Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SÁNG KIẾN tạo HỨNG THÚ học tập CHO học SINH THÔNG QUA VIỆC GIẢI THÍCH các HIỆN TƯỢNG tự NHÊN LIÊN QUAN đến bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.79 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN

Trang
1

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1

II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN

1

III. MỤC TIÊU

1
CHƯƠNG II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN

2

I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN

2

1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề

2

2. Một số tồn tại, hạn chế



3

3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.

3

II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN.

3

III. KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG

5

IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN

6

CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

19

I. KẾT LUẬN

19

II. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT

19



CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coi
là chiến lược của dân tộc mình. Vì thế đại hội lần IX, Đảng cộng sản Việt Nam
trong nghị quyết ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân
tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó.
Nêu về tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:“Non
sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần cơng lớn cơng học tập của các em”.
Trước khi Người ra đi, trong di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh có dặn: “Phải
giáo dục thế hệ trẻ để cho họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên”.
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển như
vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính tồn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô
cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải
giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục,
vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa học.
II.
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN
Thông qua nghiên cứu bài giảng, kinh nghiệm giảng dạy học sinh các vấn đề
liên quan thực tiễn, nghiên cứu tài liệu bản thân tôi thấy nếu chỉ giảng dạy lý thuyết
mà không gắn với những vấn đề thực tiễn cuộc sống thì làm cho học sinh học một
cách máy móc, thụ động và dễ chán nản, nhanh quên. Vì vậy cần phải giúp học sinh
nhận thức một cách đúng đắn khoa học về các hiện tượng diễn ra xung quanh, trong
cuộc sống để giúp các em có thêm kiến thức thực tiễn , hiểu và vận dụng tốt trong

các tình huống của cuộc sống. Đặc biệt làm phong phú thêm bài giảng, tránh nhàm
chán.
III. MỤC TIÊU
Phân mơn hố học trong trường trung học phổ thơng giữ một vai trị quan
trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của mơn
học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh
những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực
hành... của hoá học. Học hố để hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông
qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hố của các chất bằng các phương
trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo
ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hố học góp phần giải
tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con
người...
Để đạt được mục đích của học hố học trong trường phổ thơng nói
chung.THCS nói riêng, thì giáo viên dạy hố học là nhân tố tham gia quyết định
chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học


cịn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá
học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng
kiến này, tơi có đề cập đến một khía cạnh “Tạo hứng thú học tập cho học sinh
thơng qua việc giải thích các hiện tượng tự nhiên liên quan đến bài học”với mục
đích góp phần sao cho học sinh hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và
lôi cuốn học sinh khi học… Để hố học khơng cịn mang tính đặc thù khó hiểu như
một “thuật ngữ khoa học”.
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I.
NÊU VẤN ĐỀ
1. Phân tích, đánh giá thực trạng
1.1.Thực trạng:

Trước tình hình học hố học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang
thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ
dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về mơi trường, về
tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà khơng mất đi tính cộng đồng trên tồn thế
giới, những vấn đề cũ nhưng khơng cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới
mẽ,đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật
tổng hợp;tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học có thể khơng nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan
điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến
thức không đồng nhất .
* Thực tế giảng dạy cho thấy:
Mơn hố học trong trường phổ thơng là một trong mơn học khó, nếu khơng
có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho
học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.Đã có hiện tượng một số bộ phận
học sinh không muốn học hoá học,ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá
học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục: Chưa đặt ra
cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng
một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trị là khơng ít. Do
phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền
thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong
quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.
1.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên để việc giảng dạy mơn hố học đạt
hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong các
bài giảng hoá học:
Một trong những điểm tôi đã làm là “Tạo hứng thú học tập cho học sinh
thơng qua việc giải thích các hiện tượng tự nhiên liên quan đến bài học”. Có
những vấn đề hố học có thể giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự
nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá



học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng
trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà
không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động,sáng tạo,
hứng thú trong mơn học;làm cho hố học khơng khơ khan, bớt đi tính đặc thù và
phức tạp.
Trong phạm vi đề tài tơi kkơng có tham vọng giải quyết mọi vấn đề trong
thực tiễn có thể để “Tạo hứng thú học tập cho học sinh thơng qua việc giải thích
các hiện tượng tự nhiên liên quan đến bài học” mà chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, đề
suất của cá nhân coi đó là kinh nghiệm qua một số ví dụ minh hoạ, với mong muốn
góp phần tạo ra và phát triển phương pháp dạy hoá học hiệu quả cao hơn qua các
bài giảng hoá học.
2. Tồn tại, hạn chế
Tồn tại:Kiến thức thực tiễn, kiến thức khoa học liên quan đến các vấn đề thực tế
của giáo viên còn hạn chế.
Thời lượng dành cho vấn đề nghiên cứu còn hạn hẹp; q trình dạy học cịn
nặng về lý thuyết hàn lâm, tham lam, ôm đồm bài tập.
Nguyên nhân của tồn tại:
Tài liệu tham khảo liên quan đến kiến thức bài học cịn ít. Giáo viên chưa được
cung cấp đầy đủ thơng tin cần thiết, kiến thức thực tiễn chưa phong phú.
Do đề thi, đề kiểm tra của các cấp chưa thực sự đổi mới nên giáo viên còn nặng
về tư tưởng dạy để thi hơn là dạy để vận dụng thực tiễn cuộc sống.
3. Tính cấp thiết
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “Tạo hứng thú học
tập cho học sinh thông qua việc giải thích các hiện tượng tự nhiên liên quan đến
bài học”sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; học sinh hiểu
được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học hoá học. Để thực hiện được, người giáo
viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu,tham
khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng đối tượng học sinh ở thành thị,
nơng thơn …; đơi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối

tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hồ; đơi lúc có khơi hài nhưng sâu sắc,vẫn
đảm nhiệm được mục đích học mơn hố học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề
này là khơng nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn
nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”.
II.
GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:
“Tạo hứng thú học tập cho học sinh thơng qua việc giải thích các hiện
tượng tự nhiên liên quan đến bài học” bằng cách:
1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày, thường sau khi
đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những
kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện
tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền
đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.


2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các
phương trình phản ứng hố học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ
mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài
học.Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tị mị của học sinh.Mặc dù vấn đề
được giải thích có tính chất rất phổ thông.
3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời
giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có
thể là một câu hỏi rất khơi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học
sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thơng qua các
bài tập tính tốn. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài
tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích.Vì muốn giải được bài tốn
hố đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài
tốn u cầu gì? Và giải quyết như thế nào?

5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua
những câu chuyện ngắn có tính chất khơi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời
gian nào trong suốt tiết học.Hướng này có thể góp phần tạo khơng khí học tập thoải
mái.Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hố.
6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời
sống ngày thường ở địa phương, gia đình …sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn
đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải
thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng
hoá học vào đời sống thực tiễn.
7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ
với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học
sinh khơng có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính
đặc thù của bộ mơn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng
ngày.
8. Ngồi việc giải thích những hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống
trong các tiết học hằng ngày, GV có thể đưa vào thành một chuyên đề để bồi dưỡng
HS giỏi và đưa các câu hỏi giải thích những hiện tượng thực tiễn liên quan đến hóa
học vào các buổi ngoại khóa, các cuộc thi kiến thức ở trường nhằm tạo sự hứng thú,
niềm say mê, thích tìm tịi khám phá của các em đối với bộ mơn hóa học vốn được
cho khơ khan.
III. KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là
mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề
nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải nhận


thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng
học sinh . Trong nội dung đề tài mình, tơi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh
cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng ngày.Tôi hi
vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan niệm trong dạy − học hoá học, mặc dù

trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện tượng có liên quan.
1/ Kết quả nghiên cứu
Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Tạo hứng thú học tập
cho học sinh thông qua việc giải thích các hiện tượng tự nhiên liên quan đến bài
học” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả nhất
định.
Học sinh trở nên thích học hố hơn, thích những giờ dạy của tơi nhiều hơn,
thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện
tượng thức tế, rồi lại đến hỏi tôi.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hồ trong phong cách dạy của mình có thể
làm cho giờ học mang khơng khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài cũng
rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều nên
cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì
nếu chúng ta q lạm dụng thì đều khơng tốt. Vì thế tơi vẫn ln nghĩ: Dạy như thế
nào cho tốt là một điều không dễ.
2/ Kết quả đối chứng:
Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp dụng
giải thích thường xun có sự khác nhau rõ rệt.
Ví dụ: qua các năm học từ việc giảng dạy ở trường qua khảo sát 60 học sinh
lớp 9, tơi đã có số liệu cụ thể theo bảng sau:

Kết quả
Lớp

Mức độ

9(A,B)

Thường xuyên áp
dụng

Có áp dụng
Ít áp dụng
Khơng áp dụng

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu –
Kém

18

24

15

3

15
8
5

19
13
9

21

32
35

5
7
11

Qua việc nghiên cứu đề tài này tôi thấy dạy học cần đảm bảo phương châm:
học đi đôi với hành; lý thuyết gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh học
để chung sống.


Phương pháp này cần được áp dụng với mơn Hố học nói riêng và mơn
KHTN nói chung dể đem lại hiệu quả cao hơn. Phương pháp có thể áp dụng với đối
tượng học sinh phổ thông.
IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện,
nhiều cách như:bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, …có thể tiến hành dạy
trong hồn cảnh dùng máy chiếu hay khơng dùng máy chiếu…Điều này cần phụ
thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy
khác nhau để huy động tối đa.Vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có
những kinh nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng có những phong cách
khơng thể áp dụng cho giáo viên khác.Vì phong cách dạy “nó như tính cách của
mỗi con người khơng thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được nội dung dạy học
theo yêu cầu của chương trình. Mỗi giáo viên khi giải thích các hiện tượng trong
thực tiễn liên quan đến bài học cần lựa chọn cách giải thích ngắn gọn ,dễ hiểu theo
từng đối tượng học sinh để gây được hứng thú đối với HS.
2. Một số ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng trong thực tiễn
trong số hàng nghìn, hàng vạn hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp dụng:
a/ Một số ví dụ áp dụng trong các bài học

* Ví dụ 1:Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố, rừng
cây … bầu trời xanh cũng như sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn?
Do trong khơng khí có 20% O2 nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:
3O 2 
→ 2O3

Tạo ra một lượng nhỏ O3,O3 có khả năng sát trùng:
O3 
→ O2 + O& (sát trùng)
Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O3 là tác nhân làm mơi trường sạch sẽ
và cảm giác tươi, mát.
* Ví dụ 02: Vai trò của Ozon trong đời sống và cơng nghiệp như thế nào?
Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như: Phenol,
hợp chất Xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây bệnh…có trong
nước thải và Ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt, thiếc, chì, mangan…)
Biến nước thải thành nước sạch vô hại.
Trên tầng cao khí quyển 10 − 30km quanh Trái đất, Ozon tồn tại thành một
tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia
tử ngoại làm cho người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan y …Gần đây
do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực … thải
vào khí quyển một lượng bụi và khí ơ nhiểm, thì Ozon lại góp phần oxi hố chất
gây ơ nhiểm,cũng chính vì vậy tầng Ozon bị mỏng dần.Trong vòng 50 năm gần đây
lượng Ozon mỏng đi khoảng 1%, có một số nơi tầng Ozon bị thủng và gây ra
khơng ít hiện tượng như: bảo, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y…
Áp dụng: Đây là vấn đề có liên quan đế giáo dục mơi trường và qua bài học,
học sinh hiểu được tầm quan trọng của Ozon, vừa có ý thức bảo vệ mơi trường và


kích thích sự tìm hiểu về vấn đề này. Giáo viên có thể lựa chọn một trong 2 VD
trên đưa vào bài giảng về phần Oxi (lớp 8 ).

* Ví dụ 03: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn
(NaCl)?
Do nhiệt độ sơi của nước ở áp suất 1at là 100 oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó
làm cho nhiệt độ của nước muối khi sơi (dung dịch NaCl lỗng) là > 100 oC. Do
nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian
luộc rau khơng lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và
xanh hơn.
Áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh khơng để ý
và nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi buổi
nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể đưa hiện
tượng này vào trong bài: sự biến đổi chất lớp 8, một số muối quan trọng ở lớp 9.
* Ví dụ 04:Vì sao cồn có thể sát khuẩn?
Cồn là dung dịch Ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao, có
thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế bào bị
chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào).
Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng sát trùng tốt nhất, vì nếu
cồn > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm choprotein bị đông tụ nhiều, làm protein
trên bề mặt vi khuẩn đơng cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn
thấm vào nên vi khuẩn khơng bị chết. Nếu cồn q lỗng (< 75%) thì hiệu quả sát
trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế, cồn được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương …
nhưng có ít người quan tâm tại sao lại dùng cồn?Trong khi học, nếu học sinh được
biết sẽ rất tốt cho cuộc sống.Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong các tiết dạy
về bài Ancol etylic (ở lớp 9 ).
* Ví dụ05:Vì sao lại khơng dùng xăng pha chì nữa?
Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30% xăng dầu khi
sử dụng. Nhưng khí cháy trong động cơ, chì oxit bám vào các ống xả, thành xi lanh
nên thực tế xăng cịn hồ tan thêm vào Dibrom etan thì chì oxit sẽ bị chuyển thành
Chì bromua (PbBr2), dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh, ống xả, thải vào khơng khí
làm ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng.

Vì chì sẽ ở trong mơi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên khi tiếp
xúc với khí thải, động thực vật bị bệnhsẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khoẻ con người.Ngoài ra hơi Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp, làm
bỏng da. Hiện nay, nước ta đã không sử dụng xăng pha chì.
Áp dụng: Hiện nay, nước ta khơng cịn sử dụng xăng pha chì nữa, nhưng
khơng ít một bộ phận học sinh và nhân dân khơng hiểu vì sao. Nên thơng qua bài
học liên quan, giáo viên có thể làm rõ tại sao.Vấn đề này có thể xen trong tiết dạy
về dầu mỏ (ở lớp 9 ).
*Ví dụ 06: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mịn”,câu này mang hàm ý
của khoa học hoá học như thế nào?


Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại
phương trình điện ly:

CaCO3 
→ Ca 2+ + CO32− (*)
Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca 2+ , CO32− , theo nguyên lý chuyển dịch

cân bằng hố học thì cân bằng(*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm nồng độ
Ca 2+ , CO32− (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mịn dần.
Có thể giải thích bổ sung thêm ngun nhân khác: Vì trong nước có lẫn khí
CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng: CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca ( HCO3 ) 2 . Khi nước chảy sẽ
cuốn Ca(HCO3)2 trơi theo, qua thời gian đá sẽ bị mịn dần.
* Ví dụ07: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ với những hình dạng phong
phú đa dạng như thế nào?
Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong khơng khí có
CO2 tạo mơi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi xuống như
vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau
CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca ( HCO3 ) 2


Và xuất hiện quá trình điện ly:
Ca ( HCO3 ) 2 → Ca 2+ + 2 HCO3−

CaCO3 
→ Ca 2+ + CO33−

– Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO3)2ở đất đá do áp
suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương trình:
Ca ( HCO3 ) 2 
→ CaCO3 ↓ + CO2 ↑ + H 2O

Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình thù đa
dạng.
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá (VD7) ; Ở
những phiến đá có dịng chảy đi qua(VD6) Nếu không để ý, trong xây dựng sẽ có
ảnh hưởng khơng ít.Góp phần hiểu được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm
cho hoá học trở nên gần gủi, có hồn văn hơn.Giáo viên có thể lựa chọn một trong
hai VD để xen vấn đề này vào trong khi dạy đến phần về muối CaCO3(ở lớp 9).
* Ví dụ08: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ địng địng
mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và được mùa( cho năng suất
cao sau này).
Do trong khơng khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa
điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
o


Sau đó:

3000 C
N 2 + O2 
→ 2 NO
2 NO + O2 → 2 NO2


Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:

4 NO2 + O2 + 2 H 2O → 4 HNO3
HNO3 → H + + NO3−

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 −7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày
nay, người ta đã điều chế Ure[(NH2)2CO] từ khơng khí để chủ động bón cho cây
trồng. Trong nền nơng nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ
của nghành cơng nghiệp hố chất “hướng về khơng khí địi lương thực” là càng lớn.
Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong
đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm (ở lớp 9 ). Tạo cho
học sinh khu vực làm nơng nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan
sát.
* Ví dụ9:Tại sao nước máy lại có mùi clo?
Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do clo
tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước:
H 2O + Cl2 
→ HCl + HClO

Hợp chất HClO khơng bền có tính oxi hố mạnh:

&

HClO 
→ HCl + O

Oxi ngun tử có khả năng diệt khuẩn.
* Ví dụ 10 : Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước?
Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải
phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.
H 2O + Cl2 
→ HCl + HClO

HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi
sinh vật, làm cho vi sinh vật chết.
Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất
này.
* Ví dụ 11: Vì sao nước biển lại mặn?
Các con sơng, suối, …Các dịng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại
dương và hoà tan mọi vật thể có thể hồ tan. Do q trình bay hơi, các nguyên tố,
hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, vị mặn của nước
biển chủ yếu do NaCl gây nên. Trong nước biển có khoảng hơn 80 nguyên tố, các
halogen có nhiều trong nước biển, nguyên tố Br có trong nước biển tới 99% tổng lượng tồn tại và chiếm 0,065% trong nước biển.
Áp dụng: GV có thể lựa chọn một trong 3 VD (9,10,11) để đưa vào bài: clo
(ở lớp 9 )
* Ví dụ 12:Tại sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn (chứa
NaCl) vào quá sớm?
Vì trong đậu, thịt chứa protein (protit), vốn có tính keo khi gặp những chất
điện ly mạnh, sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như cho muối


ăn vào sớm, gây khó khăn cho thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đơng tụ cứng lại khơng
có lợi cho tiêu hố…

* Ví dụ 13: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu
trứng thì lịng trắng trứng kết tủa lại?
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự
đông tụ.Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị
kết tủa.
Áp dụng: Giáo viên có thể chọn một trong 2 VD 12,13 để xen vào bài giảng
của phần về protit (lớp 9). Đây cũng là vấn đề thiết thực bắt gặp trong cuộc sống và
phục vụ thiết yếu trong việc chế biến thực phẩm.
* Ví dụ 14: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy
ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa
muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2.Khi nấu sơi sẽ xảy ra phản ứng hố học :
t
Ca ( HCO3 ) 2 
→ 2CaCO3 ↓ +  CO2 ↑ +  H 2O
o

t
Mg ( HCO3 ) 2 
→ 2MgCO3 ↓ +  CO2 ↑ +  H 2O
o

CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn.
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun
sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là
sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về nước cứng(ở lớp 9 ).
Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản
chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng trong đời gia
đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm

được.
* Ví dụ 15: Sherlock Homes đã phát hiện ra cách lấy dấu vân tay của tội phạm
lưu trên các vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau một vài phút thí nghiệm?
Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem
phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iod, dùng đèn cồn
để đun nóng phần đáy ống nghiệm.Đợi cho khí màu tím thốt ra (I 2) từ ống nghiệm
thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ giấy có vân
tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên.
Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khống, mồ hơi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu
lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi
Iod cho màu nâu (chú ý hơi Iodrất độc không được ngửi).
Áp dụng:Đây là câu chuyện nêu lên ứng dụng của hoá học trong đời sống,
giúp học sinh hiểu biết nhiều hơn. Giáo viên có thể xen vào trong các bài giảng về
chất béo (ở lớp 9 ).
* Ví dụ 16: Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm xanh
trên bánh?


Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C 2H5OH),Iod gặp tinh bột
tạo ra phức màu xanh dương.
Điều này cũng có thể giải thích khi bơi cồn iod lên phía trong quả chuối xanh
lại cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột (C6H10O5)n). Nhưng nếu là chuối chín thì khơng thấy hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột
thành đường Glucozo(C6H12O6).Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iod và ngược lại.
* Ví dụ 17: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá
một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt theo
sơ đồ:
Amilaza , H O
Mantaza , H O
→ C12 H 22O11 

→ C6 H12O6
( C6 H10O5 ) n 
2

TB

2

Mantozo

Glucozo

* Ví dụ 18: Vì sao ban đêm khơng nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang
hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.
as
6nCO2 + 5nH 2O 
→(C6 H10O5 )n + 6nO2 ↑
clorophin
Nhưng ban đêm, do khơng có ánh sáng mặt trời, cây xanh khơng quang hợp,
chỉ có q trình hơ hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho phịng
thiếu khí O2 và q nhiều khí CO2.
Áp dụng: GV có thể lựa chọn một trong ba VD 16,17,18 để đưa vào trong
bài dạy về tinh bột (ở lớp 9)
* Ví dụ19: Dấm ăn là gì?Có ích gì?
Trong dấm ăn có vị chua vì có 3-5% là Axit axetic (CH 3COOH). Dấm ăn có
tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và tiêu
hố tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn.
Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên có
thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 9 ) để học sinh liên hệ trong thực

tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người.
* Ví dụ 20: Vì sao khơng nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?
Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết hợp với
axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi.
Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với
dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu hóa.
Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột.
Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ.
*Ví dụ 21: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?
Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm
tăng độ chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng điện
của cazein thì chất này sẽ kết tủa.


Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và cho
lên men tiếp.
* Ví dụ 22: Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển
sang màu đỏ?
Có một số chất hố học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của
dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này.Trong chanh có
7% axit citric.Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu
nước rau.Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm
canxi.
* Ví dụ 23: Vì sao sau khi ăn trái cây thì khơng nên đánh răng ngay?
Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được
đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với
những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và
gây tổn thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong
trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh.

Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa ăn, ta
ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày.
* Ví dụ 24: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi
là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2 HCOOH + Ca (OH ) 2 → ( HCOO ) 2 Ca + 2 H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể lựa chọn một trong 5 VD (VD20,21,22,23,24) để
đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9 ).
* Ví dụ 25: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO) hoặc nhiều khí
thiên nhiên(CH4…)và khơng có oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt?
Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc CO,
CH4… và khơng có O2. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống giếng thau
giếng hoặc vì lấy gầu múc nước… Đã có nhiều trường hợp bị tử vong một lúc
nhiều mạng người vì gặp phải giếng có khí độc (CO) gây đơng máu, CH 4…và
khơng có O2 gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết.Để tránh, tốt
nhất không nên xuống các giếng đào, nếu có xuống phải đeo bình oxi. Cịn muốn
biết có khí độc(CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên(CH 4…) và khơng có O2 chỉ cần lấy
dây buộc một con gà, vịt … thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng hay xảy ra, giáo viên nên đưa vào bài giảng
để nhắc nhở học sinh, cộng đồng …tránh những cái chết thương tâm. Vấn đề này
có thể xen vào bài dạy Cacbon hay Metan (ở lớp 9 ).
* Ví dụ 26: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen?
Để dây bạc trắng sáng trở lại, người ta sẽ ngâm vào nước tiểu?
Người bị cảm trong cơ thể thường sinh ra những hợp chất dạng sunfua(S 2−)
vơ cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với


Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag 2S) kết tủa màu đen. Do đó loại được
chất độc ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây bạc chuyển thành màu đen.

Ag + − S − → Ag 2 S ↓

Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng:
+

Ag 2 S + 4 NH 3 → 2  Ag ( NH 3 ) 2  + S 2−

Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
* Ví dụ 27: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao
dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Do bạc tác dụng với khí O 2 và H2S có trong khơng khí tạo ra bạc sunfua
(Ag2S) màu đen.
4 Ag + O2 + 2 H 2 S → 2 Ag 2 S ↓ +2 H 2O

Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag +.
Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước
cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi
thiu.
Áp dụng:Đây là những ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể đưa một
trong 2 VD 26,27 vào bài về kim loại (ở lớp 9 ).
* Ví dụ 28: Teflon là chất gì?
Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen)[(−CF 2−CF2−)n]. Đó là loại
polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung mơi và hóa chất. Nó độ bền nhiệt
cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi trường hơn
cả Au và Pt, khơng dẫn điện.
Do có các đặc tính q đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy
dễ bị mài mịn mà khơng phải bơi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ
lên chảo, nồi,… để chống dính.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (ở lớp 9 )
* Ví dụ 29: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?

Do than đá tác dụng với khí O2 trong khơng khí tạo ra khí CO 2, phản ứng tỏa
nhiệt.
C + O2 → CO2 ↑

∆H < 0

Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì
than tự bốc cháy.
* Ví dụ 30: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than
củi?
Do than củi xốp có tính hấp phụ mùi , nên hấp phụ được mùi khét của cơm
làm cho cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa một trong 2 VD 29,30 này vào bài C (lớp 9) ,
VD 30 cịn có thể đưa vào bài Oxi lớp 8.
* Ví dụ 31: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Trong nơng nghiệp, đất
đèn dùng để làm gì?


Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC 2), khi tác dụng với nước
sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit.
CaC2 + 2 H 2O → C2 H 2 ↑ +Ca (OH ) 2 (∆H < 0)

Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH 3CHO). Các chất
này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá.
Trong nơng nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả
xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dấm dứa, chuối, cà
chua,… vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Axetilen (ở lớp 9)
* Ví dụ 32: Vì sao trong cơng nghiệp thực phẩm, muối (NH 4)2CO3 được dùng
làm bột nở?

NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng
bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh xốp
và nở hơn.
0

t
( NH 4 )2 CO3 
→ 2 NH 3 ↑ +CO2 ↑ + H 2O ↑

Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối cacbonat (ở lớp
9).
* Ví dụ 33: Vài kỷ lục trong thế giới kim loại
• Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với D = 22,7g/cm3.
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.
• Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với D = 0,53g/cm3.
• Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với tnc = −390C.
• Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)
• Kim loại được con người sử dụng làm cơng cụ sớm nhất: Đồng (Cu)
• Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhơm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ trái
đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Đại cương về kim loại (ở lớp 9).
* Ví dụ 34: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì khơng được dùng chổi
qt mà nên rắc bột S lên trên?
Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một
chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy
ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho q trình thu gom
khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg + S → HgS ↓


Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài học liên quan đến
Lưu huỳnh , hoặc tính chất hóa học của kim loại (ở lớp 9)


* Ví dụ 35: Nhơm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng lại
được dùng làm dây dẫn điện trong nhà?
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là
2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là…… Do đó, nếu như dùng
đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu
được trọng lực của dây điện. Việc làm đó khơng có lợi về mặt kinh tế.Cịn trong
nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm.Vì vậy ở
trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý của
kim loại (ở lớp 9)
* Ví dụ 36: Vì sao để bảo vệ vỏ tàu biển bằng thép, người ta gắn các tấm kẽm
vào phía ngồi vỏ tàu ở phần chìm trong nước biển?
Khi thép và kẽm cùng ở trong nước biển thì sẽ xuất hiện cặp pin hóa học và
có sự ăn mịn điện hóa.
Kẽm là cực âm, thép là cực dương và nước biển là dung dịch điện li. Trong
quá trình ăn mịn điện hóa thì kẽm sẽ bị ăn mịn. Do đó, vỏ tàu biển được bảo vệ.
Đây là phương pháp bảo vệ kim loại bằng phương pháp điện hóa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài dạy liên quan đến sự
ăn mòn kim loại (lớp 9)
b/Một số VD có thể đưa vào chương trình bồi dưỡng HS giỏi hay các cuộc thi
kiến thức, các buổi ngoại khóa ở trường:
* Ví dụ 01:Làm thế nào để khắc được thuỷ tinh?
Muốn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho
nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ…cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi nhỏ

dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo đi lớp sáp.
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O
Nếu khơng có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bột
CaF2(màu trắng).Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật
nhọn tạo hình, chữ… cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2 vào chổ
cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng đặt lên trên
khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn những nơi cạo lớp sáp.
CaF2 + 2 H 2 SO4 → Ca ( HSO4 ) 2 + 2 HF (dùng bìa cứng che)
Do:
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O
Áp dụng: Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh và
sản xuất thuỷ tinh .Không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thuỷ
tinh mà cịn giải thích hiện tượng đó.Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi
dậy niềm đam mê học tập và khám phá.
* Ví dụ 2:Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?


“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương động
vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí
PH3(Photphin) khi có lẫn một chút khí P 2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy
ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong khơng khí
P2 H 4
2 PH 3 + 4O2 
→ P2O5 + 3H 2O

Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng
tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng: giải thích được hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”.Tránh tình
trạng mê tín dị đoan,làm cho cuộc sống lành mạnh.
* Ví dụ 3:Tại sao phải ăn muối có Iod?

Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iodcho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod
trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần
độn, phụ nữ thiếu Iod dẫn dến vơ sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải
đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 mcrogam Iod.
Áp dụng:vấn đề liên quan đến Iod giúp học sinh hiểu được vai trò tại sao
toàn dân phải ăn muối Iod. Giúp các em tự nhận thấy tầm quan trọng của muối Iod,
tăng tính hiểu biết hơn.
* Ví dụ 4: Vải khác nhau có giá trị khác nhau nên phân biệt như thế nào?
Căn cứ vào bản chất của các chất liệu làm nên vải, ta có thể nhận biết cách
đơn giản sau:
1/ Nếu vải làm bằng sợi bông: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu
vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám đậm.
2/ Nếu vải làm bằng sợi tơ tằm: Khi đốt sợi vải cháy chậm hơn vải sợi bơng,
có mùi khét như đốt tóc, sợi tơ co cục, màu nâu đen, lấy tay bóp thì tan.
3/ Nếu vải làm bằng lông cừu (len lông cừu): Khi đốt bắt cháy khơng nhanh,
bốc khói, có mùi khét như đốt tóc và tạo thành những bọt phồng, rồi vón cục có
màu đen hơi óng ánh, giịn, bóp tan ngay.
4/ Nếu vải làm bằng sợi viscozơ: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu
vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám nhưng rất ít.
5/ Nếu vải làm bằng sợi axetat: Khi đốt sợi vải bắt cháy chậm ,thành giọt dẻo
màu nâu đậm, có hoa lửa, khơng bốc cháy thành ngọn lửa, sau đó kết thành cục
màu đen, dể bóp nát.
6/ Nếu vải làm bằng sợi poliamit(nilon): Khi đốt sợi vải khơng cháy ngọn lửa
mà co vón lại và cháy thành từng giọt dẻo màu trắng, có mùi của rau cần, khi nguội
thì biến thành cục cứng có màu nâu nhạt, bóp khó nát
Áp dụng: có tác dụng cung cấp cho học sinh phương pháp trong đời sống
nhận biết các chất liệu vải phục vụ cho mục đích sử dụng, điều này cũng rất thực
tiễn.
* Ví dụ 5: Hoá chất trong cơ thể của con người như thế nào?

Các nhà khoa học đã tính được rằng:


• Lượng nước trong cơ thể của mỗi người chúng ta chỉ đủ giặt một chiếc áo
sơ mi.
• Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.
• Lượng đường chỉ đủ cho làm một nữa cái bánh ngọt nhỏ.
• Lượng vơi trong tồn bộ xương của cơ thể đủ để xây một cái chuồng gà
con.
• Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phịng.
• Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.
• Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét.
• Cộng cả lại kể các các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các nhà
bác học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ đáng
giá chưa tới 3$.
Áp dụng: Đây là tình huống có chút khơi hài nhưng có thể giúp học sinh nắm
được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người nhằm làm rõ thêm về
quan điểm duy vật .
* Ví dụ 6: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước:
[K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O]
Phèn chua khơng độc, có vị chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong
nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH) 3 ở
dạng kết tủa keo lơ lững trong nước
Al2 ( SO4 )3 → 2 Al 3+ + 3SO42−
Al 3+ + H 2O 
→ AlOH 2+ + H +
AlOH 2+ + H 2O 
→ Al ( OH ) 2 + H +
+


Al ( OH ) 2 + H 2O 
→ Al ( OH ) 3 ↓ + H +
+

Al2 ( SO4 )3 + 3H 2O 
→ 2 Al (OH )3 ↓ +3H 2 SO4

Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã kết
dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và
lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống nhất
là đối với HS ở vùng hay xảy ra lũ lụt.
* Ví dụ 7: Hàn the là chất gì?
Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở dạng
tinh thể ngậm nước.Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, khơng tan trong
cồn 90o.
Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa,
bánh phở, bánh cuốn,… để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và giòn.
Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất phụ gia cho
thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.


Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị cấm sử
dụng từ lâu. Qua VD này HS hiểu rõ hơn về vấn đề vệ sinh an tồn thực phẩm.
* Ví dụ 8: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng
độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế thuốc đau dạ
dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H 2O


Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học trong đời
sống, khơi dậy sự u thích bộ mơn hóa học đối với học sinh.
* Ví dụ 9: Làm cá bớt tanh bằng phương pháp nào?
Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi tanh
của cá.
Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm, axit
citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá.
Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH3)2NH và (CH3)3N],
có tính bazơ yếu.Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu cơ, chúng có
phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm mất vị tanh của
cá.
+

Ví dụ: CH 3COOH + (CH 3 )2 NH → [ (CH 3 ) 2 NH 2 ] [ CH 3COO ]
Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học trong đời
sống.
* Ví dụ 10 Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người
ta thường ngửi thấy mùi khai?
Khi nước sơng, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm, như:
nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ,… lượng Ure trong các chất hữu cơ sinh ra
nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, ure bị phân hủy thành
CO2 và NH3.
( NH 2 ) 2 CO + 2 H 2O → CO2 + 2 NH 3

Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động:
NH 3 + H 2O 
→ NH 4+ + OH − (∆H < 0)

Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo

chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure khơng bị hồ tan trong
nước mà bị tách ra, bay vào khơng khí làm cho khơng khí xung quanh sơng, hồ có
mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học trong đời
sống.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận


Qua nghiên cứu, áp dụng đề tài tôi thấy hiệu quả giảng dạy cao hơn hẳn khi
chưa áp dụng phương pháp này. Học sinh hứng thú hơn trong học tập, các em
khơng cịn cảm thấy nhàm chán và đặc biệt còn khắc sâu hơn kiến thức cho các em
qua mỗi bài học. Giúp các em có cái nhìn khoa học về các hiện tượng thực tiễn.
Củng cố niềm tin vào khoa học và giúp các em say mê hơn, hứng thú tìm tịi hơn,
học tập tốt hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Vấn đề đổi mới phương pháp trong dạy học ở trường phổ thông đang là vấn
đề cấp thiết. Để dạy hố học trong nhà trường phổ thơng có hiện quả tôi đề nghị
một số vấn đề sau:
Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn đề
hoá học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu hút được
học sinh.
Đối với Sở GD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu tham
khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Với
những sáng kiến kinh nghiệm tốt, theo tôi nên phổ biến để cho các giáo viên tham
khảo và vận dụng.
Với thực trạng học hoá học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, có thể
coi đây là một quan điểm của tơi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao chất lượng dạy
học hoá học trong thời kỳ mới. Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các
thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn

đồng nghiệp để đề tài của tơi được hồn thiện hơn. Tơi xin chân thành cảm ơn!

PHỤ LỤC
* Giải thích một số kí hiệu :
∆H < 0 : Phản ứng tỏa nhiệt
D:
Khối lượng riêng
↓:
Chất kết tủa
↑ :
Chất bay hơi
tnc :
Nhiệt độ nóng chảy



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa hoá học lớp 8-9
[2] Phân phối chương trình mơn hố họcTHCS.
[3] Sách giáo viên hoá học lớp 8-9. (NXB GD)
[4] Tài liệu giáo khoa chuyên hoá học (Tập 1,2 NXB GD)
[5] Con người và những phát minh (Bách khoa thư chuyên đề – NXB GD
1998)
[6] Hóa học và ứng dụng.
[7] Từ điển hố học phổ thông.



×