Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Giải pháp tạo tình huống có vấn đề trong hoạt động khám phá khoa học để phát triển tư duy tích cực cho trẻ tại lớp 5 tuổi b trường mầm non 3 2 huyện cát hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.91 KB, 12 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “ Giải pháp tạo tình huống có vấn đề trong hoạt động
khám phá khoa học để phát triển tư duy tích cực cho trẻ tại lớp 5 tuổi B- Trường
Mầm non 3-2 - Huyện Cát Hải”
2. Lĩnh vực áp dụng: Phục vụ công tác dạy trẻ 5 tuổi khám phá khoa học
tại lớp 5 tuổi B- Trường mầm non 3-2- Huyện Cát Hải.
3. Tác giả:
Họ và tên: Hoàng Thị Mến.
Ngày tháng/ năm sinh: 01/03/1981.
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non 3-2 - Thị trấn Cát
Bà - Huyện Cát Hải -Thành Phớ Hải Phịng.
Điện thoại di đợng: 01657472832
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường mầm non 3 -2 - Thị trấn Cát Bà -Huyện Cát Hải.
Địa chỉ: Số 69 - Tổ dân phố 6 - Đường Hà Sen- Thị trấn Cát Bà.
Điện thoại: 0313688360.
I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT:
1. Thực trạng các giải pháp:
Hoạt động khám phá khoa học là một hoạt động vô cùng phong phú, đa
dạng, và hấp dẫn, nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành tư duy và
phát triển tư duy tích cực cho trẻ. Hoạt động khám phá khoa học giúp trẻ tìm
hiểu cái hay cái đẹp, cái mới lạ trong tự nhiên, trong cuộc sống từ đó trẻ cảm
nhận được sự vui tươi sinh động của mọi vật, của cuộc sống, trẻ thêm yêu cảnh
vật quanh mình, say mê khám phá những điều kì diệu của cuộc sống xung
quanh.
Trên thực tế giáo viên Trường mầm non 3-2 đã rất chú trọng đến hoạt
động cho trẻ khám phá khoa học để giúp phát triển tư duy cho trẻ theo đúng kế
hoạch đã đề ra. Giáo viên đã quan tâm tới việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ
khám phá. Nhiều giáo viên có kinh nghiệm đã vận dụng phương pháp động và
1



tĩnh xen kẽ giữa các hoạt động.Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động cho trẻ
khám phá khoa học chưa được giáo viên đầu tư đúng mức về phương pháp dạy
sao cho thu hút và phát huy tính tích cực ở trẻ. Mặc dù giáo viên đã quan tâm
đến các hoạt động cho trẻ khám phá khoa học tìm hiểu môi trường xung quanh
nhưng chủ yếu vẫn là hoạt động tại góc khám phá. Các hoạt động khám phá này
chủ yếu vẫn theo mợt lới mịn năm sau giớng năm trước, lớp này giống lớp khác
như cô bày sẵn một số đồ vật như cát, đá, sỏi, nước để chơi đong đo nước hay
tạo hình bằng cát từ các khuôn hình. Các hoạt động này thường lặp đi lặp lại
không có sự đổi mới từ hình thức đến nội dung. Khi hướng dẫn hoạt động, giáo
viên chưa biết lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên nói và trẻ tiếp thu một cách thụ
động kiến thức, trẻ không có sự chủ động nhiều để được đưa ra vấn đề và tự giải
quyết theo kinh nghiệm cá nhân.
2. Ưu, khuyết điểm của giải pháp đã áp dụng.
* Về ưu điểm:
Giáo viên đã biết cách đưa một số hoạt động cho trẻ khám phá khoa học
vào trong giảng dạy. Tạo ra được sự hứng thú cho trẻ khi tham gia vào các hoạt
động khám phá khoa học.
* Hạn chế:
Việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học đã được thực hiện nhưng
chưa có sự đổi mới, linh hoạt, chưa thu hút và phát huy tinh tích cực của trẻ. Khi
tổ chức cho trẻ khám phá khoa học giáo viên ít quan tâm đến việc tạo các tình
huống có vấn đề xung quanh các hoạt động cũng như ít quan tâm đến những
phát hiện của đứa trẻ, trẻ mong muốn gì, trẻ bày tỏ niềm mong muốn và tình
cảm đó như thế nào? Hình thức và nội dung đưa ra chưa kích thích tư duy của
trẻ vì vậy việc tổ chức cho trẻ khám phá khoa học chưa đạt được hiệu quả như
mong muốn. Do đó, nhiều khi giáo viên đã lãng phí nhiều cơ hội để cho trẻ phát
triển tích cực, trẻ chưa có điều kiện tốt nhất để phát triển tư duy.
Việc áp dụng các thí nghiệm khoa học vào giảng dạy chưa được thường
xuyên, chủ yếu giáo viên làm cho trẻ quan sát hoặc chuẩn bị đồ dùng cho một


2


vài trẻ nhanh nhẹn thực hành do đó nhiều trẻ chưa mạnh dạn làm thí nghiệm dẫn
đến hạn chế khả năng sáng tạo của một số trẻ nhút nhát.
Từ thực tế công tác giảng dạy khi cho trẻ khám phá khoa học nhằm phát
triển tư duy tích cực cho trẻ đạt hiệu quả, tôi đã lựa chọn “ Giải pháp tạo tình
huống có vấn đề trong hoạt động khám phá khoa học để phát triển tư duy tích
cực cho trẻ tại lớp 5 tuổi B- Trường Mầm non 3-2 - Huyện Cát Hải” để đăng ký
sáng kiến, giải pháp năm 2017.
II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN:
1.Tính cấp thiết:
Việc đặt ra các tình h́ng có vấn đề trong các hoạt động khám khoa học
là một trong những cách để lôi kéo, thu hút sự hứng thú, kích thích sự tò mò,
khám phá và phát triển kỹ năng phán đoán, ghi nhớ, khả năng phân biệt, so sánh
và kỹ năng tư duy logic, khả năng suy luận của trẻ. Trên cơ sở các tình huống có
vấn đề, giáo viên sẽ lựa chọn những trò chơi phù hợp và đưa ra những câu hỏi
mở có tính kích sự tò mò của trẻ để trẻ hăng hái, tự tin, mạnh dạn và hoạt bát
hơn. Ngồi ra, cịn nâng cao nhận thức cho giáo viên khi tổ chức cho trẻ khám
phá khoa học, đó là ở giai đoạn này, giáo viên không nhất thiết phải dạy hoặc
giải thích những kiến thức khoa học cho trẻ mà chủ yếu là giúp trẻ suy nghĩ
nhiều hơn về những gì chúng nhìn thấy và đang làm, kích thích trẻ quan sát, xem
xét, phỏng đoán các sự vật, hiện tượng xung quanh và thảo luận, chia sẻ điều trẻ
nhìn thấy, điều trẻ nghĩ hoặc điều còn băn khoăn thắc mắc từ đó phát triển tư
duy tích cực cho trẻ.
Trong năm học 2016-2017, bản thân tôi và một số đồng nghiệp đã áp
dụng thử nghiệm vào quá trình giảng dạy khi cho trẻ khám phá khoa học đã đạt
được kết quả tốt, việc lựa chọn giải pháp tạo tình huống có vấn đề trong hoạt
động khám phá khoa học nhằm phát triển tư duy tích cực cho trẻ ngày càng

phong phú, hấp dẫn , phù hợp với nhận thức của trẻ. Đặc biệt là các tình huống
cô đưa ra đều khuyến khích tất cả các trẻ giải quyết vấn đề, các ý kiến của trẻ
luôn được quan tâm do đó những trẻ nhút nhát e dè trở lên mạnh dạn, tự tin
hơn,phát huy năng lực của cá nhân trẻ.
3


2. Tạo tình huống có vấn đề trong hoạt động khám phá khoa học
Trước kia, tôi và một số đồng nghiệp khi tổ chức các hoạt động khám phá
khoa học, thường đơn giản hóa nội dung khám phá khoa học, thường mỗi nội
dung chỉ đưa ra một hoạt động dạy trẻ do đó sự trải nghiệm của trẻ là ít không
khắc sâu kiến thức cho trẻ, phương pháp dạy theo lới mịn, chưa chú trọng đến
việc hướng vào trẻ và lấy trẻ làm trung tâm. Cô giáo thường nói cho trẻ nghe mà
không tạo ra những tình huống có vấn đề kích thích sự hứng thú của trẻ nên trẻ
thường nhàm chán, chính vì vậy hiệu quả của những trò chơi khám phá khoa
học không cao. Sau khi nghiên cứu và triển khai đề tài thì tôi cũng đã đưa ra
nghiên cứu với những tình huống cụ thể ở trong từng hoạt đợng như sau:
2.1. Tạo tình huống khám phá về khơng khí.
Khơng khí là mợt vấn đề phức tạp đối với trẻ mầm non. Bản thân giáo viên
cũng rất ít có những tài liệu tham khảo khi dạy trẻ. Trước đây, giáo viên khi dạy
trẻ khám phá về không khí thường nói cho trẻ biết: Không khí đang ở xung
quanh chúng ta, không màu, không mùi và không cầm nắm được, sau đó đưa ra
một số thí nghiệm giúp trẻ nhận biết lợi ích của không khí như: Làm cho nến tắt,
bong bóng không phình to. Các hoạt động này phần nào cũng đã gây được sự
chú ý cho trẻ nhưng chưa thực sự lôi cuốn, kích thích trẻ khám phá do đó tôi đã
nghiên cứu đưa các tình huống có vấn đề vào các hoạt động dạy trẻ khám phá về
không khí như sau:
Đầu tiên tôi cho trẻ chơi các trò chơi gây hứng thú.
* Trò chơi 1: Bịt mũi.
- Cho trẻ bịt mũi, hỏi trẻ có thởi được không? à không thở được.

+Đặt tình huống có vấn đề: Vậy làm thế nào để thở được? à Thả tay ra thở
được.
- Cho trẻ đứng vào chỗ quy định, hỏi cháu: Thở được không?
- Cho cháu đứng góc khác cùng vào bạn nữa, hỏi cháu: Thở được không?
- Cho cháu đứng tự do trong lớp, hỏi cháu: Thở được không?
Lúc này tôi đặt vấn đề: Chúng ta thở được là nhờ không khí. Vậy không khí
có ở đâu? à không khí có ở xung quanh chúng ta.
4


Trên thực tế trải nghiệm của trẻ, cô và trẻ kết luận: Như vậy không khí có ở
xung quanh chúng ta.
Tôi tiếp tục đặt tình huống: Thế không khí có bắt được không? à Có cháu
nói được, có cháu nói không.
Tôi đưa ra vấn đề: Làm thế nào để bắt được không khí? Lúc này các cháu
đưa ra rất nhiều ý kiến: Lấy ly, lấy chai, lon, hộp… để bắt không khí.
Tôi phát cho mỗi cháu một túi nilon và yêu cầu: “Hãy lấy và bắt không khí
vào túi” - mỗi cháu thực hiện một cách khác nhau: Nắm bắt không khí xung
quanh bỏ vào túi, với không khí cho vào túi… nhưng các cháu vẫn chưa thấy gì
trong túi.
Tôi tiếp tục gợi ý: Các con hãy làm cách nào để túi phồng to lên đi? Cháu
phát hiện là mình phải thổi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi thì phải xoắn
hay cột túi lại.
Giải thích+ kết luận: Không khí ở trong túi, túi phồng lên là nhờ có không
khí.
Tiếp theo tôi cho các cháu chơi với túi không khí.
Ví dụ: Lấy kéo cắt túi để thấy không khí trong túi xì ra, lấy cây nhọn đâm
nhẹ sẽ thấy hơi thoát , xì hơi ở bong bóng vào chậu nước thấy có bọt khí nổi
lênà đó là không khí.
Tiết học sôi động và vui hẳn lên, các cháu biết thêm là: Không khí luôn ở

bên cạnh con người, con người phải có không khí mới sống, mới thở được.
Thay cho những hoạt động “ Làm mẫu” trước kia chưa mang lại nhiều hứng thú
đối với trẻ giờ đây mỗi hoạt động tôi tổ chức khi cho trẻ khám phá khoa học khá
sôi nổi, lôi cuốn trẻ tham gia hoạt với những tình h́ng gây sự tị mị kích thích
tất cả các trẻ khám phá sau đó là những phát hiện bất ngờ, thú vị. Nhìn các bé
lớp tôi ngày càng mạnh dạn, tự tin, ham tìm hiểu những điều mới mẻ trong cuộc
sống xung quanh tôi càng có thêm động lực hăng say nghiên cứu các thí nghiệm
mới,các tình huống mới cho trẻ trải nghiệm.

5


2.2. Tạo tình huống có vấn đề khi cho trẻ khám phá về nam châm.
Trước đây nam châm là một vật khá xa lạ đối với trẻ. Một số trẻ được
chơi nam châm biết được nam châm có thể hút một số vật cụ thể mà chưa hiểu
được bản chất của nam châm, tôi đã tiến hành dạy trẻ khám phá về nam châm
như sau:
Tôi tạo tình huống cho trẻ nhận được hộp quà của chị Thỏ Ngọc và cùng
khám phá xem đó là quà gì? Tôi cầm nam châm có trong hộp quà lần lượt đưa
đến gần từng đồ vật trong hộp quà. Trẻ thích thú khi thấy nam châm có thể hút
được một số đồ vật. Cho mỗi trẻ cùng thử nghiệm cầm nam châm đưa đến gần
các đồ vật có chất liệu khác nhau và rút ra nhận xét nam châm hút những vật gì,
không hút những vật gì.
Cô cùng trẻ kết luận: Nam châm hút được những vật bằng kim loại.
Cho trẻ chơi trò chơi câu cá: Lưỡi câu có gắn nam châm. Một số con cá
có gắn kim loại ở miệng, 1 số con cá không gắn kim loại hoặc gắn bằng xốp,
bìa, nhựa.Cho trẻ chơi câu cá xem đội bạn nào câu được nhiều cá và đếm số cá
mỗi bạn và nhận xét vì sao chúng ta lại câu được cá này? vì sao một số con cá
không câu được?
Trẻ từ việc thi đua chơi câu cá nhận biết được nam châm kút kim loại nên

sẽ câu được những con cá có gắn kim loại ở miệng vì lưỡi câu có nam châm.
Trò chơi tiếp theo “Đua thuyền” giữa 2 đội. Tôi đặt ra tình huống “ Chị Thỏ
Ngọc muốn nhờ chúng ta chuyển q cho các chú bợ đợi ngồi đảo xa bằng
những chiếc thuyền này.Thả thuyền vào chậu nước, tôi hỏi trẻ: Làm sao có thể
lái chiếc thuyền đi mà không chạm vào thuyền? Trẻ nêu ý kiến: Gắn động cơ
cho thuyền hay buộc dây vào thuyền và điều khiển, đó là những phát hiện rất thú
vị của trẻ. Tôi nêu vấn đề cho trẻ: Nhưng làm điều đó hơi khó, có thể dùng nam
châm để lái thuyền không? Muốn vậy chiếc thuyền phải như thế nào? Có trẻ đã
phát hiện ra chiếc thuyền phải bằng kim loại để nam châm hút đi.Tôi gắn thanh
kim loại ở mũi thuyền sau đó đặt thanh nam châm gần thanh kim loại và lái
thuyền. Trẻ quan sát và vô cùng thích thú khi điều khiển miếng nam châm đi
đâu, thuyền đi theo đó. Tôi cho trẻ cùng chơi đua thuyền giữa hai đội và cùng
giải thích hiện tượng vì sao chúng ta lái được thuyền.
6


2.3. Tạo tình huống khi dạy trẻ tìm hiểu về sự lan truyền của âm
thanh.
Vào đầu tiết học, tôi cho trẻ chơi trị chơi sơi đợng “Trùn tin”. Sau đó
cơ tạo tình huống cho trẻ nghe tiếng chuông điện thoại, các cháu dừng lại và rất
chú ý lắng nghe, cháu phát hiện ra đó là chuông điện thoại ở quanh lớp.Tơi trị
chuyện với trẻ về chiếc điện thoại: Có những loại điện thoại nào? Điện thoại
dùng để làm gì?
Giáo viên đặt ra tình huống: Chúng ta đang đứng ở đây không có bạn nào
có điện thoại. Vậy làm thế nào để người ta xa nhau mà có thể nói chuyện được
với nhau mà không cần phải nói quá to? Từ đó tôi giới thiệu điện thoại cốc: Có
điều gì thú vị từ 2 chiếc cốc giấy này? Tôi nhận thấy những ánh mắt chăm chú tò
mò của trẻ khi xem tôi hướng dẫn các cháu làm điện thoại cốc. Chiếc điện thoại
tơi làm đã hồn thành chỉ đơn giải là 2 chiếc cốc giấy được đục lỗ bên dưới nối
với nhau bằng một đoạn dây.

Có trẻ hỏi có vẻ nghi ngờ: Đây là chiếc điện thoại?
Tôi đưa yêu cầu: Ai biết cách sử dụng điện thoại này?
Sau đó, tôi mời hai trẻ lên thử nghiệm với chiếc điện thoại cốc. Mỗi trẻ
cầm một đầu dây có cốc giấy. Hai trẻ đứng xa nhau cho dây căng, một trẻ nói
vào cốc giấy, trẻ cịn lại áp cớc giấy vào tai để nghe. Tôi nhận thấy trẻ vô cùng
ngạc nhiên và thích thú khi được nghe tiếng bạn nói qua chiếc cốc giấy. Hai trẻ
bắt đầu thích thú, nghĩ ra những câu để hỏi thăm nhau và trả lời rất tự nhiên.
Điều đó kích thích các cháu trong lớp muốn được khám phá chiếc điện thoại
cốc, muốn nghe tiếng bạn nói trong cốc giấy. Tôi cho trẻ ngồi theo nhóm và thực
hành làm điện thoại bằng cốc giấy, lon bia, ống bơ, cớc nhựa, khi trẻ hồn thành
sản phẩm thì thích thú vơ cùng.
Tơi cho trẻ đứng thành cặp đơi chơi trị chơi” A lô, tôi nghe”. Tất cả các
trẻ đều thử nghiệm với chiếc điện thoại cốc mình vừa làm và kể lại nội dung trẻ
đã trao đổi qua điện thoại cốc cho cô và các bạn nghe. Cho trẻ nghe khi dây
căng, dây trùng.à Cháu phát hiện ra nghe được tiếng bạn nói ở xa nhau rất rõ
bên trong cốc giấy. Nếu để dây căng sẽ nghe rõ hơn để dây trùng.

7


Tôi giải thích và cùng trẻ kết luận: Âm thanh từ miệng phát ra, được cốc thu lại
và truyền theo dây đến tai người nghe. Để âm thanh truyền rõ nhất qua điện
thoại cốc thì dây phải căng.
Để khám phá rộng hơn sự lan truyền của âm thanh, tôi đã sáng tạo ra thí
nghiệm nữa từ chiếc cốc giấy, ống lon trẻ vừa chơi.
Từ cốc giấy, ống lon tôi dùng màng bọc thực phẩm hoặc tấm nilong mỏng
căng phẳng đều trên miệng cốc. Tôi rắc giấy vụn lên trên màng đã căng và hỏi
trẻ: Làm thể nào để các mảnh giấy vụn tự nhảy lên mà không chạm tay vào? Trẻ
suy nghĩ chưa biết giải quyết vấn đề này như thế nào. Có cháu phát hiện: Cháu
thổi cho giấy bay lên. Tôi rất vui vì đó là phát hiện thú vị này, tôi tiếp tục đưa ra

các tình huống: Không cần thổi hơi, có cách nào khác không?
Tôi dùng 1 cái trống đặt phía trên cốc giấy rồi đặt câu hỏi: Chuyện gì sẽ xảy ra
nếu cô gõ trống? Tôi thực hành gõ trống, trẻ nhìn thấy các mảnh giấy vụn bay
lên như đang nhảy múa thì trẻ vô cùng thích thú và hưởng ứng cổ vũ bằng
những tràng pháo tay rịn rã.
Tơi tổ chức cho trẻ chơi trị chơi “ Vũ điệu của giấy” và thực hành gõ
trống nhanh, chậm, mạnh, nhẹ, trẻ khác quan sát và nhận xét hiện tượng. Trẻ
phát hiện ra các mảnh giấy nhảy lên theo tiếng gõ trống mạnh hay nhẹ, nhanh
hay chậm.
Tôi giải thích: Âm thanh tuy không thể nhìn thấy nhưng nó là các dao
động có dạng sóng. Khi gõ trống, sóng âm thanh đập vào cốc khiến lớp màng
căng lên. Trẻ thích thú tìm các đồ vật khác quanh lớp gõ xem hiện tượng có xảy
ra không.
Sau mỗi khám phá phát hiện của trẻ, tôi thấy trên khuôn mặt các cháu lộ
rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng và có những nhóm đã reo hò ầm ĩ. Với tiết
học này tôi thấy vui vì các cháu thực sự “học mà chơi, chơi mà học”

3.Tính mới, tính sáng tạo
3.1. Tính mới: Các hoạt động khám phá khoa học để phát triển tư duy
tích cực cho trẻ có tính mới bởi giáo viên đã tạo được nhiều tình huống có vấn
đề và hệ thống câu hỏi mở để khuyến khích trẻ tìm và chọn lựa cách giải quyết
vấn đề.
8


Tính mới ở đây là, từ trước đó, giáo viên đã có đổi mới trong phương
pháp tổ chức các hoạt động vui chơi, khám phá cho trẻ, tuy nhiên việc đặt ra các
tình huống có vấn đề để kích thích trẻ phải tư duy chưa được áp dụng. Thay cho
các giờ học làm mẫu, quan sát hiện tượng có sẵn trước đó, các tình huống có vấn
đề được đưa vào ngay từ đầu đến cuối hoạt động luôn gây hứng thú, kích thích

sự say mê tìm tòi khám phá của trẻ. Qua việc giải quyết các vấn đề cô đặt ra
buộc trẻ phải tư duy do đó phát triển khả năng phán đoán, tăng cường trải
nghiệm để giải quyết vấn đề, những hiểu biết của trẻ về khoa học sẽ khắc sâu
hơn. Ở mỗi một nội dung khám phá, trẻ có cơ hội trải nghiệm qua các tình
huống khác nhau nhưng các tình huống được đặt ra phải phù hợp với đặc điểm
sinh lý và nhận thức của trẻ. Các hoạt động “ Khám phá về không khí”, “ Sự lan
truyền của âm thanh”, “ Nam châm hút được những vật gì”, “ Trứng nổi – trứng
chìm”...là những hoạt động đã đem đến những bất ngờ, sự hứng thú, say mê
khám phá cho trẻ khi trẻ được tham gia trải nghiệm giải quyết các vấn đề giáo
viên đặt ra.
3.2.Tính sáng tạo: Tính sáng tạo còn được thể hiện ở hình thức tổ chức
các hoạt động. Trước đây, giáo viên thường cho trẻ quan sát , thực hành các thí
nghiệm khoa học dưới sự hướng dẫn của cô sau đó cô và trẻ cùng giải thích hiện
tượng thì nay việc thực hành các thí nghiệm đó đã được lồng ghép trong các trị
chơi mà cơ sáng tạo ra. Qua các trị chơi khám phá khoa học, trẻ được thực hành
trải nghiệm, đưa ra những phát hiện thú vị về hiện tượng diễn ra trong trò chơi
từ đó trẻ biết rút ra kết luận về khoa học. Các trị chơi cơ sáng tạo ra một cách
phù hợp với từng nội dung khám phá còn tạo ra sự hứng thú cho trẻ, thay cho
những hoạt động gây mệt mỏi, nhàm chán cho trẻ thì giờ đây qua các trò chơi,
trẻ thực sự “Học mà chơi, chơi mà học”. Các trị chơi tơi sáng tạo ra như: “ Câu
cá”, “ Đua thuyền”, “Truyền tin”, “ A lô, tôi nghe”, “Vũ điệu của giấy”…thực sự
đã mang lại hiệu quả cao khi tôi cho trẻ khám phá khoa học.
4. Khả năng áp dụng giải pháp, phổ biến và nhân rộng.
Sáng kiến “Tạo tình huống có vấn đề trong hoạt động khám phá khoa học
để phát triển tư duy tích cực cho trẻ tại lớp 5 tuổi B- Trường Mầm non 3-2” có
9


khả năng áp dụng cho tất cả các giáo viên mầm non khi cho trẻ khám phá khoa
học tại khối 5 tuổi trên địa bàn huyện.

5. Những lợi ích mang lại từ việc áp dụng sáng kiến:
a. Hiệu quả kinh tế
Hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ khám phá khoa học với các vấn
đề, tình huống tôi đưa ra khá dễ dàng thực hiện phù hợp với trẻ, phù hợp với
điều kiện thực tế của lớp không cần có sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất trang thiết
bị, không tốn kém nhiều về tiền bạc và thời gian. Các thí nghiệm khoa học
không phải là điều gì quá sức đối với trẻ và cũng không yêu cầu giáo viên phải
chuẩn bị những đồ dùng dụng cụ quá cầu kì vì vậy bất cứ giáo viên nào cũng có
thể áp dụng vào quá trình giảng dạy tại lớp 5 tuổi của mình.
b. Hiệu quả về xã hội
Thứ nhất về phía giáo viên: Sau mợt thời gian tích cực tìm hiểu nghiên
cứu về lĩnh vực này bản thân tôi từ chỗ chưa có nhiều kinh nghiệm, hạn chế về
kiến thức, kỹ năng tổ chức cho trẻ khám phá khoa học đến nay tôi thấy mình đã
trang bị được những kiến thức khá cơ bản về dạy trẻkhám phá khoa học. Bản
thân tơi trước đây cịn nhút nhát, cịn ngại khi tổ chức hoạt động dạy trẻ khám
phá khoa học đến nay tơi đã hồn tồn mạnh dạn tự tin và thấy rất hứng thú, tích
cực sáng tạo ra các tình huống mới , các thí nghiệm mới khá phong phú nhằm
giúp các con say mê tìm hiểu sự vật hiện tượng xung quanh, kích thích tư duy
của trẻ ngày càng phát triển. Việc dạy trẻ khám phá khoa học trước đây chỉ được
đưa vào qua hoạt động chơi tại góc đến nay tôi đã tích cực vận dụng để dạy trẻ
trong các hoạt đợng học, hoạt đợng ngồi trời, tạo tình huống giúp trẻ khám phá
ở mọi lúc mọi nơi với các hình thức hấp dẫn mang lại hiệu quả cao. Các thí
nghiệm vui, rất thực tế với nhu cầu cuộc sống xung quanh trẻ, nhận được sự hào
hứng và tham gia nhiệt tình của trẻ. Những kết quả đó là động lực thúc đẩy tôi
thêm yêu nghề, hăng say sáng tạo, học tập và tìm tòi những ý tưởng hay, mới lạ
vào quá trình giáo dục trẻ, đặc biệt là lĩnh vực nhận thức. Bên cạnh đó được sự
động viên của Ban Giám hiệu, tổ chuyên môn, tôi có thêm niềm phấn khởi để
tiếp tục học hỏi, nghiên cứu tìm ra những hình thức mới để tránh sự nhàm chán,
10



lặp lại trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ sao cho các giờ hoạt động
khám phá khoa học với trẻ thực sự lôi cuốn, hào hứng, phát huy tính tích cực
nhận thức của trẻ và thực sự là “món ăn tinh thần thú vị đối với trẻ”.
Thứ hai về phía trẻ: Sau mợt học kì dạy trẻ khám phá hoa học tôi thấy trẻ
ở lớp tôi đã lớn khôn lên rất nhiều, các bé có những thay đổi rõ rệt. Với những
cháu trước đây còn nhút nhát, nhận thức còn chậm giờ đây các cháu đều rất
nhanh nhẹn, tích cực hứng thú tham gia các hoạt động khám phá khoa học. Hầu
hết tất cả các trẻ đều háo hức tập trung cao độ để quan sát, suy nghĩ giải quyết
các vấn đề cô đặt ra. Niềm đam mê khám phá của trẻ không những ở trong các
giờ hoạt động khám phá khoa học ở trên lớp, phụ huynh cũng đã đến kể cho tôi
nghe về những thành quả cháu đã thí nghiệm ở nhà như: hoa đổi màu, nhuộm
quả… Khả năng so sánh, phán đoán, tư duy của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ biết đặt
ra những câu hỏi” Tại sao?”, “ Như thế nào?”... trước những hiện tượng lạ, biết
để ý những biến đổi của sự vật hiện tượng xung quanh, biết tự khám phá bằng
nhiều giác quan và có sự trao đổi với cô, với bạn từ đó hình thành ở trẻ thói quen
tư duy tích cực trước mọi sự vật hiện tượng mà trẻ gặp trong c̣c sớng.
Thứ ba về phía nhà trường: Mợt số giáo viên trong trường đã áp dụng
kinh nghiệm của tôi trong việc đưa các tình huống có vấn đề vào hoạt động dạy
trẻ khám phá khoa học và đạt được kết quả tốt, say sưa nghiên cứu và sáng tạo
những nội dung mới vào tổ chức các hoạt động cho trẻ khám phá góp phần nâng
cao năng lực chuyên môn cho bản thân cũng như nâng cao chất lượng giáo dục
của nhà trường
c. Giá trị làm lợi khác
Khi triển khai đề tài này chúng tôi luôn nhận được sự tin yêu và ủng hộ
nhiệt tình từ phía các bậc phụ huynh về vật chất cũng như tinh thần. Phụ huynh
quan tâm và trao đổi thường xuyên với giáo viên về nội dung kiến thức ở lớp.
Đề tài đã góp phần thúc đẩy công tác tuyên truyền các hoạt động giáo dục của
nhà trường, tạo ra những nhận thức đúng đắn và những hiểu biết về bậc học
mầm non trong nhân dân.


11


CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Hiệu trưởng

Lương Thị Bông

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Hoàng Thị Mến

12



×