Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

skkn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.18 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận: Đối với ngành giáo dục, sản phẩm cho ra phải là con người mới xã hội chủ nghĩa có đầy đủ năng lực và phẩm chất đạo đức để đáp ứng với nhu cầu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó rèn học sinh yếu là một mặt rất quan trọng của sự nghiệp giáo dục toàn diện, vì thế mục tiêu của việc rèn học sinh yếu là một mặt của mục tiêu giáo dục nói chung. Việc học sinh học yếu là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo cho đến giáo viên dạy lớp, nhiều giáo viên mất ăn mất ngủ để tìm tòi cho được những giải pháp có thể giúp một học sinh yếu tiến bộ. Và cũng không có gì vui hơn khi nhìn thấy học sinh lớp mình học tập ngày càng tiến bộ. Qua nghiên cứu từ thực tiễn và kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời gian qua. Chúng ta tạm thời hiểu học sinh yếu là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết được những mâu thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản phải có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học. Vì vậy, để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Cho nên, việc cấp bách đặt ra ở đây là giáo viên chúng ta phải dạy học theo hướng mới, hướng tích cực (có nghĩa lấy học sinh làm trung tâm). Ở thời điểm hiện nay, vấn đề học sinh yếu luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Trước vấn đề đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo. Người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Hiện nay, giáo.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> dục Việt Nam ta đã và đang đổi mới phương pháp dạy học được tổ chức bằng các hoạt động học tập tích cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của các em để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện hơn. 2. Cơ sở thực tiễn: Thầy cô giáo ai cũng điều biết trong những năm qua, có một thực trạng mà càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, của cô nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ,.…, so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu sát của ngành, chính quyền địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô trường Tiểu Phước Hải 3 cho nên về chất lượng giáo dục, công tác phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ ở địa phương đã đạt chuẩn và duy trì tốt. Với những lí do trên, ngay đầu năm học 2012 - 2013, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 2 nói riêng và học sinh trường Tiểu học Phước Hải 3 nói chung. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân của đối tượng học sinh yếu trong quá trình giảng dạy ở lớp 2. Bước đầu làm quen với việc nghiên cứu các tài liệu, sách báo, các thông tin truyền thông, thu thập nguồn tin từ quá trình dạy học. Tìm ra một số giải pháp tốt nhất để giúp học sinh dần dần có thói quen mạnh dạn, tự tin, hứng thú trong học tập. Nhằm nâng cao chất lượng để đạt được hiệu quả theo yêu cầu của chỉ tiêu nêu ra trong hội nghị CBCC. 2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện tốt đề tài này tôi đã sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau để quá trình thực hiện đề tài đạt độ tin cậy và chính xác cao nhất. a. Phương pháp nghiên cứu lý luận. Thu thập những thông tin bằng cách đọc tài liệu liên quan đến đề tài, báo giáo dục thời đại, tập san thế giới trong ta…v…v… b. Phương pháp quan sát sư phạm. Quan sát hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Dự giờ thăm lớp đồng nghiệp, xây dựng chuyên đề trong tổ, dự chuyên đề cấp trường, cấp phòng chỉ đạo…v…v… d. Phương pháp thử nghiệm. Thử nghiệm và áp dụng các giải pháp vào những giờ dạy học trên lớp, thường xuyên quan hệ trao đổi chặt chẽ với gia đình về hoạt động học tập của các em ở trường cũng như ở nhà..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> III. Giới hạn của đề tài: Đề tài: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu.” Tôi nghiên cứu tại Trường Tiểu Học Phước Hải 3; Thuộc Thị Trấn Phước Hải. Bởi thời lượng hạn chế cho nên tôi chỉ thực hiện đề tài này ở lớp 2A tôi đang giảng dạy. IV. Các giả thiết nghiên cứu: Với nội dung của đề tài này, đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ. Nếu đề tài được nghiên cứu thành công và được vận dụng một cách hợp lí trong giảng dạy, tôi nghĩ các thầy cô giáo Trường Tiểu học Phước Hải 3 sẽ giúp học sinh lớp mình từng bước tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong học tập, thích thú cùng nhau hợp tác để chiếm lĩnh tri thức. Từ đó hạn chế dần năng lực học tập yếu kém của học sinh. Còn nếu như đề tài không thành công thì nó cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên trong công tác giảng dạy. V. Kế hoạch của đề tài: Bước vào năm học 2012 - 2013, các thầy cô giáo chúng tôi vào giảng dạy chương trình bậc Tiểu học nói chung và chương trình các môn học lớp 2 do tôi chủ nhiệm nói riêng. Sau thời gian giảng dạy một tuần, sang tuần thứ hai BGH tổ chức kiểm tra chất lượng đầu năm, chấm điểm, thống kê thì kết quả tương đối cao. Tuy nhiên trên thực tế thì vẫn còn vài em kĩ năng đọc còn yếu kém, tính toán chậm chạp hay sai. Để giải quyết trình trạng này, tôi bắt đầu phân loại kĩ năng lực học tập của các em yếu kém ở các môn nào và chuỗi kiến thức nào. Từ đây mới giúp cho tôi có hướng hoạch định và dễ dàng xây dựng kế hoạch phụ đạo và thời gian phụ đạo thật cụ thể. Nhằm từng bước giúp các em ngày một tiến bộ để các em hòa nhập với bạn học của mình mà không còn mặt cảm, tự ti như trước nữa. Đây chính là động lực giúp tôi viết đề tài này để áp và thực hiện cho lớp mình. Đề tài này được thu thập từ nhiều nguồn thông tin và viết theo móc thời gian như sau: Phần mở đầu đề tài: Từ ngày 30/08/2012 đến ngày 09/09/2012. Phần nội dung đề tài: Từ ngày 10/09/2012 đến ngày 29/09/2012..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Phần kết luận đề tài: Từ ngày 30/09/2012 đến ngày 09/10/2012. Hoàn thành xong kế hoạch của đề tài là ngày 10/10/2012. B. PHẦN NỘI DUNG: I. Thực trạng và nguyên nhân những vấn đề cần giải quyết của đề tài: 1. Thực trạng: a. Thuận lợi: Đối với học sinh lớp 2 là lớp bắt đầu tập tự thân mình làm mọi hành động của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao. Học sinh lớp 2 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập. Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà trường. Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung chương trình cho phép GV chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn. b. Khó khăn: Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau. Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp loại yếu khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Tiếng Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao. Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình sống không định căn, định cư ngày đây mai đó sống theo mùa đánh bắt thủy hải sản...v...v... Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của giáo dục đó là đội ngũ.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> giáo viên. Trước những thách thức đó đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. 2. Nguyên nhân: a. Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do: Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Học sinh chưa có ý thức phân bố thời gian cho việc tự học ở nhà một cách hợp lí, hoặc khi ở nhà thời gian các em dành cho việc phụ giúp gia đình nhiều hơn so với thời gian tự học. Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ. Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh b. Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai môn công cụ: Toán và Tiếng Việt. 2. Mục đích và nhiệm vụ cơ bản khi phụ đạo học sinh yếu kém: a. Mục đích: Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này. b. Nhiệm vụ Khảo sát tình hình học yếu của học sinh khối 2 hiện nay. Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu. Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. II. Các biện pháp giải quyết vấn đề: 1. Những biện pháp chung: a. Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”. b. Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh: Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát. Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Một phần 2 (Toán–lớp 2), đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “ Nhận biết 1/2” là đạt yêu cầu rồi. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề… c. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. d. Kèm cặp học sinh yếu: Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,… DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP 2A ST T. Họ và tên. 1 2 3 4 5. Trần Tiến Hoàng Châu Minh Nhựt Đoàn Trọng Phúc Ng Trọng Phúc Nguyễn Ng Tài. Tiếng Toán Việt Đọc Viết Không Tính yếu yếu biết tính yếu x x x x x x x x. Con ông(bà). Nơi ở. Trần Tiến Phụng Châu V Thoàng Đoàn Bạch Yến Nguyễn Kim Anh Nguyễn Thiện. 8ô1/74-H. Lạc 8ô1/16-H. Lạc T. trú-P.Trung 1ô2/16-H. Lạc T. trú-P.Trung. Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. Những biện pháp cụ thể: a. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc phục: + Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất yếu. Như em Lệ, Thành, Hoàng, Tình, Tài. Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu (em Tình), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 2, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và, một văn bản còn hạn chế. + Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến. + Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. + Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn * Biện pháp + Tập đọc: Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần: Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút. Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. + Chính tả: Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần: Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả. Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> + Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các em tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên những câu văn đúng giúp các, tạo sự ham thích tìm hiểu. + Tập làm văn: Nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp. Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn. Ví dụ: Với đề bài: Viết về thầy giáo, cô giáo cũ bằng những câu hỏi gợi ý ( Sách Tiếng Việt lớp 2 - tập 1). Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Ở trường chúng em được thầy cô chăm sóc, lo lắng, yêu thương và dạy bảo nên người. Em hãy viết những điều mà em thích về thầy hoặc cô ở lớp 1. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả. b. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục: Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Nguyễn Nguyễn Tài thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nếu bài làm đạt điểm trung bình trở lên là nhìn bạn hay hỏi kết quả để bạn trả lời rồi chép vào vở bài tập. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không thuộc bảng cộng, cho nên không nắm được các phép tính 9, 8, 7, 6 cộng với một số. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trong phạm vi 100 có nhớ ; Không nắm được lí thuyết bài (quy tắt). Không nắm được cấu tạo số tự nhiên.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> (hàng (cột), cách đặt tính)… Từ chỗ không nắm được cấu tạo số tự nhiên nên em cũng không nắm được cấu tạo số trong phạm vi 100. Mà đối với học sinh lớp 2, các em phải làm rất nhiều bài tập về các số có 1, 2 chữ số. Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính cộng, trừ cho học sinh thực hiện. Ôn lại các hàng (cột) và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 25 + 17 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng. Ví dụ: 9 + 56 Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ trong bảng của các em chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ mức độ đơn giản. Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài,.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần. Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. c. Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu“Học, học mãi, học mãi ; Học suốt đời ; Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. III. Hiệu quả phạm vi quy mô dứng dụng: 1. Hiệu quả phạm vi: Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu đạt hiệu quả. Bằng chứng từ thống kê qua quá trình thực nghiệm đề tài, tôi nhận thấy rằng: trình độ tiếp thu kiến thức, thao tác tính toán của các em cũng được nâng dần rõ rệt. Giờ học, tôi thường xuyên vận dụng những biện pháp như đã nêu vào nội dung dạy học đúng mục đích, đúng đối tượng, phù hợp với kế hoạch bài dạy, đúng chỗ, đúng lúc, đúng mức thì đa số các em học sinh nắm hiểu được kiến thức và vận dụng thực hành bài tập đạt yêu cầu. Kết quả đạt được sau khi thực nghiệm.. Năm học 2012-2013. Sĩ số học sinh lớp 2A. Đầu năm GHKI 2. Quy mô ứng dụng:. 29 29. Học sinh yếu Số lượng Tỉ lệ 5 17.2 % 3 10.3 %. Tôi thực hiện đề tài này trong các tiết dạy học môn Toán và Tiếng Việt lớp 2, với 29 học sinh lớp 2A. Nếu đề tài được hội đồng chuyên môn nhà trường xét duyệt và xếp loại đạt cấp trường thì tôi cùng các thành viên dạy khối 2 sẽ áp dụng vào giảng dạy, kể từ đầu tháng 11/2012 cho đến hết năm học. C. PHẦN KẾT LUẬN: I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác: Qua phần lí luận và thực tiễn cùng với một vài biện pháp của vấn đề “ phụ đạo học sinh yếu ké.”, trong quá trình giảng dạy như đã nêu trên. Mỗi giáo viên chúng ta phải nhìn nhận ra là việc thành công trong quá trình dạy học đều phải thông qua việc tổ chức thực hiện, nghĩa là phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo giữa thầy và trò. Cần phải xây dựng nhu cầu để đáp ứng mặt thiếu hụt về sự yếu kém của mảng kiến thức trong môn học. Đồng thời, người thầy phải bố trí, phân chia năng lực học tập của học sinh, để giao việc học cho vừa sức các em. Ngoài ra giáo viên cần gần gũi, tìm hiểu, hợp tác, giúp đỡ học sinh cùng nhau học tập,.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> cùng nhau tiến bộ. Không chê bai, không tránh mắn mà thường là động viên, nhắc nhở, kích lệ, khích thích. Xem chúng em như là một búp non trên cành. Thực hiện được theo định hướng quy trình trên tôi cảm thấy bước đầu học sinh lớp tôi đã có hướng tiến triển như các em dần có thói tự tin, mạnh dạn tham gia vào học nhóm, mạnh dạn phát biểu cho nên tính tích cực của các em được nâng dần lên, tính tự học ngày càng được bộc lộ. Tính tự lực tư duy tìm tòi, tính độc lập sáng tạo, óc tưởng tượng cụ thể hóa trừu tượng cũng từng bước chuyển biến rõ rệt. Học sinh say sưa xây dựng bài, có ý kiến hay làm giờ học nhẹ nhàng sôi nổi và hiệu quả đạt được như mong muốn. II. Bài học kinh nghiệm hướng phát triển: Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần: Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh lớp 2 rất thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta: “ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành. Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu, của các anh chị và đồng nghiệp cho bản thân tôi được tiếp thu những cái mới, cái hay trong kinh nghiệm giảng dạy để đưa chất lượng văn hóa nói chung, chất lượng một lớp học nói riêng ngày một nâng cao. III. Đề xuất và kiến nghị: Đề nghị Ban giám hiệu và các đoàn thể thường xuyên hỗ trợ những em có hoàn cảnh khó khăn thường là những em học sinh yếu, để các em đạt kết quả tốt hơn ở cuối năm. Ban giám hiệu nhà trường phải quan tâm, có chủ trương yêu cầu giáo viên các lớp đánh giá thực chất, nhằm tạo cho các em đủ điều kiện học lên lớp trên. Kiến nghị lãnh đạo Phòng giáo dục, sớm có chỉ đạo cho các cụm chuyên môn tổ chức các chuyên đề về giáo dục học sinh yếu, đó cũng là cơ hội cho giáo viên được trao đổi, học tập lẫn nhau những kinh nghiệm giáo dục học sinh yếu đạt hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tôi xin chân thành cảm ơn !. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Sách giáo khoa ; Sách giáo viên Toán lớp 2. 2. Sách giáo khoa ; Sách giáo viên Tiếng Việt 2 tập 1. 3. Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán, Tiếng Việt lớp 2. 4. Phương pháp giảng dạy Toán ở tiểu học - NXB Giáo dục năm 2007 5. Hỏi và đáp về sách Tiếng Việt 1; NXB Giáo dục năm 2002 (Nguyễn Trí chủ biên). 6. Dạy và học Toán, Tiếng Việt ở tiểu học theo chương trình mới; NXB Giáo dục năm 2002; Nguyễn Trí. 7. Hỏi - đáp : Giải pháp phụ đạo học sinh yếu kém trên mạng. Phước Hải, ngày 10 tháng 10 năm 2012 Người viết. HUỲNH NGỌC DANH.

<span class='text_page_counter'>(19)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×