Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.29 KB, 6 trang )

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

CHẾ ĐỊNH BẢO LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN
Nguyễn Thị Thu Hằng *
*ThS. Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

Thơng tin bài viết:
Từ khóa: Tố tụng hình sự, biện
pháp ngăn chặn, bảo lĩnh
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài

: 26/08/2020
: 16/09/2020
: 19/09/2020

Article Infomation:
Keywords: Criminal
procedure, preventive measures,
bail.
Article History:
Received
Edited
Approved

: 26 Aug. 2020
: 16 Sep. 2020
: 19 Sep. 2020



Tóm tắt:
Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích các vấn đề pháp
lý quan trọng về chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, bao gồm: (i)
Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh; (ii) Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị
cáo và điều kiện nhận bảo lĩnh của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Trách
nhiệm pháp lý của các chủ thể; (iv) Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo
lĩnh; (v) Thủ tục áp dụng bảo lĩnh và các trường hợp huỷ bỏ áp dụng bảo
lĩnh. Thông qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về chế định bảo lĩnh.

Abstract:
Under this article, the author provides introduction and analysis of
important legal issues on bail in criminal procedure, including: (i) bail
conditions; (ii) obligations of suspects, defendants to make a guarantee
and conditions for individuals, organizations undertaking bail as well
(iii) liability of entities; (iv) competence to apply bail; (v) procedure for
bail application and events of cancellation of bail. Base on that, the paper
gives some suggestions to improve regulations of the criminal procedure
law on bail.

1. Khái quát về chế định bảo lĩnh trong tố
tụng hình sự
Trên thế giới, chế định bảo lĩnh đã xuất
hiện từ thời trung cổ tại Anh và được quy
định chính thức trong nhiều đạo luật từ thời
kỳ này như Đạo luật Westminster năm 1275;
Đạo luật Habeas Corpus năm 16771. Trên cơ
sở sự mô phỏng pháp luật của Anh, Hoa Kỳ
bắt đầu có sự ghi nhận về hoạt động bảo lĩnh


thông qua một đạo luật tư pháp năm 1789;
theo đó, quyền được tại ngoại được bảo đảm
trong tất cả các trường hợp bị cáo khơng có
quan hệ tình dục bị bắt vì các tội liên bang2.
Đến thời điểm hiện tại, bảo lĩnh trở thành một
chế định phổ biến trong pháp luật tố tụng hình
sự (TTHS) ở nhiều quốc gia. Về cơ bản, các
quốc gia trên thế giới áp dụng hai xu hướng
cơ bản về bảo lĩnh sau đây:

1. Professional Bail Agents of the United States, About Bail - History of Bail, />page/14, truy cập ngày 14/5/2020.
2. Donald B. Verrilli, Jr., The Eighth Amendment and the Right to Bail: Historical Perspectives, Columbia Law
Review, Vol. 82, No. 2 (Mar., 1982), pp. 338, />scan_tab_contents, truy cập ngày 10/5/2020.

74

Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021


THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Thứ nhất, người được bảo lĩnh hoặc
người nhận bảo lĩnh phải nộp một số tiền bảo
đảm nhất định hoặc chứng khốn có giá trị để
bảo đảm sự có mặt của người được bảo lĩnh
khi có yêu cầu. Đây là xu hướng phổ biến ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới3.
Thứ hai, ngoài việc nộp tiền, người nhận
bảo lĩnh có thể dùng uy tín cá nhân để bảo
đảm tại ngoại cho người được bảo lĩnh4.

Pháp luật TTHS Việt Nam ghi nhận cả
hai hình thức bảo lĩnh tại ngoại: bằng tiền và
bằng uy tín cá nhân/tổ chức. Tuy nhiên, thuật
ngữ “đặt tiền để bảo đảm” được sử dụng cho
trường hợp bị can, bị cáo hoặc người thân
thích của họ nộp tiền để tại ngoại. Bảo lĩnh
trong pháp luật Việt Nam chỉ được hiểu là
việc dùng uy tín cá nhân/tổ chức để bảo đảm
tại ngoại cho người được bảo lĩnh.
Chế định bảo lĩnh trong TTHS Việt
Nam được định hình rõ rệt từ Bộ luật TTHS
năm 1988, ngày càng hoàn thiện trong Bộ
luật TTHS năm 2003 và hiện nay là Bộ
luật TTHS năm 2015. Cùng với biện pháp
đặt tiền để bảo đảm, bảo lĩnh cũng là biện
pháp ngăn chặn trong TTHS áp dụng thay
thế biện pháp tạm giam. Những quy định
của pháp luật TTHS hiện hành về bảo lĩnh
và đặt tiền đã cơ bản đáp ứng được tinh
thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020; theo đó,
một trong những nhiệm vụ được đặt ra là:

“hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam
đối với một số loại tội phạm”. Tuy nhiên,
trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, bảo
lĩnh vẫn là biện pháp ngăn chặn ít được các
cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) lựa chọn
áp dụng. Một trong những nguyên nhân của

thực trạng này là do các hạn chế, vướng
mắc của quy định bảo lĩnh trong TTHS.
2. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân được quy định tại Điều 8
Bộ luật TTHS, các biện pháp ngăn chặn được
áp dụng, huỷ bỏ và thay đổi dựa trên hai tiêu
chí cơ bản được áp dụng để đánh giá: (i) tính
hợp pháp và/hoặc (ii) sự cần thiết.
Khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam5,
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi và nhân thân của bị can,
bị cáo, cơ quan THTT có thể quyết định áp
dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện
pháp tạm giam6. Như vậy, việc thay thế tạm
giam bằng bảo lĩnh phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của cơ quan THTT qua việc đánh giá
sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp tạm
giam trong từng trường hợp cụ thể. Đối với
trường hợp bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi, sau khi quyết định tạm giam mà có đủ
căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt
tiền để bảo đảm, cơ quan THTT cần thay thế
ngay biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo
lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm7.

3. Điều 93 Bộ luật TTHS Nhật Bản, />&re=02, truy cập ngày 17/5/2020. Điều 102 Bộ luật TTHS Liên bang Nga, />Russian_Federation_Criminal_Code.pdf, truy cập ngày 17/5/2020. Điều116a, Điều 124 Bộ luật TTHS Cộng hoà
Liên bang Đức, truy cập ngày 18/5/2020.
4. Điều 66 Bộ luật TTHS Trung Quốc, truy cập

ngày 20/5/2020.
5. Theo Mục 20 Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 về việc giải đáp vướng mắc liên quan đến
quy định của Bộ luật TTHS và nghiệp vụ THQCT, kiểm sát việc giải quyết VAHS trong ngành KSND, chỉ áp
dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
6. Khoản 1 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015.
7. Khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày
21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021

75


THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Trên thực tế, do chưa có văn bản hướng
dẫn của cơ quan có thẩm quyền về tiêu chí
áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tạm giam vẫn là
lựa chọn an tồn của cơ quan THTT. Thậm
chí có những bị can, bị cáo thuộc loại tội
phạm ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt,
phạm tội lần đầu có yêu cầu bảo lĩnh nhưng
vẫn không được cơ quan THTT chấp thuận.
Ngược lại, có trường hợp cơ quan THTT
“mạnh dạn” áp dụng bảo lĩnh cho bị can
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ, trong
vụ án MobiFone mua 95% cổ phần của
AVG, bị can Phạm Thị Phương Anh - cựu
Phó Tổng giám đốc MobiFone bị khởi tố về
tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng
vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
quy định tại khoản 3 Điều 220 Bộ luật hình

sự năm 2015 có mức cao nhất của khung
hình phạt lên đến 20 năm - thuộc loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng đã được thay
đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh sau
hơn 9 tháng bị tạm giam8. Trong trường hợp
này, bảo lĩnh tuy không trái với quy định
về căn cứ áp dụng bảo lĩnh, nhưng lại thiếu
công bằng với những trường hợp có tính
chất, mức độ nguy hiểm ít hơn nhiều, nhân
thân tốt nhưng lại khơng được chấp thuận.
Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả
cho rằng, Tòa án nhân dân Tối cao cần ban
hành văn bản hướng dẫn căn cứ áp dụng biện
pháp bảo lĩnh theo hướng sau:
- Ưu tiên áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay
thế cho biện pháp tạm giam đối với bị can, bị
cáo thoả mãn các điều kiện như: (i) bị can,
bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; tội nghiêm
trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý; (ii) bị
can, bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt,
có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo…
Các trường hợp cịn lại, căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và

nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan THTT
vẫn có thể quyết định áp dụng biện pháp bảo
lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam;
- Không áp dụng biện pháp bảo lĩnh
thay thế cho biện pháp tạm giam như: bị
can, bị cáo có nhân thân xấu; phạm tội đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý; đối tượng là chủ
mưu, cầm đầu; bị bắt theo quyết định truy
nã; phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái
phạm nguy hiểm…
3. Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo và
điều kiện nhận bảo lĩnh của cá nhân, cơ
quan, tổ chức
Thứ nhất, nghĩa vụ cam đoan của bị can,
bị cáo.
Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ đặt ra nghĩa
vụ cam đoan đối với cá nhân, tổ chức nhận
bảo lĩnh mà thiếu các quy định về nghĩa vụ
cam đoan của bị can, bị cáo được bảo lĩnh.
Rõ ràng, đây là một thiếu sót rất lớn vì để
được áp dụng bảo lĩnh, bị can, bị cáo cũng
cần có những cam đoan cụ thể về việc tuân
thủ các quy định của pháp luật làm cơ sở để
đánh giá việc chấp hành và áp dụng lại biện
pháp tạm giam khi bị can, bị cáo có những
hành vi vi phạm nghĩa vụ cam đoan, gây
ảnh hưởng tới hoạt động tố tụng trong thời
gian được bảo lĩnh. Khắc phục hạn chế này,
khoản 3 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015
đã quy định cụ thể về nghĩa vụ cam đoan
của bị can, bị cáo. Theo đó, bị can, bị cáo
được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực
hiện các nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập,
trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc
do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc
tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng

ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy,
giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án,

8. Thái Sơn, Mở rộng điều tra vụ AVG: Khởi tố thêm 5 lãnh đạo MobiFone, truy cập ngày 20/3/2020. Kim Anh,
Vụ MobiFone mua AVG: Truy tố 2 nguyên Bộ trưởng và 12 đồng phạm, />Vu-MobiFone-mua-AVG-Truy-to-2-nguyen-Bo-truong-va-12-dong-pham-566245/, truy cập ngày 20/3/2020.

76

Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021


THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không
đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng,
bị hại, người tố giác tội phạm và người thân
thích của những người này.
Thứ hai, điều kiện nhận bảo lĩnh của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Pháp luật TTHS hiện hành ghi nhận bảo
lĩnh được thực hiện dưới hai hình thức: cơ
quan, tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh9.
Bộ luậtTTHS năm 2015 đã quy định chặt
chẽ và chi tiết điều kiện nhận bảo lĩnh của
cá nhân. Cụ thể, cá nhân nhận bảo lĩnh phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: (i) Cá nhân
là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập
ổn định và có điều kiện quản lý người được
bảo lĩnh; (ii) Bị can, bị cáo được bảo lĩnh là

người thân thích của họ; (iii) Có ít nhất hai
người cùng nhận bảo lĩnh và (iv) Làm giấy
cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các
nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ
luậtTTHS năm 2015 có xác nhận của chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm
việc, học tập.
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn
chưa quy định về điều kiện nhận bảo lĩnh của
cơ quan, tổ chức. Vì vậy, tác giả cho rằng, văn
bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao
cần quy định cụ thể điều kiện nhận bảo lĩnh
của cơ quan, tổ chức. Theo đó, cơ quan, tổ
chức khơng được nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là người của cơ quan, tổ chức mình trong
các trường hợp: cơ quan nhà nước đang áp
dụng thủ tục giải thể theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; doanh nghiệp
đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán hoặc đang bị áp dụng thủ tục giải quyết
phá sản; hợp tác xã đang bị áp dụng thủ tục
giải thể; doanh nghiệp nước ngồi khơng có
chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam…

Việc quy định cụ thể về điều kiện nhận
bảo lĩnh của cơ quan, tổ chức như trên là rất
cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các nghĩa
vụ khi nhận bảo lĩnh, đồng thời tránh tình
trạng lúng túng khi áp dụng trên thực tế.

4. Trách nhiệm pháp lý của bị can, bị cáo
và chủ thể nhận bảo lĩnh
Hiện nay, để được cơ quan có thẩm
quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị
cáo và chủ thể nhận bảo lĩnh đều phải làm
giấy cam đoan theo quy định của pháp luật
TTHS, đi kèm với đó là các trách nhiệm pháp
lý khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Bị can,
bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan
thực hiện các nghĩa vụ như có mặt theo giấy
triệu tập, khơng bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm
tội, tiêu huỷ chứng cứ… Trường hợp bị can,
bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan
thì đương nhiên bị tạm giam. Chủ thể nhận
bảo lĩnh cũng phải làm giấy cam đoan có xác
nhận của người đứng đầu (đối với cơ quan, tổ
chức); xác nhận của chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi
làm việc, học tập (đối với cá nhân) với nội
dung không để bị can, bị cáo vi phạm các
nghĩa vụ đã cam đoan. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm
nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức
độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của
pháp luật. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh,
trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã
hội; phịng cháy và chữa cháy; phịng, chống
bạo lực gia đình đã quy định mức phạt tiền từ

1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với
hành vi “vi phạm các quy định về việc chấp
hành biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm
giam, bảo lãnh10, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm hoặc có
các hành vi vi phạm các biện pháp ngăn chặn

9. Khoản 2 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015.
10. Nghị định có sự nhầm lẫn khi sử dụng thuật ngữ; cần lưu ý rằng bảo lãnh và bảo lĩnh là hai chế định hoàn
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021

77


THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
khác theo quy định của pháp luật”11. Tác giả
cho rằng, so với tính chất và mức độ vi phạm,
mức phạt tiền này là quá thấp, chưa đủ sức để
“răn đe”, phịng ngừa vi phạm có thể xảy ra.
Ở một số nước trên thế giới, chế tài xử phạt
trong trường hợp người nhận bảo lĩnh không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình có tính
nghiêm khắc hơn rất nhiều12, thậm chí có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự13. Nhằm mục
đích phịng ngừa vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh,
tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định của
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi vi phạm các
quy định về chấp hành biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng

theo hướng: tăng mức xử phạt tiền lên gấp
nhiều lần để ràng buộc trách nhiệm của chủ
thể nhận bảo lĩnh, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật, đồng thời đảm bảo mức phạt tiền
có sự tương xứng với mức độ vi phạm và hậu
quả nghiêm trọng có thể xảy ra (người được
bảo lĩnh bỏ trốn, tiếp tục phạm tội…).
5. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo
lĩnh; trình tự, thủ tục áp dụng bảo lĩnh và
các trường hợp huỷ bỏ áp dụng bảo lĩnh
Thứ nhất, thẩm quyền áp dụng biện
pháp bảo lĩnh.

Theo quy định hiện hành, những người
có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh
bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án
Tịa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh
án Tịa án quân sự các cấp; Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa; Hội đồng xét xử14. Tuy nhiên,
có ý kiến cho rằng, Chánh án, Phó Chánh
án khơng có thẩm quyền áp dụng biện pháp
bảo lĩnh15. Bởi lẽ, quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể khi tiến hành giải quyết
vụ án hình sự của Chánh án, Phó Chánh
án liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn, Điều 44 Bộ luậtTTHS năm

2015 chỉ đề cập đến thẩm quyền áp dụng,
thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam, mà
không đề cập đến thẩm quyền áp dụng biện
pháp bảo lĩnh cũng như các biện pháp ngăn
chặn khác. Thêm vào đó, quy định về thẩm
quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm16 và xét xử phúc thẩm17 đều trao
quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn nói chung và biện pháp bảo lĩnh

toàn khác nhau.
11. Điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
12. Tham khảo: Khoản 4 Điều 103 Bộ luật TTHS Nga quy định: Trong trường hợp người nhận bảo lĩnh khơng
thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ có thể bị phạt một khoản tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu. https://
www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/ru/ru065en.pdf, truy cập ngày 07/4/2020.
13. Tham khảo: Điều 70 Bộ luật TTHS Trung Quốc quy định: Trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo
lĩnh của mình, thì người bảo lĩnh sẽ bị phạt và nếu hành vi cấu thành tội phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật, />truy cập ngày 12/4/2020.
14. Khoản 4 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015.
15. Nguyễn Thành Giang, Chánh án có quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền... không?,
truy cập
ngày 22/5/2020. Trần Văn Hùng, Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và một số
lưu ý khi áp dụng, truy cập ngày
22/5/2020.
16. Khoản 1 Điều 278 Bộ luật TTHS năm 2015.
17. Khoản 1 Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015.

78


Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021


THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nói riêng sau khi thụ lý vụ án cho Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa. Riêng đối với biện
pháp tạm giam, thẩm quyền thuộc về Chánh
án, Phó Chánh án tòa án.
Theo tác giả, Điều 44 Bộ luật TTHS
năm 2015 đã quy định theo hướng mở,
ngoài liệt kê các nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể, tại điểm e điều này cịn quy định Chánh
án, Phó Chánh án tịa án có thể “tiến hành
hoạt động tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật TTHS”. Theo quy định hiện hành,
từ thời điểm thụ lý vụ án, Chánh án tịa án
có thời hạn 03 ngày để phân cơng thẩm
phán chủ tọa phiên tịa giải quyết vụ án18.
Như vậy, mặc dù các quy định cụ thể trong
giai đoạn xét xử đã trao quyền quyết định
áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho thẩm phán
chủ tọa phiên tịa. Tuy nhiên, trong thời hạn
này, vì chưa có thẩm phán chủ tọa phiên
tòa nên quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh
thuộc về Chánh án, Phó Chánh án tịa án.
Trong trường hợp Chánh án, Phó Chánh
án tịa án cũng là thẩm phán chủ tọa phiên
tịa, thì đương nhiên có quyền áp dụng biện
pháp bảo lĩnh theo các quy định của pháp
luật TTHS.

Thứ hai, về trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp bảo lĩnh.
Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp
bảo lĩnh nên trong nhiều trường hợp, giấy
cam đoan của bị can, bị cáo và của chủ thể
nhận bảo lĩnh có thể được xem là đề nghị
được bảo lĩnh; cũng có trường hợp, đề nghị
bảo lĩnh được thể hiện dưới dạng đơn xin
bảo lĩnh. Điều này vơ hình trung làm thiếu
đi sự thống nhất, gây lúng túng khi áp dụng,
thi hành trên thực tế.
Thứ ba, các trường hợp huỷ bỏ áp dụng
biện pháp bảo lĩnh.

Theo quy định của pháp luật TTHS
hiện hành, việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh
bị huỷ bỏ khi: (i) Bị can, bị cáo vi phạm
nghĩa vụ đã cam đoan tại khoản 3 Điều 121
Bộ luật TTHS năm 2015; (ii) Hết thời hạn
áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Trong thời hạn
10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh, cơ quan đã đề
nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải
thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định
hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
khác19; (iii) Vụ án rơi vào các trường hợp
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn do pháp luật
quy định20.
Trên thực tế, ngồi những trường hợp

trên, có thể xảy ra rất nhiều trường hợp
không thể tiếp tục áp dụng biện pháp bảo
lĩnh nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ thể về
cách thức xử lý gây khó khăn và lúng túng
cho các cơ quan tiến hành tố tụng như: phát
hiện bị can, bị cáo phạm tội khác trước khi
áp dụng biện pháp bảo lĩnh; chủ thể nhận bảo
lĩnh từ chối tiếp tục bảo lĩnh trước khi hết
thời hạn bảo lĩnh; cá nhân nhận bảo lĩnh bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; cá nhân nhận
bảo lĩnh chết; cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh
bị giải thể, phá sản… Đây là những trường
hợp không thể tiếp tục thực hiện bảo lĩnh do
những nguyên nhân xuất phát từ chính bản
thân bị can, bị cáo hoặc từ phía cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhận bảo lĩnh nhưng lại chưa
có cơ sở pháp lý để huỷ bỏ việc áp dụng biện
pháp bảo lĩnh.
Để đảm bảo áp dụng thống nhất biện
pháp bảo lĩnh trên thực tế, khắc phục những
bất cập phát sinh, tác giả cho rằng, Tòa án
nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng
dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp bảo lĩnh; về các trường hợp biện pháp
bảo lĩnh bị huỷ bỏ 

18.Khoản 2 Điều 276 BLTTHS năm 2015.
19. Khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015.
20. Điều 125 BLTTHS năm 2015.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021


79



×