Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO (SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 – TẬP 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.06 KB, 107 trang )

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ TÁC PHẨM
VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO
CỦA NAM CAO (SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 – TẬP 1)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10


MỤC LỤC

Lời cảm ơn..........................................................................................................
Những chữ viết tắt trong luận văn.....................................................................
Mục lục.............................................................................................................

i


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do thực tiễn
Chí Phèo được đánh giá là tác phẩm xuất sắc không chỉ trong sự
nghiệp sáng tác của Nam Cao mà cả trong trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 – 1945. Từ khi ra đời đến nay, Chí Phèo luôn là đối tượng hấp dẫn
của mọi thế hệ độc giả và các nhà nghiên cứu. Có thể khác biệt về mục đích,
quan điểm, đề tài nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về
giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Do đó, chúng tơi
quyết định một lần nữa, nghiên cứu về kiệt tác này.
1.2. Lý do sư phạm
Chí Phèo đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 11 từ


khá lâu. Mặc dù được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nam
Cao trước Cách mạng và là kiệt tác đánh dấu bước phát triển của chủ nghĩa
hiện thực trước 1945 nhưng thực trạng dạy học Chí Phèo hiện nay do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan còn nhiều bất cập. Giáo viên và học
sinh vẫn cịn khó khăn trong việc tiếp cận tác phẩm một cách toàn diện và sâu
sắc. Giờ học chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu đặt ra. Ngoài tiếp cận,
tìm hiểu tác phẩm, giờ học cần phát huy được vai trò chủ thể của người học.
Luật Giáo dục điều 28.2 đã chỉ ra rằng: “Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
Từ những yêu cầu trên, nhiệm vụ hàng đầu đặt ra cho mỗi giáo viên là phải
đổi mới phương pháp giảng dạy. Bởi vậy, đây là mảnh đất hứa hẹn nhiều
phương hướng và cách thức nghiên cứu, chiếm lĩnh văn bản… để nâng cao
chất lượng và hiệu quả cho giờ dạy học.
1


Từ những lý do trên, chúng tôi triển khai đề tài: “VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY
HỌC TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NHÀ VĂN NAM CAO (SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 – TẬP 1) với hi vọng sẽ cung cấp thêm một tư
liệu phục vụ cho việc dạy học của giáo viên, đồng thời giúp các em học sinh
có thể từng bước chiếm lĩnh tác phẩm một cách hiệu quả, toàn diện.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về tác gia Nam Cao
Sinh thời, Nam Cao và tác phẩm của ông không thực sự được chú ý.
Nhưng sau khi nhà văn hy sinh, đặc biệt sau cách mạng tháng Tám,có rất nhiều
cơng trình, bài viết nghiên cứu về tác gia Nam Cao và tác phẩm của ơng từ nhiều

góc độ. Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn, tư tuởng và phong cách đã
viết: “Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh
trọng đối với con người. Ơng thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị
lăng nhục chỉ vì bị đầy đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường.” [25, tr.221]. Tác
giả đã chỉ ra vẻ đẹp tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao: “Nam Cao
là người hay quan tâm đến vấn đề nhân phẩm và lương tâm.” [25, tr.221]
Trong cuốn Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, GS. Hà Minh Đức
đã chỉ ra những nét độc đáo trong các tác phẩm của Nam Cao và cho rằng:
“Nam Cao thiên về phân tích những biểu hiện nội tâm của nhân vật. Do đó,
hầu hết các tác phẩm của Nam Cao thường theo lối tâm lý”. [10, tr.184]
Trong Đặc trưng bút pháp hiện thực Nam Cao, Phong Lê nhận định
như sau: “Nói bút pháp hiện thực Nam Cao là nói một bút pháp hiện thực
nghiêm ngặt. Một bút pháp chủ trương lách vào tận đáy sâu sự thật, lách vào
từng ý nghĩ, từng suy tính cùng cực.”[5, tr.437]
GS. Nguyễn Văn Hạnh trong bài “Nam Cao và khát vọng một cuộc
sống lương thiện, xứng đáng” đã nhận xét: “Với quan điểm nhân đạo sâu sắc
của mình, có thể nói trong văn học ta nửa đầu thế kỷ XX, hơn bất kỳ một nhà
văn nào khác, Nam Cao đã đặt ra trực diện vấn đề kiếp người, vấn đề thân
2


phận con người, vấn đề con người bị tha hoá, khơng được sống như bản tính
của mình, theo những nhu cầu tự nhiên lành mạnh của mình”. [27, tr.129]
Đào Tuấn Ảnh trong bài “Tsekhop và Nam Cao – một sáng tác hiện thực
kiểu mới” đã nêu lên ba đặc điểm chung trong sáng tác của hai nhà văn đó là
“cả hai đều viết về những điều vặt vãnh của đời sống hàng ngày (…) Cốt lõi của
cái mới trong sáng tác của họ là ở cách hiểu cuộc sống của họ phức tạp hơn,
biện chứng hơn”, cả hai đều “khước từ kiểu cốt truyện truyền thống trong
truyện ngắn và truyện vừa. Nhiều tác phẩm của họ khơng có cốt truyện, khơng
có sự kiện gì đặc sắc xảy ra mà chỉ là sự diễn tả tâm trạng, suy nghĩ, đối thoại

của các nhân vật” [27, tr.166-169]. Và “cảm hứng bi kịch, hài kịch là cảm hứng
chủ đạo trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao và Sêkhơp.”[27, tr.169]
Từ khi có phong trào đổi mới, bên cạnh hướng tiếp cận cũ, giới nghiên
cứu đã mở rộng các hướng tiếp cận thế giới nghệ thuật của Nam Cao - nhà văn
đã có những đóng góp lớn vào cuộc cách tân ngơn ngữ của thể loại truyện
ngắn.Tính mới mẻ, hiện đại của ngơn ngữ văn xuôi Nam Cao cũng đã thu hút rất
nhiều giới nghiên cứu, phê bình và đã có nhiều bài viết đề cập khá sâu sắc xung
quanh vấn đề này. Tác giả Bích Thu với bài “Sức sống của một sự nghiệp văn
chương” đã nhận xét: “Ngôn ngữ trong các sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ
đa âm, phức điệu hiện đại, dù được viết vào thời đại ông nhưng bây giờ đọc vẫn
thấy mới. Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Cao là sự hoà âm, phối hợp của nhiều
loại ngơn ngữ khác nhau như là sự sống tự nó cất lên như thế”. [27, tr.32]
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về Nam Cao như:
Huệ Chi – Phong Lê (1960), Đọc Truyện ngắn Nam Cao soi lại những
bước đường đi lên của một nhà văn hiện thực, Tạp chí Văn nghệ (8), Hà Nội
Huệ Chi – Phong Lê (1964), Con người và cuộc sống trong tác phẩm
Nam Cao, Tạp chí Nghiên cứu văn học (1), Hà Nội
Hà Minh Đức (1961), Nam Cao và đôi nét về nghệ thuật sáng tạo tâm
lý, Tạp chí Văn học (6), Hà Nội
Nguyễn Đình Chú (1990), “Đơi mắt” của Nam Cao, Tạp chí Văn học
(3), Hà Nội
3


Trần Đăng Suyền (1991), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao. NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội
Hà Bình Trị (1996), Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ độc đáo của nam Cao
– sự ý thức về cá nhân, Tạp chí Văn học (9), Hà Nội
……….
Như vậy đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về Nam Cao và tác

phẩm của ông từ nhiều góc độ: nội dung, nghệ thuật, ngơn ngữ, phong cách…
Dù nghiên cứu từ góc độ nào thì có thể nói điểm chung của tất cả các cơng
trình nghiên cứu, các bài viết đều khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo và chủ
nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của ơng.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu về Chí Phèo và các phương pháp dạy
học tác phẩm
Chí Phèo là một kiệt tác được đông đảo bạn đọc và các nhà khoa học
dày cơng tìm hiểu, nghiên cứu. Trước cách mạng, Chí Phèo khơng thực sự
được chú ý. Tác phẩm chỉ xuất hiện trong bài viết giới thiệu của Lê Văn
Trương. Trong lời tựa Đôi lứa xứng đôi, tác giả viết: “Giữa lúc người ta
đang đắm mình trong những chuyện tình thơ mộng và hùa nhau phụng sự cái
thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo lối riêng,
nghĩa là ông không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Nhưng cái tài
của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và
tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình, ở thiên
chức của mình”.[27, tr.325]
Sau cách mạng, các cơng trình nghiên cứu về Chí Phèo x́t hiện
ngày càng nhiều. Năm 1961, Hà Minh Đức đã nghiên cứu một cách hệ thống
và đầy đủ về Nam Cao trong cuốn chuyên luận Nam Cao nhà văn hiện thực
xuất sắc. Ông cũng đã phân tích sâu sắc về giá trị điển hình của hình tượng
nhân vật Chí Phèo.
Trong bài “Qua truyện ngắn Chí Phèo bàn thêm về cái nhìn hiện thực
của Nam Cao”, nhà nghiên cứu Trần Tuấn Lộ cho rằng: “Ra đời năm 1941,
4


truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao đã khẳng định ngay từ đầu sự hình thành
của một phong cách mới, vững vàng và sắc sảo. Có thể nói, trong tồn bộ
những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám về đề tài nơng
dân, Chí Phèo là một thành tựu đặc biệt, tiếp tục truyền thống của những tác

phẩm hiện thực trước đó như Tắt đèn của Ngơ Tất Tố, Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan.” [27, tr.179]. Tác giả đã bước đầu nhìn nhận so sánh sự
phát triển trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, sự tiếp tục truyền
thống của Tắt đèn, Bước đường cùng đó là vạch ra những mâu thuẫn trong
nội bộ giai cấp.
Nguyễn Quang Trung trong bài viết “Tính chất lưỡng hóa trong nhân
vật Chí Phèo” đã nêu lên sự khác nhau cơ bản trong tính cách chị Dậu, anh
Pha và Chí Phèo. Theo ông, “Anh Pha, chị Dậu là con người tốt thuần nhất,
họ thăng trầm về số phận nhưng khá tĩnh tại về tính cách. Chỉ đến Chí Phèo,
Nam Cao mới thực sự tạo ra một cái nhìn phức tạp hơn, phong phú hơn và vì
thế cũng sâu sắc hơn về con người. Nhờ thế ơng đã trình làng một loạt nhân
vật mới, một kiểu tính cách mới trong hình ảnh con người vừa đánh mất, vừa
đi tìm nhân cách.” [27, tr.208]
Trong bài viết “Chí Phèo”, nhà nghiên cứu Nguyễn Hồnh Khung
tiếp tục triển khai những ý kiến mà ông phát biểu trước đây về truyện ngắn
Chí Phèo. Ơng khẳng định: “Ngay từ Chí Phèo, Nam Cao đã tự khẳng định
trong văn học sử như là người trực tiếp kế thừa truyền thống các nhà văn
hiện thực lớp trước, trong cuộc chạy tiếp sức khẩn trương của các thế hệ
văn học đã nhanh chóng nắm lấy và giương cao ngọn đuốc của chủ nghĩa
hiện thực, đưa nó tới thời kỳ phát triển mới, cao nhất, trong một hoàn cảnh
thử thách của nó”. Kế thừa truyền thống ở đây là: “Giống như Tắt đèn,
Bước đường cùng, Giông tố thời mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là bức
tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt. Cũng như
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đã phản ánh hiện thực nơng
thơn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp…” [27,tr.113]
5


Ngồi ra cịn có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu như:
Hoàng Cao (1997), Những mẩu truyện xoay quanh các nhân vật trong

“Đơi lứa xứng đơi”, Tạp chí Văn học (10), Hà Nội
Phạm Tú Châu (1992), Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ, Tạp chí
Văn học (1), Hà Nội
Đặng Anh Đào (1991), Khả năng tái sinh của Chí Phèo, Báo văn nghệ
(51), Hà Nội
…………
Tồn bộ các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên nghiên cứu về Nam
Cao và tác phẩm của ơng nói chung, Chí Phèo nói riêng dưới góc độ văn học
sử, phong cách tác giả, giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm v..v… chính
là nền tảng cơ bản, vững chắc để chúng ta có thể tham khảo, kế thừa khi
nghiên cứu hướng đi mới.
Nam Cao và truyện ngắn của ông đã được đưa vào dạy học ở THCS,
THPT từ khá lâu. Trong mấy chục năm qua, nhất là khoảng mười năm trở lại
đây, có nhiều nhà phương pháp, thầy cơ giáo đầy tâm huyết đã mở ra nhiều
hướng nghiên cứu ở các góc độ, khía cạnh cùng với những tìm tịi, phát hiện
đầy mới mẻ nhằm tìm ra phương pháp, biện pháp dạy học Chí Phèo của Nam
Cao sao cho đạt hiệu quả tốt nhất.
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính đến nay đã có tới hàng
trăm cơng trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và khố luận tốt
nghiệp viết về Chí Phèo. Chỉ riêng ở ĐHQG Hà Nội đã có những luận văn thạc
sĩ nghiên cứu về phương pháp dạy học truyện ngắn “Chí Phèo” như:
Dạy học tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa” của Nam Cao theo đặc
trưng thể loại của Phạm Thị Hoài Thu
Xây dựng hệ thống câu hỏi hiệu quả trong dạy học tác phẩm Chí Phèo
(Nam Cao) của Vũ Thị Khánh Hịa
Phương pháp dạy học tác phẩm của Nam Cao trong trường trung học phô
thông từ việc khai thác các phương thức cấu tạo hàm ngơn của Trần Thị Thìn
6



Vận dụng văn học so sánh trong dạy học truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao của Hồng Huyền Thương
Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trung học phô thông bằng câu
hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam
Cao của Vũ Thị Mận
Phương pháp dạy học tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa” của Nam Cao
từ hướng tiếp cận phong cách nghệ thuật của nhà văn của Hồng Thị Chun
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, trong những thời điểm khác
nhau nhưng các tác giả đều thống nhất khẳng định tài năng bậc thầy của Nam
Cao và giá trị của tác phẩm. Mỗi tác giả đã đưa ra phương pháp dạy học khác
nhau nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu về việc vận dụng quan điểm
tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong dạy học tác phẩm Chí Phèo. Tiếp
thu những phát hiện, những ý kiến rất có giá trị của những nhà nghiên cứu, luận
văn tập trung nghiên cứu hướng “Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác
phẩm văn chương trong dạy học tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất hướng dạy học mới tác phẩm Chí Phèo để giúp học sinh tiếp
nhận đầy đủ, sâu sắc, toàn diện tác phẩm
3.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng của việc dạy học Chí Phèo ở trương phổ thơng
qua phiếu điều tra giáo viên, học sinh; qua giáo án của giáo viên; qua các bài
kiểm tra của học sinh.
-Từ đó phân tích và vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ để đi đến
một phương án tối ưu cho việc dạy học Chí Phèo.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu dạy tác phẩm Chí Phèo theo quan điểm tiếp cận đồng bộ sẽ tận
dụng được lợi thế của từng hướng tiếp cận, đưa giờ học thực sự đúng bản chất
của tác phẩm văn chương, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
truyện ngắn nói chung và Chí Phèo nói riêng.

7


5. Phương pháp nghiên cứu
- Khái qt hóa lí luận, từ đó đưa ra các định hướng phục vụ cho yêu
cầu của đề tài.
-Khảo sát điều tra: sử dụng phiếu điều tra về thực trạng dạy học tác
phẩm Chí Phèo ở trường phổ thơng.
- Phân tích tổng hợp: khảo sát, phân tích văn bản từ đó tổng hợp thành
một số vần đề có ý nghĩa trong việc giảng dạy tác phẩm.
- So sánh: so sánh tác phẩm Chí Phèo với một số tác phẩm khác cùng
đề tài của Nam Cao và những nhà văn khác.
- Thực nghiệm sư phạm
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng dạy học tác phẩm Chí Phèo trong nhà trường hiện nay.
- Nghiên cứu biện pháp dạy học mới, hiệu quả cho tác phẩm: Vận dụng
quan điểm tiếp cân đồng bộ tác phẩm văn chương.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn dự kiến được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Dạy học tác phẩm Chí Phèo theo hướng tiếp cận đồng bộ
Chương 3: Thực nghiệm

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương

Sáng tác tác phẩm văn chương là một q trình khép kín bao gồm:
cuộc sống – nhà văn – tác phẩm – bạn đọc – cuộc sống. Quá trình đó là
vịng đời của một tác phẩm.
Hiện nay tồn tại ba khuynh hướng tiếp cận tác phẩm thường thấy: Tiếp
cận lịch sử phái sinh, tiếp cận văn bản, tiếp cận theo hướng lịch sử chức năng.
Có thể nói, mỗi phương pháp tiếp cận đều có ưu điểm riêng. Nếu phương
pháp “Tiếp cận theo khuynh hướng lịch sử phái sinh” xem xét tác phẩm trong
mối quan hệ với xã hội thì “Tiếp cận văn bản” nhìn tác phẩm ở chính bản thân
nó, cịn “Tiếp cận theo hướng lịch sử chức năng” đánh giá tác phẩm trong mối
quan hệ tác động tới bạn đọc.
Đặt vấn đề tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương, tức là phải xem xét
tác phẩm trên tất cả các mặt một cách đồng thời hợp lý, đúng mức vào quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu, cảm thụ tác phẩm. Không nghiêng lệch về một
phương pháp tiếp cận nào, bao giờ cũng phải nhìn nhận tác phẩm trong mối
quan hệ gắn bó tác động lẫn nhau giữa xã hội – tác phẩm – bạn đọc.
Quan điểm tiếp cận đồng bộ đã được giáo sư Phan Trọng Luận đánh giá
cao trong bài “Tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường”. Ông
cho rằng: “Một kết luận khoa học quan trọng và cơ bản đối với người nghiên
cứu và giảng dạy văn học là luôn nắm vững quan điểm tiếp cận đồng bộ, một
sự vận dụng hài hòa các phương pháp Lịch sử phát sinh, Cấu trúc văn bản và
Lịch sử chức năng khi tiếp cận tác phẩm văn chương. Một phương pháp tiếp
cận như vậy được xây dựng từ nhận thức đúng đắn về nguồn gốc của văn
học, về bản chất cấu trúc và sinh mệnh của tác phẩm văn chương, đó cũng là
sự vận dụng nhuần nhuyễn những quan điểm khách quan và khoa học về sáng
tác và tiếp nhận văn chương vào việc tìm hiểu một tác phẩm văn chương cụ
thể” [22,tr.12].
9


Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn

chương” cũng khẳng định: “Hoạt động tiếp cận tác phẩm văn chương là thao
tác đầu tiên của cơ chế tiếp nhận. Hoạt động này cần tiến hành một cách đồng
bộ, không thể quá nặng, quá nhẹ với bất cứ một khuynh hướng nào. Khuynh
hướng Tiếp cận lịch sử phái sinh quan tâm đến tính chất xã hội của tác phẩm,
đến nguồn gốc nhận thức của văn học với đời sống. Hướng tiếp cận bản thể
tác phẩm đào sâu vào cơ cấu hình thức được sáng tạo của tác phẩm. Đây là
cách tiếp cận mang tính thẩm mỹ văn học. Khuynh hướng Tiếp cận chức năng
– tác động tuy khơng bao hàm nhiều thao tác trí tuệ phức tạp nhưng lại phải
vận dụng sự sáng suốt của trái tim để sự cộng thông giữa những vấn đề của
con người trong quá trình tiếp nhận diễn ra tốt đẹp…” [13,tr.34]
Như vậy có thể khẳng định: tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương là
một phương hướng đúng đắn, cần thiết. Nó vừa là một phương pháp “khoa
học quan trọng” để tìm hiểu, cảm thụ tác phẩm, vừa giải quyết được băn
khoăn nên hiểu tác phẩm như thế nào cho hợp lý. Vận dụng quan điểm Tiếp
cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường chính là tìm một phương
án tối ưu cho giờ giảng văn ở trường trung học phổ thông.
1.1.1. Tiếp cận theo hướng lịch sử phái sinh
Mỗi tác phẩm văn chương luôn được ra đời trong những bối cảnh lịch
sử xã hội văn hóa cụ thể, những yếu tố thẩm thấu chắt lọc thông qua lăng kính
của nhà văn để đi vào tác phẩm. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà muốn
nghiên cứu một tác phẩm văn học cụ thể, chúng ta không thể không tìm đến
bối cảnh và nhà văn. Bài thơ Quê hương của Giang Nam ra đời những ngày
quân thù đang ra sức truy lùng bắt bớ, tàn sát những người thân của các cán
bộ cách mạng. Từ cái chết thê thảm của người yêu, tác giả xây dựng nên tứ
thơ. Nếu không nắm được bối cảnh lịch sử cụ thể miền Nam thời kỳ đó thì sẽ
khơng hiểu được dụng ý nghệ thuật của tác giả và ý nghĩa khái quát điển hình
của nỗi đau trong bài thơ khi nói đến cái chết có vẻ riêng tư. Nếu tách Tống
biệt hành ra khỏi hoàn cảnh 1940-1945, chúng ta dễ thiên về ý nghĩa khái

10



qt mn thuở của tình cảm tống biệt mà qn đi nỗi đau trăn trở giằng xé
của một thế hệ thanh niên Việt Nam hồi bấy giờ đang muốn lên đường tìm lối
thốt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, bế tắc với bao nhiêu níu kéo nặng nề. Cũng
tương tự như vậy, nếu khơng hiểu mối tình và bệnh tình của Hàn Mặc Tử,
chắc hẳn ta cũng không lắng nghe hết nỗi quằn quại trong thơ người thanh
niên tài hoa mà bất hạnh ấy. Nhưng nếu chỉ thu gọn bài thơ trong giới hạn một
mối tình, một bệnh trạng, một hồn cảnh cá nhân thì ý nghĩa của bài thơ lại bị
hạ thấp về giá trị và ý nghĩa chung. Giữa năm 1930 – 1945, cảm nhận về hạnh
phúc bấp bênh, hư ảo không chỉ là nỗi đau riêng của chàng thi sĩ tật nguyền
bất hạnh mà đó cũng là nỗi đau thời đại của lớp thanh niên Việt Nam chưa có
lối thốt cho con đường hạnh phúc và số phận mình. Hàn Mặc Tử từ niềm
riêng bắt gặp cõi lòng chung.
Tiếp cận tác phẩm theo khuynh hướng lịch sử phái sinh là cách tiếp cận
hình thành sớm hơn cả. Trước đây, khơng ít người đã lấy những hiểu biết về
lịch sử phát sinh để giải thích và tìm hiểu tác phẩm mà khơng cần tìm hiểu
chính bản thân tác phẩm. Đó là một sai lầm bởi nếu lạm dụng phương pháp
tiếp cận này để dễ đưa đến chỗ thoát li tác phẩm, bàn luận và lí giải một cách
áp đặt giá trị tác phẩm bằng các yếu tố ngoài văn bản. Vẫn biết rằng tác phẩm
văn chương là tác phẩm của một thời đại nhất định, là sản phẩm của một cá
nhân cho nên không thể hiểu tác phẩm mà khơng biết x́t xứ của nó. Song
khơng nên độc tơn hay tuyệt đối hóa phương pháp tiếp cận này, không nên
đồng nhất tác phẩm với cuộc đời thực. Bởi hiện thực trong tác phẩm là hiện
thực được nhà văn lựa chọn, phản ánh, đánh giá theo quan niệm thẩm mỹ
riêng của mình. Tiếp cận theo khuynh hướng Lịch sử phái sinh là một phương
pháp tiếp cận hết sức quan trọng để tìm hiểu tác phẩm, là cơ sở để lí giải đánh
giá tác phẩm, phương hướng để tìm ra sợi dây liên hệ giữa xã hội với tác
phẩm, giữa tác phẩm với hồn cảnh mà nó ra đời.
Để khắc phục những hạn chế của phương pháp tiếp cận theo khuynh

hướng lịch sử phái sinh, chúng ta phối hợp cùng các phương pháp tiếp cận
khác để bổ sung những ưu điểm của chúng.
11


1.1.2. Tiếp cận văn bản
Những hiểu biết ngoài văn bản vô cùng quan trọng nhưng không thể
thay thế cho việc khám phá bản thân văn bản. Quan điểm Tiếp cận văn bản
giúp người đọc, người nghiên cứu giảng dạy không thoát ly văn bản vốn là đề
án tiếp nhận mà nhà văn gửi đến bạn đọc. Hướng tiếp cận này quan tâm đến
thế giới bên trong của tác phẩm để xác định vị trí riêng và giá trị độc lập của
tác phẩm. Đây là phương hướng tiếp cận quan trọng nhất bởi có văn bản mới
tồn tại giá trị nghệ thuật. Tiếp cận theo hướng bản thể là xem văn bản là đối
tượng chủ yếu để khai thác các giá trị của tác phẩm từ tiêu đề, bố cục, kết cấu,
giọng điệu, nhịp điệu… Nếu như Tiếp cận lịch sử phái sinh là sự giao tiếp với
xã hội về nghệ thuật ngồi tác phẩm thì Tiếp cận bản thể là giao tiếp với xã
hội nghệ thuật trong tác phẩm. Thực chất của Tiếp cận bản thể là bắt nguồn từ
chính tác phẩm để hiểu tác phẩm. Từ việc tìm hiểu văn bản mà khám phá tư
tưởng nghệ thuật, chiều sâu tác phẩm, tiềm năng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Phương pháp tiếp cận này đảm bảo được tính khoa học chính xác của việc
phân tích giá trị của tác phẩm văn chương. Có đi vào chi tiết, có bám sát văn
bản tác phẩm mới hiểu nó một cách thấu đáo.
Văn bản là thông điệp nhà văn gửi tới bạn đọc. Đặc trưng cơ bản của
văn bản nghệ thuật là thông tin thẩm mĩ. Nhà văn gửi đến cuộc đời niềm xúc
động mãnh liệt nhất, những rung cảm tha thiết nhất về cuộc sống, con người.
Đây là điểm mấu chốt để phân biệt phương pháp tiếp cận văn bản đích thực
với với lối xã hội học hay một hiện tượng lịch sử cằn cỗi, một phương tiện
minh họa giản đơn cho hiện thực xã hội…Tuy nhiên, chúng ta cần tránh
khuynh hướng cực đoan chỉ nhìn nhận giá trị của văn bản nghệ thuật ở
phương diện thẩm mĩ. Một tác phẩm luôn chứa đựng trong đó mn vẻ của

cuộc sống, con người, xã hội mà bạn đọc không thể bỏ qua.
Tác phẩm văn chương là một văn bản trong chỉnh thể chặt chẽ giữa nội
dung và hình thức, giữa bộ phận và tổng thể, giữa yếu tố hữu hình và vơ
hình…. Tác phẩm được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhằm xây dựng
12


một thế giới nghệ thuật riêng. Trong giảng văn, giáo viên khơng nên coi nhẹ
tính chỉnh thể của tác phẩm; tránh xu hướng xé lẻ, đập vụn khiến tác phẩm
mất đi tính nhất quán; cảm hứng chủ đạo của nhà văn, tư tưởng chủ đề của tác
phẩm bị mờ nhạt hoặc hiểu một cách lệch lạc.
Một trong những con đường đi vào tác phẩm văn chương là nhận diện
được loại thể. Mỗi loại thể có một phương pháp tiếp cận khác nhau: kịch
không giống với tự sự, văn học trung đại không giống với văn học hiện đại
…. Nếu không xác định đúng loại thể sẽ dẫn đến nhiều hạn chế trong việc cắt
nghĩa tác phẩm.
Khi tiếp cận văn bản, khơng nên tuyệt đối hóa văn bản, cắt đứt mối
quan hệ giữa hồn cảnh tạo nên nó cũng như người tiếp nhận nó. Nếu chỉ tiếp
cận trong bản thân văn bản sẽ khiến ý nghĩa tác phẩm mờ nhạt và không thực
hiện được chức năng cao cả của văn học.
1.1.3. Tiếp cận theo hướng lịch sử chức năng
Trước kia, khi phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường, người
ta chỉ chú ý hai hướng tiếp cận chính: Lịch sử phái sinh và Tiếp cận văn bản.
Trong những thập kỉ gần đây, lí luận văn học đã nhấn mạnh thêm hướng lịch
sử chức năng. Nếu như trước đây, tác phẩm văn chương được coi như một
hiện tượng tĩnh thì nay được nhìn trong trạng thái động, trong sự vận động
đến với bạn đọc. Đây là khuynh hướng tiếp cận hết sức mới mẻ, khai thác tác
phẩm qua sức đồng cảm và sáng tạo của bạn đọc khi đi vào tìm hiểu tác
phẩm. Như trên đã trình bày, tác phẩm văn chương là hệ thống mở. Tác phẩm
văn chương chỉ thực sự đi trọn vòng đời trong mối quan hệ với bạn đọc để trở

về lại với cuộc sống - nơi vốn là xuất phát điểm của tác phẩm. Nhiều nhà văn
lớn như Tchekôp, Mac Sac, A.Tônxtôi… đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của bạn đọc như một yếu tố quyết định sinh mệnh của tác phẩm. Một tác
phẩm được coi là tác phẩm chết nếu không được bạn đọc tiếp nhận. Hay nói
cách khác, đó chỉ là những đống giấy câm lặng, vơ hồn nếu khơng có bạn đọc.
Mỗi tác phẩm văn học là một thế giới nhân sinh thu nhỏ dưới con mắt
13


thẩm mỹ của nhà văn. Khi sáng tác, nhà văn luôn hướng tới người đọc để tâm
sự, gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình. Và tác phẩm ln tác động đến người
đọc qua các thế hệ. Khi tiếp cận một tác phẩm văn học, cần chú ý đến mối
quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc, xem xét ảnh hưởng, tác động của tác phẩm
vào tình cảm, tư tưởng, nhận thức, thẩm mỹ của người đọc.
Lí luận về tác động chức năng của văn bản làm sinh động hơn, phong
phú hơn cách hiểu, cách cắt nghĩa tác phẩm văn chương đồng thời làm cho
việc phân tích giảng dạy văn học trong nhà trường có hiệu quả hơn, phát huy
khả năng cảm thụ nghệ thuật, vai trò bạn đọc sáng tạo của mỗi học sinh.
Trong dạy học văn, nếu chỉ thiên về văn bản, dễ khiến học sinh rơi vào tình
trạng thờ ơ với số phận nhân vật, với tiếng nói nhà văn....Học sinh sẽ trở
thành người ngồi cuộc, một khách thể chịu tác động một chiều của giáo viên
là chính. Thậm chí mối quan hệ giữa học sinh với tác phẩm cũng bị giãn cách
nếu giáo viên chỉ quan tâm đến tác phẩm, đến nghệ thuật truyền giảng mà
không tìm hiểu học sinh có những phản ứng như thế nào về tác phẩm. Tuy
nhiên, khi nhấn mạnh đến quan điểm người đọc, đến phản ứng và đáp ứng của
học sinh trong giờ học văn, chúng ta không cường điệu hay tuyệt đối hóa sở
thích của học sinh mà ln cần có sự hài hịa giữa cảm thụ cá nhân học sinh
với định hướng sư phạm của người thầy. Quan điểm tiếp cận đồng bộ văn
bản, ngoài văn bản và đáp ứng của học sinh là sự kết hợp hài hòa, đảm bảo
hiệu quả vững chắc cho việc nghiên cứu và dạy học tác phẩm văn chương

trong nhà trường.
Ba hướng tiếp cận lịch sử phái sinh, văn bản và lịch sử chức năng đều
rất cần thiết để đi vào khám phá tác phẩm văn chương. Khơng thể có cách
hiểu, lý giải thấu đáo, toàn vẹn nếu chỉ sử dụng một trong ba hướng tiếp cận
này. Bởi mỗi hướng tiếp cận đề có ưu điểm và khuyết điểm riêng. Tiếp cận
đồng bộ tác phẩm là cách tiếp cận khoa học, tối ưu, xuất phát từ bản chất văn
học và quy luật tiếp nhận.
Từ những ưu điểm của phương pháp tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn
14


chương, chúng tôi đề xuất phương pháp dạy học tác phẩm Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao theo quan điểm tiếp cận đồng bộ để tìm hiểu tác phẩm một cách
sâu sắc, tồn diện.
1.2. Vị trí truyện ngắn Chí Phèo trong lịch sử văn học, nhà trường và
thực trạng dạy học tác phẩm
1.2.1. Vị trí truyện ngắn Chí Phèo trong lịch sử văn học và trong nhà trường
Nam Cao là nhà văn được đánh giá là một trong số ít những gương mặt
nổi bật nhất của văn xuôi hiện đại, là cây bút tiêu biểu nhất, xuất sắc nhất không
chỉ của trào lưu văn học hiện thực trong giai đoạn phát triển cuối cùng (19401945) mà của cả dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945.
Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao. Tên tuổi Nam Cao gắn
liền với Chí Phèo. Tác phẩm này được giới nghiên cứu phê bình văn học và
đơng đảo bạn đọc mấy chục năm qua đánh giá là tác phẩm nổi bật nhất, không
chỉ đối với sự nghiệp sáng tác của Nam Cao mà đối với cả trào lưu văn học hiện
thực 1930 – 1945 và được coi là một kiệt tác bất hủ của văn học dân tộc.
Là một kiệt tác bất hủ, đồng thời, Chí Phèo cịn là tác phẩm có vị trí
văn học sử đặc biệt. Đây vừa là tác phẩm mở đường của nhà văn lớn Nam
Cao lại vừa được coi như là cột mốc đánh dấu bước phát triển mới của chủ
nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trước 1945.
Chí Phèo được giảng dạy ở nhà trường trung học phổ thông suốt từ

năm 1964 cho đến nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 11, tác phẩm
được đặt ở bài cuối cùng của thời kỳ văn học hiện thực phê phán 1930 –
1945. Tác gia Nam Cao cùng tác phẩm Chí Phèo được dạy trong 3 tiết, là
một trong những nội dung quan trọng có trong chương trình kiểm tra học kì
và thi cao đẳng, đại học. Tác phẩm là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ xã hội thực
dân nửa phong kiến tàn bạo đã cướp đi của người nông dân lương thiện cả
nhân hình lẫn nhân tính. Đồng thời nhà văn cũng trân trọng phát hiện và
khẳng định bản chất tốt đẹp của những con người này ngay khi tưởng như
họ đã khơng cịn là con người. Việc đưa Chí Phèo vào dạy ở nhà trường
15


phổ thông sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn quan điểm nghệ thuật, phong
cách nghệ thuật, tư tưởng nhân đạo của một nhà văn lớn và giá trị nội dung,
giá trị nghệ thuật của một kiệt tác.
1.2.2. Thực trạng dạy học truyện ngắn Chí Phèo ở nhà trường phổ thơng
1.2.2.1. Mục đích khảo sát
Khi khảo sát tình hình dạy học Chí Phèo ở nhà trường phổ thơng hiện
nay sẽ giúp chúng ta đánh giá được những việc đã làm được, những tồn tại
trong quá trình DH tác phẩm, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp thực
hiện tối ưu nhất.
1.2.2.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi tiến hành khảo sát việc DH tác phẩm Chí Phèo của GV và
HS lớp 11 trường THPT.
1.2.2.3. Đối tượng khảo sát
Để tìm hiểu tình hình dạy học tác phẩm Chí Phèo trong nhà trường phổ
thông hiện nay, chúng tôi đã tiến hành khảo sát hai đối tượng cơ bản tham gia
vào quá trình DH trong nhà trường, đó là GV và HS.
Đối với GV là chủ thể dạy – chủ thể tác động và định hướng quá trình
tiếp nhận những tác động thẩm mỹ của một văn bản văn chương trong học

sinh- qua việc tìm hiểu, đánh giá, điều tra hướng khai thác tác phẩm, phân tích
các bài soạn giảng Chí Phèo cũng như dự giờ, chúng tơi có thể rút ra những
mặt tích cực, hạn chế trong thực tế DH tác phẩm này ở nhà trường phổ thông.
Đối với học sinh, hiện nay, vai trò của người học đã được xác định và
đánh giá đúng mức, HS là chủ thể của quá trình học tập, khác với trước đây,
các em chỉ là những khách thể bị động. Hoạt động học của HS khơng chỉ giữ
vai trị quan trọng trên bình diện phương pháp luận mà cịn có ý nghĩa quan
trọng trong thực tiễn DH. Cho nên, chất lượng của quá trình DH chỉ thực sự
đạt kết quả khi có sự tìm hiểu, phân tích thấu đáo thực trạng học tập của HS.
Vì thế, việc khảo sát đối tượng này sẽ giúp chúng tôi đánh giá được hứng thú
học tập, mức độ tiếp nhận tác phẩm cũng như khả năng vận dụng, thực hành
16


các kỹ năng hành văn của HS.
1.2.2.4..Tư liệu khảo sát
- Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1,sách chỉnh lý hợp nhất, NXBGD,
H, 2000)
- Phiếu điều tra
- Vở ghi và bài làm văn của học sinh
* Thời gian khảo sát
Học kì I năm học 2013 – 2014
* Địa bàn khảo sát:
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tại trường THPT Nguyễn Du – thành
phố Bắc Ninh – Tỉnh Bắc Ninh. Gồm:
- Tổ Văn trường THPT Nguyễn Du (gồm 15 GV)
- Lớp 11A2 và 11A3 trường THPT Nguyễn Du
1.2.2.5. Hình thức khảo sát
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn, phát phiếu điều tra đối với GV và HS,
xem vở ghi của học sinh, giáo án của GV; dự các buổi thảo luận cũng như

chấm bài kiểm tra của học sinh để từ đó rút ra được kết quả khách quan nhất
về việc DH Chí Phèo.
Cụ thể như sau:
* Đối với giáo viên:
Chúng tơi đã có những cuộc phỏng vấn trực tiếp đối với một số GV
Ngữ văn ở trường THPT. Các câu hỏi đều xoay quanh vấn đề “ GV hiện nay
tiếp nhận, cảm thụ và DH Chí Phèo như thế nào?” Chúng tôi nhận được
những câu trả lời khá phong phú, đa dạng phần nào phản ảnh đúng với thực tế
DH tác phẩm hiện nay.
Chúng tôi phát phiếu điều tra cho GV và tiến hành khảo sát thông qua
những câu hỏi sau đây:
Câu 1:
Khi dạy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, thầy/cô dựa vào những yếu
17


tố nào sau đây?
- Văn bản tác phẩm và câu hỏi trong SGK
- Hướng dẫn trong SGV
- Kết hợp các tài liệu khác có liên quan đến văn bản tác phẩm
- Ý kiến khác
Câu 2:
Khi DH tác phẩm Chí Phèo, thầy/cơ u cầu HS làm những việc gì?
- Đọc văn bản tác phẩm và trả lời câu hỏi trong SGK
- Tìm hiểu và soạn thêm những câu hỏi về hồn cảnh lịch sử, hoàn cảnh
ra đời tác phẩm, tác giả…
- Tìm hiểu trước về tác phẩm và nêu cảm nhận, đánh giá của riêng
mình về nhân vật, các chi tiết v...v..
- Các ý kiến khác
Câu 3:

Biện pháp chủ yếu khi DH Chí Phèo là gì?
- GV thuyết giảng, HS lắng nghe, tiếp nhận
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản qua hệ thống câu hỏi gợi mở
- GV tổ chức cho HS đối thoại để tìm hiểu tác phẩm
- Các biện pháp khác
Câu 4
Trong DH Chí phèo, thầy/cơ chú ý đến mối quan hệ nào?
- Quan hệ GV – HS
- Quan hệ HS – tác phẩm
- Quan hệ giữa GV – HS – tác phẩm
- Ý kiến khác
Câu 5:
Hướng tiếp cận nào được thầy cô ưu tiên sử dụng khi DH Chí Phèo
- Tiếp cận trong văn bản
- Tiếp cận những yếu tố ngoài văn bản
18


- Tiếp cận theo hướng lịch sử chức năng
- Ý kiến khác
Chúng tôi cũng đã tham gia những buổi sinh hoạt chun đề của tổ bộ
mơn về cách DH Chí Phèo sao cho phù hợp nhất với yêu cầu hiện nay. Phần
đa GV nhất trí với hướng triển khai trong SGK chương trình chuẩn. Bên cạnh
đó, một số GV đã mạnh dạn đề xuất những cách DH mới đối với kiệt tác này.
Đây là tín hiệu đáng mừng trong xu hướng đổi mới phương pháp DH mà
chúng ta đang thực hiện.
Ngồi ra, chúng tơi cịn tiến hành tham khảo một số giáo án về Chí
Phèo cũng như dự giờ tại lớp. Qua đây, chúng tơi nhận thấy, nhìn chung giáo
án của GV đã cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản cho HS trên cả phương
diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên, hầu hết các giáo án cho

thấy khi DH Chí Phèo, GV thường thiên về hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và
tiếp cận văn bản, chưa chú trọng đến hướng tiếp cận lịch sử chức năng. Thực tế
cho thấy chúng ta thiếu vắng những giáo án DH Chí Phèo thể hiện được sự kết
hợp đồng bộ, nhuần nhuyễn của cả ba hướng tiếp cận này.
* Đối với HS
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các em HS trước và sau khi học tác
phẩm Chí Phèo để nắm được sự chuẩn bị bài cũng như mức độ tiếp nhận tác
phẩm của các em. Thực tế cho thấy nhiều HS chưa hứng thú với môn học, học
một cách đối phó, hiểu bài chưa sâu, chưa đạt được mục đích DH mà GV đề ra.
Khi xem vở ghi của HS, chúng tôi thấy rằng đa số các em tuân thủ theo
giáo án GV đã dạy, song vẫn còn một số em ghi chép tùy tiện, sơ sài.
Chúng tôi cũng đã dự các buổi thảo luận của các em xoay quanh tác
phẩm Chí Phèo. Mặc dù ý kiến, nhận xét của các em đưa ra còn mang tính
chủ quan, non nớt nhưng đó vẫn là điều đáng khích lệ bởi các em đã thể hiện
sự quan tâm đến bài học và mạnh dạn nêu ra quan điểm của riêng mình.
Qua khảo sát các bài làm văn của HS (gồm các bài thu hoạch sau tiết
19


học, bài kiểm tra 15 phút, bài viết 2 tiết), chúng tôi cũng thu nhận được những
kết quả nhất định. Một số học sinh đã cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm, biết vận dụng kiến thức vào bài làm một cách nh̀n nhuyễn nhưng
cũng khơng ít học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu mà đề bài đặt ra, chưa cảm
nhận và phân tích, cắt nghĩa vấn đề một cách thấu đáo cũng như chưa đưa ra
được những đánh giá của riêng mình, lệ thuộc nhiều vào bài giảng của GV.
* Đối với SGK và SGV Ngữ văn 11
• SGK Ngữ văn 11
- Về văn bản tác phẩm:
Tác phẩm Chí Phèo được trích từ Nam Cao – Tác phẩm tập I (NXB
Văn học 1997). Đây là văn bản có độ chính xác cao, được nhiều nhà nghiên

cứu tin cậy.
- Về câu hỏi hướng dẫn học bài trong chương trình cơ bản: Các soạn
giả đưa ra 6 câu hỏi:
1. Cách vào truyện của Nam Cao độc đáo như thế nào? Hãy nêu ý
nghĩa tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo trong đoạn văn mở đầu thiên truyện.
2. Việc gặp gỡ Thị Nở đã có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc đời Chí
Phèo? Những gì đã diễn ra trong tâm hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ đó?
3. Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở từ chối
chung sống. Vì sao Chí Phèo có hành động thật dữ dội, bất ngờ (uống rượu,
xách dao đi giết Bá Kiến rồi tự sát)?
4. Qua hình tượng Chí Phèo, hãy làm rõ nghệ thuật điển hình hóa của
Nam Cao (chú ý việc khắc họa tính cách và nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm
lý nhân vật).
5. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngơn ngữ nhân vật trong truyện
ngắn này có gì đặc sắc?
6. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao qua truyện ngắn này.
- Về câu hỏi hướng dẫn học bài trong chương trình nâng cao: Các soạn
20


giả đưa ra 6 câu hỏi:
1. Tóm tắt đoạn trích, nêu ý chính của từng đoạn văn đã được đánh số.
2. Hãy nêu ý nghĩa chi tiết tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo.
3. Các mối quan hệ Bá Kiến – Chí Phèo và Thị Nở truyện ngắn có ý
nghĩa gì trong việc thể hiện tính cách, số hận của nhân vật Chí Phèo?
4. Nêu những diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở. Vì
sao khi bị Thị Nở dứt tình, Chí Phèo lại xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát? Bi
kịch lớn nhất của Chí Phèo được thể hiện trong truyện là gì?
5. Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này có
những điểm gì đặc sắc? (Chú ý lời trần thuật nửa trực tiếp ở đoạn mở đầu

(đoạn 1); độc thoại nội tâm của Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu (đoạn 3); những
lời đối thoại giữa Chí Phèo với Thị Nở (đoạn 4) và nhất là với Bá Kiến ở gần
cuối truyện (đoạn 5)
6. Nêu nhận xét khái quát về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn
Chí Phèo.
Có thể thấy rằng, người biên soạn đã cố gắng đưa ra hệ thống câu hỏi
hướng dẫn học bài Chí Phèo một cách xác thực, cụ thể, đề cập đến những vấn
đề trung tâm của tác phẩm như giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo mới mẻ, tài
năng truyện ngắn bậc thầy của nhà văn. Hệ thống câu hỏi đi từ nội dung đến
hình thức, các câu hỏi về giá trị nội dung đặt ở trên, tiếp theo là các câu hỏi
khám phá giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên, để có được cái nhìn sâu
sắc, tổng thể về tác phẩm, hệ thống những câu hỏi trên còn thiếu những câu
hỏi gợi mở, so sánh, nêu vấn đề phù hợp với HS, chưa tạo điều kiện để các
em bộc lộ cảm xúc, đánh giá, phân tích của riêng mình.
• SGV Ngữ văn 11 (tập I)
Mục đích, ý nghĩa của việc biên soạn SGV là để GV tham khảo, định
hướng cho GV trong quá trình giảng dạy. SGV đã định hướng khai thác Chí
Phèo ở những vấn đề sau:
Tìm hiểu, phân tích nhân vật Chí Phèo, tài liệu hướng dẫn tập trung
21


khai thác q trình tha hóa của Chí từ một người lương thiện trở thành con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Đó là sự tha hóa cả về ngoại hình lẫn bản chất.
Nhưng sâu thẳm bên trong của con quỷ dữ đó, nhà văn vẫn tin tưởng và nhìn
thấy tia sáng của lương tri, của những khát khao đẹp đẽ, lương thiện.
Với nhân vật Bá Kiến, SGV tập trung khai thác bản chất nham hiểm
của hắn. Tài liệu hướng dẫn đã chỉ ra hướng tiếp cận giá trị hiện thực khi đặt
nhân vật trong mối quan hệ với nhau. Mâu thuẫn nông dân – địa chủ gay gắt,
Nam Cao đã xây dựng nên một bức tranh hiện thực rộng lớn mang ý nghĩa

khái qt về tình trạng lưu manh hố của người nông dân và hiện tượng đè
nén, áp bức của bọn cường hào ở nông thôn lúc bấy giờ.
Về mặt nghệ thuật, SGV hướng dẫn cũng tập trung đi sâu và khai thác
những thành công trong cách xây dựng nhân vật điển hình hóa, trong hồn
cảnh điển hình, lối kể chuyện hấp dẫn, lối phân tích tâm lý nhân vật, ngơn
ngữ, giọng điệu độc đáo.
Nhìn chung ở tài liệu này, với vai trò định hướng, phần nào đã tập trung
khai thác được ý nghĩa cơ bản rộng lớn của tác phẩm, bám sát vào nội dung tư
tưởng cũng như hình thức của truyện. Tuy nhiên, cũng tương tự như SGK,
SGV mới định hướng cho GV tập trung khai thác tác phẩm theo hướng tiếp
cận lịch sử phát sinh, tiếp cận văn bản tác phẩm mà chưa dành sự lưu ý đáng
kể đến hướng tiếp cận lịch sử chức năng, chưa khai thác tác phẩm qua sức
đồng cảm và sáng tạo của bạn đọc (học sinh) khi đi vào tìm hiểu tác phẩm sẽ
tác động đến ai? Tác động như thế nào? Trong q trình DH, GV khơng chỉ
quan tâm đến văn bản, đến nghệ thuật truyền giảng mà còn phải tìm hiểu xem
học sinh – những bạn đọc sáng tạo - đã và đang phản ứng như thế nào về tác
phẩm? Như vậy, cả hai tư liệu chúng tôi khảo sát đều tồn tại một số bất cập,
hạn chế cần khắc phục để DH Chí Phèo nói riêng và DH tác phẩm văn
chương trong nhà trường nói chung đạt hiệu quả cao hơn.
1.2.2.6.Kết quả khảo sát
Căn cứ vào phiếu điều tra phát cho GV và học sinh, chúng tôi thu được
22


kết quả như sau:
* Đối với GV
Câu hỏi

1


2

3

4

5

Số GV DH Chí Phèo dựa văn bản tác phẩm và câu hỏi
trong SGK
Số GV dạy Chí Phèo dựa vào hướng dẫn trong SGV
Số GV DH Chí Phèo dựa vào việc kết hợp các tài liệu
khác có liên quan với văn bản tác phẩm
Ý kiến khác
Số GV khi DHChí Phèo yêu cầu HS đọc văn bản tác
phẩm và trả lời câu hỏi trong SGK
Số GV khi DH Chí Phèo yêu cầu học sinh tìm hiểu và
soạn thêm những câu hỏi về hồn cảnh lịch sử, xã hội và
về tác giả
Số GV khi DH Chí Phèo u cầu học sinh tìm hiểu trước
về tác phẩm và nêu cảm nhận, suy nghĩ riêng của bản
thân về tác phẩm
Ý kiến khác
Khi DH Chí Phèo, số GV hướng dẫn HS tìm hiểu tác
phẩm qua hệ thống câu hỏi gợi mở
Số GV tổ chức cho HS đối thoại để qua đó tìm hiểu tác phẩm
Số GV sử dụng biện pháp GV thuyết giảng – HS lắng
nghe và tiếp nhận
Các biện pháp khác
Số GV DH Chí Phèo chú ý đến mối qunan hệ giữa GV – HS

Số GV DH Chí Phèo chú ý đến mối quan hệ giữa GV –
tác phẩm
Số GV DH Chí Phèo chú ý đến mối quan hệ GV – HS –
tác phẩm
Ý kiến khác
Số GV DH Chí Phèo theo hướng tiếp cận trong văn bản
Số GV DH Chí Phèo theo hướng tiếp cận ngồi văn bản
Số GV DH theo hướng tiếp cận lịch sử chức năng
Ý kiến khác
* Đối với HS:
Câu hỏi

23

Số
phiếu

%

4

26.7

10

66.7

1

6.6


0

0

13

86.8

1

6.6

1

6.6

0

0

3

20.1

1

6.6

10


66.7

1
12

6.6
80

1

6.6

2

13.4

0
14
1
0
0

0
93.4
6.6
0
0

Số

phiếu

%


×