Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu Quá trình hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương : Từ ca ra bộ đến hình thành (phần 2 và hết) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.24 KB, 19 trang )

Quá trình hình thành nghệ thuật sân
khấu cải lương : Từ ca ra bộ đến hình
thành (phần 2 và hết)
Tóm lại, về nguyên nhân xã hội chúng ta thấy:
1/ Sự xuất hiện một tầng lớp mới thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản với yêu
cầu giải phóng cá nhân, chống lễ giáo phong kiến, đã thúc đẩy sự hình thành một
hình thức sân khấu mới, đáp ứng được tư tưởng tình cảm của họ.
2/ Việc cải cách sân khấu cũng nằm trong chương trình cải cách xã hội của
phong trào Duy Tân khi phong trào này thất bại, một số người yêu nước chuyển
hướng qua hoạt động văn hóa xã hội trong đó có cả việc cải cách sân khấu.
3/ Nông dân là những người chịu áp bức bóc lột của phong kiến thực dân
sẵn có tấm lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Khi những sĩ phu yêu nước đề
xướng ra phong trào cải lương thì nông dân là người góp phần phổ biến rộng rãi
loại hình nghệ thuật này.
B- NGUYÊN NHÂN VỀ NHU CẦU THẨM MỸ :
Bộ môn văn nghệ được đồng bào mọi giới ở Nam Bộ yêu chuộng nhất từ
thời các chúa Nguyễn vẫn là tuồng hát bội. Sách Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức mô tả dài dòng về thú ham mê hát bội đến mức trở thành hủ tục,
lãng phí ở Nam Bộ: Gọi gánh hát đến rồi người mua dàn mời bạn bè đến xem như
khách danh dự để lấy lại số tiền, tổng cộng lại, quả là lời gấp bội. Mỗi vị quan to
như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) đều sắm đoàn hát bội
riêng. Trong miếu thờ Lê Văn Duyệt ở Bà Chiểu (Gia Định) dành riêng một vị
trí thờ kép Hứa Văn lừng danh, từng được tả quân ưa thích lúc sinh thời.
Thực dân Pháp đến, hát bội vẫn tồn tại với những tuồng pho, tuồng Tàu,
trong đó xuất sắc nhất vẫn là tuồng San Hậu. Với tình hình mới, hát bội không đáp
ứng được nhu cầu thẩm mỹ của người xem vì quanh đi quẩn lại chỉ có vua quan
không thể hiện được cuộc đời người dân: tình yêu, lao động … Đặc biệt không thể
hiện được nội dung chống Pháp, chống giai cấp bóc lột. Những năm đầu thế kỷ
XX, đã xuất hiện ngày càng đông đảo những loại người mới, từ bọn thực dân và
quan lại công chức tay sai cho chúng đến những người thuộc giai cấp tư sản, tiểu
tư sản … do đó có nhu cầu hình thành một loại kịch chủng phản ảnh được hiện


thực xã hội lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện được tư tưởng, tình cảm của nhân dân,
đó là động lực hết sức quan trọng cho sự ra đời của nghệ thuật cải lương.
Lúc đầu người ta chỉ mới dám đề xuất việc “cải cách hát bội” chứ chưa dám
mạnh dạn xây dựng một kịch chủng mới. Ngày 28-3-1917, ông Lương Khắc Ninh,
chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm từng thành lập gánh hát bội Châu Luân ban ở Sài
Gòn (1905), có diễn thuyết tại nhà hội khuyến học Sài Gòn về “Hí nghệ cải
lương”. Khi ông Diệp Văn Kỳ chất vấn: “Trong cuộc hát phải có nhạc, mà nhạc
An Nam còn phải sửa, vậy ai là ông nhạc sư mà sửa nhạc?” thì ông Lương Khắc
Ninh trả lời: “Nói qua nhạc thì xin bãi nhạc đi. Đây tôi tính hát tiếng thường,
không nam, không khách gì nên không kể đến nhạc. Hát tuồng diễn mà răn đời
thôi” (theo Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày 19-4-1917).
Báo Nông Cổ Mín Đàm đăng những vở tuồng Vì nghĩa quên nhà (19-7-
1917), Báo nghĩa (21-8-1917), Ngô Công Nhược mắc lừa của Nguyễn Khắc
Nương và Nguyễn Ngọc Ẩn (24-6-1920) cũng toàn là văn xuôi không hề có một
điệu hát nào cả. Mặc dù báo Nông Cổ Mín Đàm, Công luận hóa đăng tin diễn vở
Vì nghĩa quên nhà, Báo nghĩa (Hồ Biểu Chánh), Gia Long phục quốc Pháp Việt
nhứt gia (của Đặng Thúc Liên và Nguyễn Văn Kiều) … đều gọi là “Cuộc hát cải
lương” nhưng đó là hát bội cải cách chứ không phải cải lương như chúng ta hiểu
hiện nay. Vở Pháp Việt nhất gia, diễn đêm 6-11-1918 tại nhà hát Tây Sài Gòn,
soạn giả viết toàn văn vần, loại biến ngẫu gần như của hát bội, nhưng lại không có
điệu Nam, Khách, Thán, Bạch, Ngâm … gì hết. Đào kép chỉ nói lối, khi thì theo
điệu Ai, khi lại trở Xuân, không múa may gì, cũng không trống kèn inh ỏi. Trong
hậu trường có dàn cổ nhạc nhưng chỉ để hòa tấu bản Madelen lúc sân khấu mở
màn và sự hiện diện của toàn bộ đào kép khi đã hóa trang xong, đứng xếp hàng
chào khán giả, gọi là táp-bơ-lô vi-văng (tableau vivant), sau đó thì đệm theo từng
điệu lối của đào kép. Khi đó, nhà báo Lê Hoàng Hưu, trên báo chí Sài Gòn ca ngợi
lối hát này và gọi nó là hát bộ, tức là một sự cải tiến của hát bội.
Dẫu sao những cố gắng “cải cách của hát bội” nói trên cũng tạo tiền đề cho
việc xây dựng một kịch chủng mới là sân khấu cải lương.
Báo Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày 11-10-1917 có đăng bài Phương châm

đắc sở của Lương Gia Tẩu (Chợ Lớn) trong có đoạn viết: “Tôi có tánh ham vui
nên mỗi tuần tối thứ bảy thì tôi hay đi coi hát bội. Có đêm tôi gặp được kép hay
tuồng giỏi, múa trúng điệu, hát phải hơi thì khoái lạc vô cùng; còn có bữa gặp hề
vô duyên đào mới tập thì mỏi lòng không muốn ngó. Tôi thầm tưởng trên địa cầu
này nước nào cũng cho hí trường là chỗ hóa dân trí, động nhân tâm, nên thảy thảy
đều ngó nhau mà cải lương cho trọn lành trọn tốt”. Đoạn văn trên đã chứng minh
việc cải cách sân khấu đã trở nên nhu cầu bức thiết về thẩm mỹ của quần chúng
lúc bấy giờ.
NGUYÊN NHÂN NỘI TẠI
Đòi hỏi về mặt xã hội và thẩm mỹ là một chuyện, còn bản thân một nghệ
thuật có đáp ứng được yêu cầu đó hay không lại là một chuyện khác. Chúng ta đã
thấy nhiều loại hình âm nhạc không đủ điều kiện trở thành cơ sở để hình thành
một kịch chủng mới vì thiếu những yếu tố nhất định. Nhạc tài tử sở dĩ có thể trở
thành cơ sở để hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương là nhờ có những đặc điểm
sau đây:
A – VỀ NỘI DUNG :
a) Tính hiện thực :
Tách ra khỏi nhạc lễ, dàn nhạc tài tử với nhạc dây, khảy, kéo, đã có đủ điều
kiện thể hiện cuộc sống lao động của nhân dân không bị bó chết trong một khuôn
khổ lễ nghi cúng bái. Tính chất thần linh đã mất đi ngay trong giai điệu của nó.
Với sự xuất hiện của lời ca bổ sung cho ngôn ngữ âm nhạc, nhạc tài tử càng có khả
năng phản ảnh hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Trong bài Tứ đại Khổ sai Côn Hồn
của Nguyễn Tùng Bá (tập Bát tài tử, xuất bản ngày 29-8-1915) tố cáo thực dân
Pháp đầy đọa con người ở chốn “địa ngục trần gian”:
Núi Côn Nôn hải đảo giữa vời
Tội nhơn ra đó trăm ngàn
Chịu cơ hàn nỗi nằm nỗi ăn
Thương thay cực khổ khôn ngăn
Sớm đi làm tối về trối trăn
Đất trời thấu chăng …

Bài Tứ đại Bài ca đi Tây (tập Thập tài tử xuất bản ngày 15-6-1915) kể
chuyện một “giáo quan” ở Tân An quyết chí đi Tây để biết xứ sở văn minh nó ra
thế nào, không ngờ sang tới nơi “làm té ra bạc ngàn, bị điếm đầm chẳng còn bao
nhiêu” đến khi về nước thì:
Mẹ con cha vợ ra mừng
Vật một heo mà đãi tiệc
Mời tổng mời làng
Thiên hạ dập dìu
Dầu đông đã nên đông
Đến nay tiền hết bạc không
Thầy trở lại Sài Gòn
Việc làm ăn gia đạo bất bình
Anh em bạn cũ, chẳng ai nhìn tới ai.
Bài Tứ đại Văn minh của Hoàng Huấn Trai (tập Thập tài tử Đặng Đức Lợi)
cổ động cho phong trào Duy Tân:
Lời dám khuyên cùng chúng ta
Học đời Đông A
Cũng giống như da vàng
Bạn đồng bang
Ráng mà kêu nhau thức dậy
Đừng có ngủ mê man
Á bang hỡi đồng bang
Xin bớt làng tranh làm quan
Hãy hiệp hùng buôn bán
Cho rành nghề tính toán
Rồi cũng thấy vô bạc ngàn …
Bài Tứ đại Cảnh phó ca của Trương Duy Toản (Lục Tỉnh Tân Văn, số 24
ngày 30-4-1908), ca ngợi Cuộc Minh Tân do Trần Chánh Chiếu chủ trương đồng
thời phản đối thực dân Pháp phế truất vua Thành Thái, một ông vua có tư tưởng
yêu nước chống Pháp:

Việt Nam nay rõ
Thiếu chi anh hào
Đương hiệp chúng đồng bao
Mà tranh đoạt lợi quyền
Rất nhộn nhàng cõi Nam Trung
Khen ai cũng thung dung
Cứ đỏng đưa theo năm giọng
Bao biển triều đường
Trách quở tiên vương
Thấy chẳng thiên thương …
Qua một vài ví dụ trên, chúng ta thấy lời ca của nhạc tài tử đã góp phần
phản ảnh hiện thực đương thời và nhiều bài có nội dung yêu nước, tiến bộ. Nhất là
sau khi phong trào Duy Tân bị thực dân Pháp đàn áp, một số chí sĩ bị Pháp bắt đi
đày hay quản thúc, tham gia soạn lời ca thì những bài ca mang ẩn ý chống Pháp lại
càng nhiều. Khi Trương Duy Toản, chiến sĩ của phong trào Duy Tân, bị quản thúc
tại làng Nhơn Ái (Phong Điền, Cần Thơ) đã soạn nhiều bài ca trong đó có bài Hà
bất úy như hề, kể chuyện người thà bị hổ ăn thịt chứ không chịu dời đi nơi khác, vì
nơi đang ở không có chính trị hà khắc, qua đó nhằm phê phán chính trị của thực
dân Pháp.
b) Tính trữ tình:
Nhạc tài tử còn có nhiều ưu thế trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của
nhân dân, nhất là nhân dân ở một vùng đất rộng lớn xa triều đình, bị phong kiến
bóc lột, sau đó lại bị thực dân đày đọa nhưng luôn luôn mang tinh thần hào khí,
nghĩa hiệp chống áp bức bất công … Năm 1899 khi vua Thành Thái vào Sài Gòn
thì ông Ba Đợi đã sáng tác 8 bài ngự với mục đích giải tỏ với vua Thành Thái về
nỗi khổ của người dân miền Nam sống dưới ách nô lệ trong đó có bài Ái tử kê
(thương đàn gà con mất mẹ), Quả phụ hàm oan (tiếng kêu oan của người vợ mất
chồng). Trong bài Hành vân thể hiện tâm sự của Từ Hải, Trương Duy Toản đã
viết:
Mật yêng hùng, mật yêng hùng

Giống Triệu Trường Sơn
Đường cung kiếm. Cái chí nam nhi
Núi sông là phận. Từ đây quyết
Vẫy vùng cho sóng dậy trần ai
Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng
Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc

×