Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu Quá trình hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương : Từ ca ra bộ đến hình thành (Phần 1) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.05 KB, 17 trang )

Quá trình hình thành nghệ thuật
sân khấu cải lương : Từ ca ra bộ đến
hình thành (Phần 1)
Cải lương là một hình thức ca kịch dân tộc. Nói đến ca kịch trước hết phải
đề cập đến vấn đề âm nhạc, vì âm nhạc là xương sống, là linh hồn của kịch chủng.
Trước khi tìm hiểu về toàn bộ lịch sử nghệ thuật sân khấu cải lương, cần tìm hiểu
gốc của nó, linh hồn của nó, tức là âm nhạc.
NHẠC CỔ
Theo các tài liệu xưa, dàn nhạc cổ Việt Nam đã có từ rất lâu đời. Đại Việt
sử ký toàn thư chép: “Trước đây (1437), Lương Đăng và Nguyễn Trãi vâng mệnh
định nhã nhạc. Nhạc tấu trên nhà có tám thanh như trống treo lớn, khánh, chuông,
đàn cần, đàn sắt, kèn, sáo quản, thược, chúc, ngữ, huân, trì … Nhạc tấu dưới nhà
thì có phương hưởng treo, không hầu, trống quản cổ, kèn quản dịch”. Còn trong
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ chép: “Khoảng năm Hồng Đức nhà Lê (1470
– 1497) … đặt ra hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn thì chuyên ghép âm
luật để hòa nhạc, bộ Nhã nhạc thì chuyên chú về giọng người, trọng về tiếng hát,
cả hai đều thuộc quyền quan thái thường coi xét. Đến như âm nhạc dân gian thì có
đặt ty giáo phường coi giữ “ … “Từ đời Quang Hưng (1578 – 1599) về sau, hai bộ
Đồng văn Nhã nhạc có dùng một loại trống lớn Ngưỡng thiên và một cái kèn lớn
bằng trúc nạm vàng, cùng là cái long sinh long phách và các loại đàn ba dây, bốn
dây hoặc mười lăm dây, cái ống sáo, cái trống cảnh một mặt, cái trống tang mỏng
sơn son thiếp vàng, cái phách xâu tiền”.
Từ lúc còn ở miền Bắc, Trung, dàn nhạc cổ của dân tộc ta cũng đã phát
triển khá cao, có nhiều thứ nhạc cụ, bài bản có ghi chép chứ không phải ở mức làn
điệu truyền miệng.
Mở đường vào khai phá miền Nam, bên cạnh gươm, giáo, búa, rìu (dụng cụ
chiến đấu và sản xuất), tổ tiên chúng ta còn mang theo một nền văn hóa, trong đó
có một vốn nhạc phong phú bao gồm:
1)Nhạc lễ (tụng đình)
2)Nhạc đồng bóng
3)Nhạc nhà chùa


4)Nhạc tuồng (hát bộ)
Chưa kể vốn nhạc dân gian (dân ca) sẵn có trong nhân dân. Mỗi loại nhạc
có một nhiệm vụ nhất định.
NHẠC LỄ
Từ thời chúa Nguyễn, ở Đàng Trong đã có những đội quân của nhà chúa.
Trong số những người lên đường vào miền Nam khai hoang lập ấp có những nhạc
công xuất thân từ những đội quân nhạc, được cho định cư để sản xuất tại các khu
dinh điền. Vốn coi nhạc là nghề, cho nên không còn được phục vụ bên cạnh chúa,
họ lại quay sang phục vụ nhân dân trong các ngày tế lễ, ma chay. Nhạc lễ từ chỗ
chỉ dùng trong cung đình, được phát triển rộng rãi ra ngoài nhân dân, song song
với nhạc hát bội dùng trong việc cúng đình (lễ xây chầu, đại bội) và trong các đám
ma chay (trong chay ngoài bội).
Tổ chức dàn nhạc lễ gồm: bộ kéo, bộ gõ, bộ thổi
Xa triều đình, gần với quần chúng nhân dân trong sinh hoạt mới, đất mới
đối tượng mới, dòng nhạc lễ dần dần thay đổi chất và có điều kiện phát triển.
Trong các đám cúng tế, nhất là ma chay, nhân dân cần một thứ sinh hoạt âm nhạc
khác ngoài nhạc lễ. Nhất là ma chay: gia chủ và người trong nhà cần thức. Trong
đêm cúng tế, nhân dân muốn giữ cho không khí ấm cúng, về khuya, gia chủ đặt
tiền cho dàn nhạc lễ tiếp tục hòa tấu những bài bản nhẹ nhàng. Trong buổi hòa tấu
này, dàn nhạc lễ tước bớt những nhạc cụ như: trống, kèn, nhạc cụ gõ, còn lại chỉ
có “đàn cây”. Nghĩa là cũng tấu những bài nhạc lễ, nhưng không dùng bộ gõ và bộ
thổi, chỉ dùng bộ kéo và thêm bộ khảy.
Sinh hoạt âm nhạc “chơi đàn cây" được phổ biến và được nhiều người ưa
thích. Người ta thi nhau học nhạc cụ, làn điệu bài bản. Các tầng lớp đều nô nức
học: nông dân, trí thức, nhà nho, tiểu tư sản …
Khi sinh hoạt này phổ biến rộng rãi thì đối tượng của nhạc lễ thay đổi: từ
đối tượng trước kia là thần linh, chuyển sang đối tượng ngày nay là quần chúng
lao động, lần lần tự nó phải thay đổi chất. Từ tính chất tế lễ, trang nghiêm chung
chung, nhạc lễ chuyển sang chất mới cho phù hợp với đối tượng mới.
Sự thay đổi chất của dòng nhạc lễ là một sự chuyển biến rất hợp quy luật:

văn nghệ phải phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ của đông đảo quần chúng lao động.
Danh từ nhạc tài tử ra đời.
NHẠC TÀI TỬ
Gọi là nhạc tài tử để phân biệt với nhạc lễ, nhạc hát bộ. Tài tử tức là không
phải nhạc công chuyên nghiệp, như chữ amateur của Pháp. Xưa những nhà nho am
tường các môn cầm, kỳ, thi, họa được gọi là những người tài tử.
Sự chuyển biến thay đổi về chất từ nhạc lễ sang nhạc tài tử được thể hiện
rất rõ ở ba điểm:
a) Tổ chức dàn nhạc:
Muốn đi sâu phản ánh tâm tư tình cảm của nhân dân thì phải bỏ bớt những
nhạc cụ ồn ào, gợi những không khí thần linh như trống phách (bộ gõ), kèn sáo
(bộ thổi); ngoài bộ kéo (hồ nhị), bổ sung thêm bộ khảy (đàn kìm, tranh, sến, tam
… ) để diễn tả tiếng lòng của con người đến từng phím tơ một, dàn nhạc tách ra,
qui mô nhỏ, ít tốn kém, phù hợp với điều kiện kinh tế phân tán. Sinh hoạt này mất
hẳn tính chất lễ bái mà đi vào cuộc sống trần tục (biểu diễn trong những dịp cưới
gả, tiệc tùng, họp mặt ở nhà hàng, chơi bời trong những đêm trăng sau ngày lao
động).
Do “chơi đàn cây” hòa tấu từng nhóm nhỏ hay độc tấu, nên kỹ thuật diễn
tấu ngày càng được trau chuốt và phát triển bằng những ngón, những kỹ xảo tinh
tế.
Nhiều nhạc cụ cổ được cải cách, đồng thời nhiều nhạc cụ mới được sử dụng
để chơi nhạc tài tử, khiến cho dàn nhạc tài tử ngày càng phong phú và đa dạng.
b) Về bài bản, làn điệu:
Nhạc lễ với những bài như Long ngâm, Long đăng, Tiểu Khúc, Vạn Giá …
mang tính chất trang nghiêm không phù hợp với việc diễn tả tâm tư tình cảm của
quần chúng, vì vậy người ta thấy cần sáng tác những bài bản mới trên cơ sở tiếp
thu những tinh hoa của dân ca, trên cơ sở âm điệu dân tộc.
Dòng nhạc tài tử – ngoài việc sử dụng một số bài nhạc lễ – đã phát triển
nhờ ba nguồn chủ yếu:
1/ Sử dụng, phối nhạc và nâng cao các bài dân ca Huế và Nam Bộ như: Lý

con sáo, Lý ngựa ô, Lý cây chanh, Lý bánh bò, Lý chuồn chuồn, Lý giao duyên, Lý
vọng phu …
2/ Sử dụng và cải biên một số bài nhạc cổ Trung Bộ như: Kim tiền Huế,
Hành vân Huế, Nam xuân, Nam ai, Xuân tình, Lưu thủy, Phú lục, Xuân phong,
Long hổ, Tẩu mã …
3/ Sáng tác mới trên cơ sở âm điệu dân tộc như: Giang nam, Phụng hoàng,
Tứ đại, Phụng cầu, Văn Thiên Tường, Bình sa lạc nhạn, Đường thái tôn, Chiêu
quân, Ái tử kê, Bát man tấn cống, Tương tư, Duyên kỳ ngộ, Quả phụ hàm oan…
Theo sự phân tích của các nhạc sĩ am tường nhạc mới thì các bản nhạc tài
tử:
a)Về mặt luật sáng tác: được sáng tác theo một cấu trúc tương đối hoàn
chỉnh, về giai điệu và khúc thức.
b)Về ký âm và hòa thanh: có bản nhạc riêng cho từng nhạc cụ (tuy sự ghi
chép không khoa học lắm), nên khi hòa tấu đã hình thành một sự hòa tấu tự nhiên.
c)Về mặt nội dung tình cảm: dễ thể hiện được nhiều sắc thái tình cảm,
ngoài những bản nhạc trong nhạc lễ được phát triển cách diễn tấu, các nhạc sĩ còn
sắp xếp các bài bản theo từng loại điệu thức:
- Điệu thức Bắc: mang tính chất trong sáng, vui vẻ, khoẻ.
- Điệu thức Nam: mang tính chất man mác, nhẹ nhàng (đồng thời được
phân chia thành Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo).
- Điệu thức Oán: mang tính chất bi ai, buồn thảm, là điệu thức được sáng
tạo sau này, hoàn toàn thoát ly những hình thức cấu tạo theo kiểu nhạc lễ, nó có
khả năng thể hiện tâm tư tình cảm của con người đương thời một cách tinh vi, sâu
sắc.
d)Về lời ca viết theo nhạc: nhạc lễ trước đây không có lời ca. Khi chơi đàn
cây trong các buổi ma chay, cúng lễ, có người uống rượu say. Hứng chí ca cương
mấy câu theo nhạc, sau đó có những trí thức Nho học nghĩ cách soạn lời ca cho
nhạc. Yếu tố thanh nhạc thêm vào khí nhạc, đó là một bước phát triển quan trọng
của nhạc tài tử, nhưng điều quan trọng hơn cả là qua việc sáng tác lời cho nhạc,
các tác giả phần nào đã phản ánh tâm tư ước vọng của quần chúng cũng như tâm

tư của chính họ. Lời viết thường dựa theo thơ ca cổ: Kiều, Lục Vân Tiên …
Sinh hoạt âm nhạc tài tử rất hấp dẫn đông đảo quần chúng, do đó phát triển
rất mạnh. Vào khoảng năm 1900, sinh hoạt này đã phổ biến khắp Nam Bộ. Xã nào
cũng có người chơi nhạc tài tử. Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, sinh hoạt này
phát triển mạnh nhất, nguyên nhân là nền kinh tế đã được ổn định tạm thời. Nhiều
ban nhạc, nhạc công và ca sĩ nổi tiếng đã xuất hiện. Trung tâm phát triển của
phong trào nhạc tài tử là các tỉnh Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Bạc Liêu,
Sài Gòn … là những tỉnh trù phú, nhiều lúa gạo, có đường giao thông thuận tiện.
Có thể lấy năm 1909 là năm xuất bản tập sách dạy đờn ca của Phụng Hoàng
Sang (nhà in Đinh Thái Sơn) làm năm đánh dấu cái mốc định hình của nhạc tài tử.
Trong tập này đã có những bài bản chủ yếu của nhạc tài tử như: Lưu thủy, Phú lục,
Bình bán chấn, Xuân tình, Bình bán vắn, Bát man tấn cống, Tứ đại, Phụng hoàng,
Nam Xuân, Nam ai …
Năm 1915, năm mở màn của phong trào ca ra bộ – nhà in Phát Toán cho in
các tập sách dạy đờn ca của Phạm Đăng Đàn, Nguyễn Tùng Bá, Đỗ Văn Y …
Ngoài những bài mà tập sách năm 1909 đã có, chỉ thêm được một bài Lý ngựa ô
Nam mà thôi.
CA RA BỘ
Khoảng 1912 đến 1915, sinh hoạt đờn ca tài tử có một chuyển biến mới.
Hình thức ngồi trên bộ ván để đờn ca quá tĩnh, không thỏa mãn quần chúng nữa.

×