chi tiết, câu từ, hình ảnh. Chẳng hạn:
Em hãy tìm những chi tiết nói về cuộc sống của Mị trước khi trở thành con
dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra?(2). Học sinh có thể tìm được các chi tiết, hình
ảnh:
+ Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên mơi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
+ Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.
+ Khi Pá Tra đề nghị bố Mị “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao
xóa hết nợ cho”, Mị trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm
nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
9


Em hãy tìm những chi tiết, hình ảnh nói về ngoại hình của nhân vật Người
đàn bà hàng chài?(2). Bằng việc đọc văn bản, học sinh có thể tìm được các chi
tiết, hình ảnh:
+ Thân hình cao lớn nhưng thơ kệch.
+ Gương mặt với những nốt rỗ chằng chịt.
+ Nửa thân dưới ướt sũng; lưng áo bạc phếch, rách rưới, khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng để kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ.
Trong tác phẩm, nhiều lần tác giả nhắc đến xà nu. Em hãy cho biết, xà nu
được nhắc đến ở những góc độ nào? Cũng qua việc đọc, nhận biết, phát hiện,
học sinh có thể thấy, xà nu được khắc họa ở những góc độ sau: Rừng xà nu, đồi
xà nu, lửa xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, dầu xà nu…
Bởi đặc điểm “đọc là thấy”, “nhìn là biết” nên những câu hỏi này hướng
đến những em học sinh top cuối, chỉ cần các em chịu khó đọc sách, tìm ý chứ
khơng cần đến khả năng tư duy, giải thích, phân tích, cảm nhận phức tạp.
b. Câu hỏi Hiểu

Dạng câu hỏi này không chỉ dừng lại ở mức nhận biết, ghi nhớ mà học sinh
phải diễn đạt lại kiến thức nào đó theo ý hiểu của mình. Học sinh khơng cịn phụ
thuộc hồn tồn vào sách giáo khoa nữa mà bắt đầu chuyển kiến thức nền thành
kiến thức của mình để tạo lập văn bản qua câu trả lời. Câu hỏi “hiểu” được vận
dụng cả trong phần Tìm hiểu chung và phần Đọc hiểu văn bản. Chủ yếu để học
sinh tóm tắt, so sánh, diễn giải, phân biệt.
Mẫu câu hỏi “hiểu” thường có các cụm từ: Tại sao…? Hãy phân tích…?
Hãy so sánh…? Hãy liên hệ…? Với dạng câu hỏi này, học sinh sẽ bắt đầu phải
suy nghĩ, “động não”. Chẳng hạn:
- Khi dạy phần Tìm hiểu chung của “người lái đị sơng Đà”, giảng về sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, giáo viên định hướng về sự đa dạng mà thống
nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà văn, về sự khác biệt và chuyển biến
trước Cách mạng và sau Cách mạng tháng Tám. Để học sinh hiểu bản chất vấn
đề, giáo viên có thể phát vấn: Tại sao Nguyễn Tuân lại có sự chuyển biến trong
quan niệm nghệ thuật và nhân sinh quan? Câu hỏi này là sự gợi dẫn để chốt lại
vấn đề:
+ Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân ảnh hưởng sâu sắc từ người
cha mình là cụ Nguyễn An Lan – một nhà Nho sinh bất phùng thời, tài hoa bất
đắc chí, ln đối lập mình với xã hội nên chỉ thấy cái đẹp trong quá khứ, cho
rằng chỉ những nhà Nho cuối mùa mới là người tài hoa nghệ sĩ. Bởi bất hòa với
xã hội, giọng văn Nguyễn Tuân có phần lạnh lùng, kiêu bạc. Nhưng sau cách
mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân được hòa mình vào đời sống chiến đấu và lao
động của nhân dân, cảm nhận được đời sống gian khó mà sơi động của nhân
dân, được tiếp thêm hơi thở ấm nóng từ thời đại nên đã làm hòa với xã hội rồi
nhận ra: Cái đẹp có trong thực tại, những người dân lao động bình dị cũng là
những người tài hoa nghệ sĩ.
+ Để làm nổi bật vị trí của Nguyễn Minh Châu trong văn đàn dân tộc sau
1975, giáo viên khai thác triệt để nhận định trong sách giáo khoa: “Nguyễn
10



Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới”. Và người thầy giỏi không chỉ nêu vấn đề mà cịn phải đặt
câu hỏi “Vì sao?” để học sinh nhận ra:Trong suốt ba mươi năm chiến tranh
(1945-1975), giới nghệ sĩ chịu ảnh hưởng, chi phối sâu sắc từ bản Đề cương văn
hóa năm 1943, với những nội dung: dân tộc, khoa học, đại chúng; nhân vật
chính là cơng - nơng – binh; chủ yếu là giọng điệu ngợi ca, hạn chế hoặc khơng
được phép nói đến mất mát hi sinh; tình cảm cá nhân phải ẩn sau tình yêu với
quê hương đất nước… Bản Đề cương đó chính là sợi chỉ đỏ làm nên dòng văn
học cách mạng 1945 – 1975. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, đất nước được hịa
bình, độc lập, thống nhất thì lối viết ấy, lối nghĩ ấy khơng cịn phù hợp nữa bởi
“xã hội nào văn học nấy”. Sứ mệnh khác được trao cho nhà văn. Họ cần khai
thác đời sống cá nhân, cần hướng nội, cần viết về đề tài thế sự. Chính Nguyễn
Minh Châu đã nhận ra điều đó. Ơng đã tiên phong tìm tịi sáng tạo và chính là
nhà văn đầu tiên “đọc bản điếu văn cho một nền văn học minh họa”.Những điều
được giả thích trên đây cịn là địn bẩy để khi phân tích tác phẩm, giáo viên giúp
học sinh nhận ra sự khác biệt, lí do khác biệt giữa đề tài, cảm hứng, giọng điệu
của “Chiếc thuyền ngoài xa”, sau này là cả tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng
thit” (thuộc giai đoạn văn học sau 1975) khác hẳn, khác xa với các tác phẩm văn
xuôi đã học trước đó như: “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”, “Những đứa con trong
gia đình”, “Rừng xà nu” (thuộc giai đoạn văn học 1945 - 1975).
Xây dựng và vận dụng thành công mẫu câu hỏi này, giáo viên có thể
dùngcho nhiều đối tượng học sinh, thậm chívừa sức với học sinh yếu và học sinh
trung bình để các em khơng bị “bỏ rơi” trong lớp học.
c. Câu hỏi Vận dụng
Câu hỏi vận dụng là khả năng sử dụng thông tin và chuyển đổi kiến thức từ
dạng này sang dạng khác, là bắt đầu của mức tư duy sáng tạo. Để học sinh phát
huy sự sáng tạo của mình và vận dụng những gì đã học vào tình huống mới, giáo
viên có thể sử dụng những câu hỏi “Hãy nhận xét…?”, “Hãy cho biết…?”, “Hãy
so sánh…?”.

Khi phân tích nhân vật Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa”, sau khi học sinh nêu các chi tiết nói về ngoại hình nhân vật,
giáo viên nêu câu hỏi: Những chi tiết ấy cho em biết điều gì về người đàn bà
hàng chài? Câu hỏi này định hướng để học sinh đưa ra nhận xét sau: Những chi
tiết về ngoại hình cho thấy Người đàn bà hàng chài là người phụ nữ xấu xí,
nghèo khổ, lam lũ, túng quẫn, bất hạnh (khơng chỉ nghèo khổ túng quẫn mới bất
hạnh mà xấu xí cũng chính là điều thua thiệt bất hạnh với người phụ nữ).
Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, sau khi học sinh tìm được những chi tiết
nói về nhân vật Mị trước khi bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thơng lí Pá Tra, giáo
viên phát vấn để định hướng: Em hãy nhận xét về nhân vật Mị (nhan sắc, tâm
hồn, tính cách) trước khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra? Câu hỏi
này sẽ dẫn dắt các em đưa ra đánh giá: Mị là cô gái nhan sắc, tài năng, mang vẻ
đẹp tâm hồn (hiếu thảo, yêu tự do, yêu lao động). Mị xứng đáng được hưởng
hạnh phúc (nhưng cuộc đời cô bị đày đọa, bất hạnh, tuổi xuân bị giam hãm bởi
11


cường quyền và thần quyền kể từ giây phút trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí
Pá Tra).
Với tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, khi giảng về màn đối thoại
giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt, sau khi hướng dẫn học sinh tìm chi tiết về
nội dung đối thoại, ngôn ngữ đối thoại, giọng điệu và cử chỉ khi đối thoại, giáo
viên nêu câu hỏi: Em hãy so sánh tính cách, tâm hồn, ứng xử của hai nhân vật –
Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt? Từ đó định hướng cho học sinh:
Hồn Trương Ba
Cao khiết, trong sạch, thẳng thắn, tồn
vẹn
Nói năng “nặng lời”, xưng hơ “Ta - mày”
Khước từ, tuyệt vọng
Lời thoại ngắn, đứt quãng, đuối lí


Xác hàng thịt
Thơ lỗ, kềnh càng, dung tục, tầm thường
Nói năng nhã nhặn, xưng hơ “Ơng - tơi”
Dụ dỗ, an ủi
Lời thoại dài, lí lẽ sắc sảo

Sự so sánh ấy cho thấy sự đối lập, vênh lệch giữa Hồn trương Ba và Xác
hàng thịt. Ngay trong bản thân nhân vật Hồn Trương Ba cũng có những mâu
thuẫn. Dù Hồn Trương Ba nhận rằng mình cao khiết, trong sạch, thẳng thắn,
tồn vẹn nhưng cách xưng hơ, cách nói năng của nhân vật này lại chứng minh
điều ngược lại. Sự so sánh này sẽ là phông nền để giáo viên đặt câu hỏi tiếp
theo: Em thấy tình cảnh của Hồn Trương Ba ra sao? Và Em có nhận xét gì về
màn đối thoại này? Từ đó, giáo viên hướng học sinh đến những nhận xét đánh
giá:
- Hồn Trương Ba đang rơi vào bi kịch tha hóa, Hồn đang bị Xác chi phối,
lấn át và đang dần đánh mất chính mình.
- Đây là một cuộc đối thoại sinh động, chân thực, quyết liệt, sinh động, lời
thoại độc đáo.
Với tác phẩm “Người lái đị sơng Đà”, khi phân tích nhân vật Người lái đò,
cũng bằng “câu lệnh” so sánh mà giáo viên dẫn dắt học sinh nhận ra sự đối lập
giữa Sông Đà và Người lái đị, trong đó Sơng Đà là phơng nền để làm nổi bật
Người lái đị:
Sơng Đà
- Lực lượng đơng đảo, nham hiểm, hiếu chiến.
- Thua trận.

Người lái đị
- Ông đò đơn thương độc mã.
- Là người chiến thắng.


Từ sự so sánh trên, kết hợp với các chi tiết nói về cách ơng đị phá ba trùng
vi thạch trận, giáo viên tiếp tục nêu câu hỏi: Em nhận xét gì về nhân vật Người
lái đị sơng Đà? Câu hỏi này hướng đến kết luận: Ơng đị là một “tay lái ra hoa”,
một nghệ sĩ thực thụ nơi ải nước, là thứ “vàng mười đã thử lửa” (theo cách nói
của Nguyễn Tuân)
Giáo viên nên dùng dạng câu hỏi này hướng đến những em học sinh khá
giỏi để phát huy năng lực nhận xét đánh giá vấn đề ở các em.
d. Câu hỏi Phân tích
Câu hỏi phân tích là loại câu hỏi đòi hỏi khả năng phân nhỏ đối tượng
thành các phần nhỏ để tìm hiểu cặn kẽ, thấu đáo, tồn diện.Để học sinh rèn
12


luyện kĩ năng và lối tư duy phân tích, giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi như:
Em hãy cho biết… thể hiện ở những phương diện nào? Tại sao lại nói…?
Khi làm nổi bật vẻ đẹp của dịng sơng Hương trong mối quan hệ với dịng
chảy văn hóa, giáo viên có thể nêu câu hỏi: Vẻ đẹp sơng Hương trong chiều sâu
văn hóa Huế được thể hiện ở những phương diện nào? Câu hỏi này sẽ đòi hỏi
học sinh chia nhỏ thành các khia cạnh sau:
- Sông Hương - dịng sơng âm nhạc: Sơng Hương là tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya, là người con gái tài hoa trong âm nhạc. Âm nhạc cổ điển Huế “vốn
sinh thành trên mặt nước của dịng sơng này, trong khoang thuyền nào đó, giữa
tiếng nước rơi bán âm của mái chèo khuya”. Sông Hương là nguồn cảm hứng để
Nguyễn Du tả tiếng đàn của nàng Kiều: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên
quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều”. Dịng sơng chính là cái nơi sinh thành nên nền âm nhạc cổ điển Huế.
- Sơng Hương - dịng sơng thi ca: Nó là nguồn cảm hứng khơng bao giờ vơi
cạn đối với các thi sĩ: tản Đà, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Tố
Hữu.Sông Hương cũng không lặp lại mình trong sáng tác của các thi sĩ.

Trong khi giảng tác phẩm “Vợ nhặt”, trước khi phân tích tình huống truyện
và các nhân vật để làm nổi bật chủ đề tư tưởng truyện, người thầy cần định
hướng học sinh nhận ra bối cảnh làm phông nền cho thiên truyện bằng câu hỏi:
Tại sao lại nói câu chuyện “nhặt vợ” được xây dựng trong một bối cảnh đặc
biệt? Bằng sự dẫn dắt, người thầy có thể định hướng cho học sinh phân tích bối
cảnh trên hai phương diện chính là thời gian và không gian nghệ thuật:
- Thời gian nghệ thuật: Kim Lân chọn nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu
1945 - “…năm mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe
và cảm thấy kinh hồng”.
- Khơng gian nghệ thuật: Bối Bối cảnh nạn đói được tái hiện rõ nét qua
cách nói đầy ấn tượng - Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Động từ “tràn”
cho thấy sức mạnh như thác lũ của trận đói lịch sử tàn phá, càn quét ghê gớm; đi
đến đâu gây ra thảm cảnh chết chóc đói khổ ở đó. Nhà văn đã dụng cơng khắc
họa cụ thể, sinh động qua cả màu sắc, đường nét, âm thanh, mùi vị:Sáng nào
cũng có ba bốn thây người nằm còng queo bên đường; màu xanh xám của da
người sắp chết đói, màu đen kịt của bầy quạ trên trời; tiếng quạ… gào lên từng
hồi thê thiết; tiếng hờ khóc vẳng ra từ những nhà có người chết đói; mùi ẩm
thối của rác rưởi, mùi gây của xác người, mùi khét lẹt của những đống rấm mà
người ta đốt lên xua tử khí.
Việc phân tích này rất quan trọng đối với quá trình chiếm lĩnh tri thức bài
học và việc hình thành phẩm chất, kĩ năng cho học sinh. Bối cảnh truyện đã phơi
bày hiện thực rất chân thực, sinh động. Hơn thế nữa, nhà văn tìm thấy ánh sáng
của tình người, ánh sáng của niềm tin và khát khao hạnh phúc, tìm thấy vẻ dẹp
của tâm hồn con người trong đêm tối của nạn đói thảm khốc. Đó là giá trị cốt lõi
của tác phẩm.

13


5K


J R9

O>

Z I8

J

I

h @

J % I
J h /

h

>B. h &

* &%

!% : 0 Y G
!%
* K5
I J
L @ J
)
g z
* K ?.

Jd & >
>;
+] I :2

> ƒC

# r
>

:[

a

Y

Y
Ru

Mt

+=

> 2 RY
&
% h
C :• ? ,
&

LK & % S+ A8 1
9 & 0 . K q T >2

!
S+ F+ > %
0 1 :z
T
U
R
9
: ;
Z
h+ >, =
I J 0 & q
} I8 J
L ,
2 F/
.d
1d LK
>2 ` L / d ` L
K
g $
Y d • z >
U ?M , I
)
f :d S 0
E, & % S+ A• z H
g t
!% -.
/
G
2
; -. V


g

- L1
` & >B. h &

/

t
O

&

)

01

q LzAV

h

;

% [

Y : ; > ƒCd zLAV

L

!

g
* K
. R9
; PQ

/

1 >

0 &

+=

?

& +Z % Y /^
+, a ^ /

% I
I ;>
> ~
?&
+2 >, T > 2 w % & 2
+S +Fw & = >
^P -. # r
?
.
& >!w & = .- # r
? , I
L2

.@ &
L2 d & >
h * . ?. L
[
q

I

P.Cd /. 0

Y+ ? , RO
% k

/

k

L2
/@

-.

-.

1

|V H

; PQ t
!%q # r :

-.
U w 1 . >,
U M L
I >; L h
>
= /
d RO :N ? , 0 & >
Y
U
R
d# r
z A>j
U
‡Cd & >
h * f
,
LY N
-. T/ V $ >
M U 0
I Jq
K

U
=

/

-.

T/


> >s †% @
# -(

)

5 , N/ f

& > d
/
/• ; .?q XT V $
2 : >, /N I
N 9 -L
? g d :K
+=
U
& +m d /.L g
d Lw ! Y+ ;
uR
I+ i
d1
. -. V
# -(
M U
I8 J
0 T
v /^
*
/
h &

g R. ` & 9
0 . K
=
+ @
! ^/
*At
!%C >
2
; 8 ‰
K 0
LK & % S+ A( U :& @ T/
C d /. 0
,
]
/
% I
d Y+ ; > @ /T
RK d & >
h * H I Jq
` & q M&
>G ;>
` I Nd /

*

Y r
T
. d >€

?


g

Y
; d I+

2
-.
K

/T

;

I

h. >, >
*+ ?9d

I8

5K
L0
.- h n A C+ )
* 1d ) 0 . K
& M T ` . : K I J L + & Z+
/

0


J

L:
T B/
RK
.
d
!
$ :s
0 & J % &

g. 0 h. * 0 . +9 &
g R.
=
* & 2
+= :
L- ` & (
:F >N
2
;
L ./ d
v
* * Rg
L ! 0 Y

q

,

-.


]


năng bản thân, các em học sinh có mức độ nhận thức thấp hơn qua đó cũng được
trau dồi kĩ năng, lâu dần sẽ tạo được thói quen tư duy tổng hợp khơng chỉ trong
học Văn mà cịn cả trong các lĩnh vực khác.
g. Câu hỏi Đánh giá
Là câu hỏi dùng để khơi gợi ở học sinh khả năng phán xét giá trị hoặc sử
dụng thơng tin theo tiêu chí thích hợp. Những câu hỏi này mang tính vận dụng
cao để tổng kết, đánh giá. Không đơn thuần chỉ là bộc lộ quan điểm của bản thân
trước vấn đề được đề cập tới mà còn là khả năng mở rộng liên hệ để rút ngắn
khoảng cách giữa kiến thức sách vở và thực tiễn đời sống.
Mẫu câu hỏi thường là: Thơng qua… tác giả thể hiện quan điểm gì? (Gửi
gắm điều gì, đối thoại điều gì với bạn đọc?) Nếu là… em sẽ như thế nào?
Với tác phẩm “Người lái đị sơng Đà”, sau khi phân tích hình tượng sơng
Đà vừa hung bạo vừa trữ tình thì bằng câu hỏi “Qua hình tượng Sơng Đà, nhà
văn Nguyễn Tn muốn gửi gắm điều gì?”. Câu hỏi hướng học sinh đúc kết:
Sơng Đà chứa đựng hai trạng thái đối lập mà thống nhất, ấy là cái đẹp ấn tượng
mạnh mẽ. Nhưng đó khơng chỉ là dịng sơng cụ thể, đơn thuần mà rộng hơn,
Sơng Đà cịn là hình ảnh kì vĩ tráng lệ của non sơng đất Việt. Qua đó thể hiện
tình yêu và niềm tự hào của Nguyễn Tuân với quê hương đất nước.Với hình
tượng Người lái đị, cũng mẫu câu tương tự, người thầy sẽ định hướng để học
sinh nhận thấy: Qua hình tượng Người lái đị, Nguyễn Tn thể hiện quan điểm
nghệ thuật, quan điểm thẩm mĩ – cái đẹp có trong thực tại, chỉ cần hồn thành
tốt cơng việc của mình thì những người lao động bình dị cũng trở thành nghệ sĩ
tài hoa. Nguyễn Tuân đã ngợi ca, tự hào về người lao động đất Việt.
Với tác phẩm “Hồn Trương Ba – da hàng thịt”, khi phân tích màn đối thoại
giữa hồn và xác, giáo viên có thể phát vấn để biết được sự đánh giá của học
sinh. Câu hỏi đưa ra là:Qua cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng

thịt, Lưu Quang Vũ muốn nhắn nhủ điều gì với bạn đọc?(3). Câu hỏi trên định
hướng, dẫn dắt học sinh đến với những triết lí sâu sắc của nhà văn về cuộc đời,
về con người:Phê phán mạnh mẽ lối sống lệch lạc, phiến diện, trái tự nhiên;
đồng thời thể hiện khát vọng được cất lên tiếng nói khẳng định nhu cầu trần tục,
tự nhiên của con người. Lưu Quang Vũ quan niệm: Phải biết quan tâm chăm sóc
cả phần hồn lẫn phần xác. Cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa, chỉ hạnh phúc khi con
người được sống tự nhiên, tồn vẹn, hịa hợp giữa thể xác và linh hồn.Nhà
văncũng truyền cho bạn đọc thông điệp: Hãy luôn vươn lên đấu tranh chống lại
những dung tục tầm thường để sống cuộc sống tốt đẹp hơn; không thể sống bằng
mọi giá, không thể sống hèn hạ bởi nếu sống khơng được là mình thì cịn tệ hơn
cả cái chết.
Sự đánh giá không chỉ là quan điểm thái độ của học sinh trước đối tượng
thẩm mĩ mà còn là khả năng học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống.
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc mảng đề tài đời tư thế sự, phản ánh
một thực tế phổ biến trong xã hội và vẫn mang tính thời sự cao – vấn nạn bạo
lực gia đình, sự nghèo khó túng quẫn của đa số nhân dân mà nạn nhân chịu
nhiều thiệt thòi nhất là người phụ nữ. Người thầy có thể mở rộng liên hệ bằng
15


câu hỏi: Nếu là em là người đàn bà hàng chài, khi gặp hoàn cảnh túng quẫn,
bạo lực như vậy em sẽ làm gì?Vì sao em lại ứng xử như vậy?(3). Khi đó, học
sinh sẽ đưa ra những ý kiến quan điểm của bản thân. Cách xử lí tình huống, cách
ứng xử của mỗi em mỗi khác bởi mỗi em có một lí lẽ riêng. Đó cũng chính là sự
tự đánh giá.
Hệ thống câu hỏi trên được sắp xếp theo các mức độ nhận thức từ thấp đến
cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo viên có thể linh hoạt vận
dụng ứng với các đối tượng học sinh. Khi xây dựng được hệ thống câu hỏi theo
mẫu như vậy, người thầy sẽ chủ động trong quá trình dạy học. Tùy vào mục tiêu
của từng phần, từng mục trong bài học, ứng với các mức độ nhận thức khác

nhau của học sinh mà người thầy vận dụng linh hoạt vào quá trình giảng dạy.
3.2. Sử dụng câu hỏi song ngữ Việt - Thái
Bản thân học sinh dân tộc thiểu số nói chung, học sinh dân tộc Thái trường
THPT Quan Sơn nói riêng, có những rào cản, những thiệt thịi nhất định khi học
tập. Trong đó phải kể đến rào cản ngôn ngữ khi các em học Ngữ văn – mơn học
sử dụng ngơn từ nghệ thuật, hình tượng - bằng ngôn ngữ thứ hai. Điều này dẫn
đến hiện tượng học sinh không hiểu hết nghĩa của các từ trong câu hỏi do vốn từ
của các em chưa phong phú. Do đặc trưng môn học, giáo viên cũng không thể
dùng từ ngữ khác nôm na để diễn đạt câu hỏi của mình. Khi ấy, việc dùng song
ngữ khi nêu câu hỏi là một hướng đi phù hợp.
Chẳng hạn khi dạy bài “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, trong câu hỏi
“Thủy trình của sơng Hương được nhà văn miêu tả qua những chặng nào?”, kể
cả khi giáo viên dùng cách hỏi khác - thay thế từ “thủy trình” bằng “dịng chảy
tự nhiên” thì học sinh vẫn khó hiểu vì các em dân tộc Thái ít gặp các từ này kể
cả trong giao tiếp. Nút thắt ngôn ngữ sẽ được gỡ khi giáo viên nêu câu hỏi bằng
tiếng Thái: “em* {N* iN* yl caJ LaN m&IG AL?”. Ngay cả câu hỏi “Tại
sao lại nói câu chuyện “nhặt vợ” được xây dựng trong một bối cảnh đặc biệt?”
được sử dụng trong bài giảng “Vợ nhặt” cũng khó hiểu khi từ “bối cảnh” được
diễn đạt là “thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật”. Câu hỏi bằng tiếng mẹ
đẻ để các em hiểu sẽ là: “LaG iN* yd* S*IN AS AL, uj& it* Ad?”.
Từ thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Quan Sơn hơn 10 năm, bản thân
tôi tổng hợp được một số câu hỏi song ngữ phổ biến như sau:
Tác phẩm
Câu hỏi tiếng Việt
Câu hỏi tiếng Thái
Người lái đị sơng Em hãy tìm những chi tiết nói về Xoc LaN kod Ux b*a EM
Đà
trùng vi thạch trận trên sông.
LaN ec*G T*aG T&iG em*
{N*.

Ai đã đặt tên cho Thủy trình của sơng Hương em* {N* iN* yl caJ LaN
dịng sơng?
được nhà văn miêu tả qua những m&IG AL?
chặng nào?
Vợ chồng A Phủ
Em hãy chứng minh rằng: Từ [c& et& EM #Od Luc AP*
khi về làm dâu nhà thống lí Pá EHN p&a Sa, AL iM* #L
Tra, Mị bị tê liệt ý thức làm BZ/G uH* w&IN, BZ/G
người, ý thức phản kháng và ý piN q, BZ/G uH* UM uH*
niệm thời gian?
GiN ?

16


Tác phẩm
Vợ nhặt

Câu hỏi tiếng Việt
Tại sao lại nói câu chuyện “nhặt
vợ” được xây dựng trong một
bối cảnh đặc biệt?
Rừng xà nu
Những biểu hiện nào chứng tỏ
Tnú mang phẩm chất của người
anh hùng?
Những đứa con “Dịng sơng truyền thống” trong
trong gia đình
tác phẩm gồm những khúc sơng
nào? Em hãy nêu vẻ đẹp của

dịng sơng ấy.
Hồn Trương Ba, Hồn Trương Ba và Đế Thích có
da hàng thịt
quan điểm sống khác nhau như
thế nào?
Chiếc
ngoài xa

Câu hỏi tiếng Thái
LaG iN* yd* S*IN AS AL,
uj& it* Ad?
eN&V AL EHa #L uH* b*a
tun* Ax* q exG haN?

Em* {N* Hid KoG toG
S*$ c>G is* LaJ iN iM LaN
ek&V AL? LaN ek&V {N*
N*$ GaM id JoG AL?
buN ESG Ba C{b {L KiG
#d* wic iM L>G {g& lac
c$ JoG AL EM eNV ciN
uj&?
thuyền Tại sao nói “Người đàn bà hàng AL #L b*a “q em* en&
chài là nhân vật mang vẻ đẹp EMG #p& N*$ Ax* q n*a
khuất lấp?”
L{b buN id?”

Phương pháp dùng câu hỏi song ngữ Việt - Thái đồng thời đạt hai mục tiêu:
Học sinh vừa hiểu câu hỏi của thầy cơ, vừa tích lũy thêm vốn từ tiếng Việt. Câu
hỏi song ngữ cũng cần vận dụng linh hoạt cho nhiều mức độ nhận thức khác

nhau của học sinh.
Để vận dụng thành công những câu hỏi song ngữ này đòi hỏi người thầy
phải bám sát học sinh, phát hiện ra những hạn chế trong năng lực tiếng Việt của
các em. Đồng thời giáo viên cần trau dồi vốn tiếng dân tộc thiểu số để trở thành
cầu nối cho các em chiếm lĩnh tri thức, tạo lập lời nói.
4. Hiệu quả của đề tài
Với những giải pháp nêu trên, bản thân tơi đã rèn luyện cho mình kĩ năng
đặt câu hỏi để chủ động hơn, tự tin hơn trong dạy học văn xuôi Ngữ văn 12. Hệ
thống câu hỏi được phân phối đều khắp lớp, giao việc vừa sức với từng nhóm
đối tượng học sinh chia theo các mức độ nhận thức. Khơng khí tiết học trở nên
sơi nổi, hào hứng vì các em dù ở mức độ nhận thức nào cũng đều được tham gia
vào quá trình chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và bồi dưỡng phẩm chất
năng lực.
Những giải pháp mà bản thân áp dụng trong giảng dạy đã góp phần đáng kể
vào việc nâng cao chất lượng dạy học. Bản thân tôi thực nghiệm tại hai lớp:
12A2 và 12A3. Hai lớp có mặt bằng kiến thức tương đương nhau, sĩ số xấp xỉ
bằng nhau, đều là học sinh dân tộc Thái.Lớp 12A2 có vận dụng đề tài, lớp 12A3
thì khơng. Kết quả thu được là: Học sinh lớp 12A2 tích cực, chủ động hơn trong
học tập, kể cả các em học sinh trung bình và dưới mức trung bình cũng thường
xuyên xung phong trả lời câu hỏi hơn, các em hiểu bài hơn, điểm số cao hơn
(thể hiện ở cả kết quả học kì 2 và kết quả của bài khảo sát tốt nghiệp THPT có
đề thi ra vào phần văn xi Ngữ văn 12).
Đối tượng so sánh

Lớp 12A2 (39 học sinh)

Lớp 12A3 (38 học sinh)

17



Giỏi
Khá
TBM
học kì 2 TB
Yếu
7-7,75
Điểm
5-6,75
khảo sát
3-4,75
TN
1,25-2,75
THPT
0-1,0

Số lượng
5
19
15
0
2
12
22
3
0

Tỉ lệ (%)
12,8
48,7

38,5
0
5,1
31
56
7,9
0

Số lượng
1
10
23
4
0
4
19
15
0

Tỉ lệ (%)
2,6
26,3
60,5
10,6
0
10,5
50
39,5
0


18


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bản thân tôi nhận thấy phần văn xi Ngữ văn 12 có nhiều bài có thể áp
dụng phương pháp giảng dạy bằng việc vận dụng linh hoạt các mẫu câu hỏi theo
các mức độ nhận thức, dùng câu hỏi song ngữ. Việc rèn kĩ năng đạt câu hỏi cho
học sinh có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của tiết dạy, giúp học sinh hiểu
bài và phát huy được tính tích cực chủ động trong học tập.Phương pháp dạy học
này có những ưu điểm và hạn chế như sau:
- Về ưu điểm:
+Giáo viên ln có ý thức bám sát q trình học tập, nắm được mức độ
nhận thức và theo dõi được sự tiến bộ của học sinh qua việc các em trả lời được
những câu hỏi chia theo các mức độ.
+ Phương pháp này đã phần nào giúp bản thân tôi tự củng cố thêm được kĩ
năng dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, cụ thể là dịch hai ngơn ngữ
Thái – Việt.
+ Có thể áp dụng linh hoạt với các lớp học có sự phân hóa cao (độ vênh
lớn) về mức độ nhận thức; phù hợp với lớp đơng học sinh dân tộc Thái theo học.
Qua đó giúp cho học sinh dễ dàng cảm thụ tác phẩm văn chương cũng như sử
dụng vốn tiếng Việt phong phú của mình vào giao tiếp hoặc sản sinh lời nói, tạo
lập văn bản, đồng nghĩa với việc học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc học
môn Ngữ Văn mà không vướng phải rào cản ngơn ngữ.
+ Có thể phát huy tối đa năng lực truyền thụ kiến thức của các giáo viên
người dân tộc thiểu số ở địa phương hoặc những giáo viên lâu năm ở miền núi.
- Về nhược điểm: Vì đây là phương pháp nêu câu hỏi theo mức độ nhận
thức nên giáo viên phải nắm vững bài học để biết kiến thức nào thuộc mức độ
nào, học sinh nào ở mức độ nào để giao việc vừa sức.
- Câu hỏi song ngữ chỉ nênsử dụng được trong trường hợp:

+ Giáo viên phải thông thạo cả hai thứ tiếngvà nắm được những hạn chế về
ngôn ngữ của học sinh mình để có thể áp dụng đúng chỗ trong bài giảng.
+ Trước khi áp dụng phương pháp, giáo viên cần có sự kiểm tra, đánh giá
mức độ thành thạo trong khả năng tiếng Việt của học sinh.
+ Lớp học phải có đơng học sinh dân tộc Thái theo học hoặc là 100% học
sinh dân tộc Thái nhưng các em này yếu về năng lực tiếng Việt. Vì nếu khơng,
các em học sinh dân tộc khác sẽ không nắm được nội dung bài học và cảm thấy
bị ức chế, bị phân biệt trong học tập dẫn đến những hiệu ứng tiêu cực.
- Về khả năng áp dụng đề tài trong dạy học:
+Có thể áp dụng linh hoạt ở cả phần văn xuôi Ngữ văn 10, văn xuôi Ngữ
văn 11 hoặc mở rộng ở cả phần thơ.
+Có thể áp dụng rộng rãi ở 11 huyện miền núi của Thanh Hóa vì có lợi thế:
nhiều giáo viên các cấp - trong đó có giáo viên THPT đã được tham gia đào tạo
lớp tiếng, chữ dân tộc Thái.

19


+ Có thể mở rộng áp dụng trong nhiều mơn khoa học khác, khi mức độ
nhận thức của các em không đồng đều, các câu hỏi song ngữ giúp học sinh lĩnh
hội kiến thức tốt hơn, ví dụ như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục cơng dân.
+ Ngồi các trường phổ thơng miền núi, phương pháp này cịn có thể áp
dụng cho trường chuyên biệt như trường Dân tộc nội trú; không chỉ dùng
phương pháp song ngữ Việt - Thái (cho học sinh dân tộc Thái) mà cịn có thể
linh hoạt bằng song ngữ Việt - và các ngôn ngữ khác.
2. Kiến nghị
Sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tơi có một số kiến nghị sau:
- Giáo viên cần theo sát lớp học để nắm chắc đặc điểm tiếp nhận, mức độ
nhận thức, sự tiến bộ của học sinh để đặt đúng câu hỏi, trúng đối tượng học sinh.
- Giáo viên Ngữ Văn ở những vùng có đơng học sinh dân tộc thiểu số nên

thường xuyên học tập và trau dồi thêm khả năng sử dụng tiếng dân tộc để thực
sự trở thành chiếc cầu nối cho học sinh đến với nguồn tri thức phong phú.
- Kính đề nghị Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo tạo điều kiện,
khuyến khích giáo viên và học sinh dân tộc thiểu số có những chương trình giao
lưu bổ ích để nâng cao năng lực song ngữ.
Những vấn đề được đưa ra trên đây là kết quả quá trình đúc rút kinh
nghiệm của bản thân tôi. Một số biện pháp nâng cao kĩ năng đặt câu hỏi theo các
mức độ nhận thức của học sinh khi dạy phần văn xuôi Ngữ văn 12 mà tôi áp
dụng đã được học sinh hưởng ứng và đồng nghiệp ghi nhận. Tuy vậy, đề tài vẫn
cịn nhiều hạn chế, rất mong sự đóng góp của bạn bè đồng nghiệp và các cấp
lãnh đạo để bản thân tơi có thêm kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học theo yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nói chung, dạy
học mơn Ngữ Văn nói riêng ở nhà trường phổ thơng.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 10 tháng 5 năm 2021

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Hà Thị Khuyên

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 1, tập 2, NXB Giáo dục, 2007
2. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.

3. Nguyễn Gia Cầu, Bồi dưỡng và phát triển tư duy phản biện cho học sinh
trong quá trình dạy học,NXB Giáo dục, 2013.
4.
5. />
21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hà Thị Khuyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Quan Sơn
Cấp đánh giá
Kết quả
xếp loại
đánh giá
xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại


1

Giúp học sinh lớp 10 trường
THPT Quan Sơn học tốt văn
học nước ngồi.

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2009-2010

2

Hướng dẫn học sinh lớp 10
trường THPT Quan Sơn học
tốt môn Ngữ văn bằng
phương pháp giảng dạy song
ngữ Thái – Việt .

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2013-2014

3


Một số biện pháp nâng cao
năng lực ngơn ngữ qua môn
Ngữ văn cho học sinh lớp 10
dân tộc Thái tại trường THPT
Quan Sơn trên cơ sở tiếng mẹ
đẻ

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2018-2019

----------------------------------------------------

22



×