SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN TÍNH MẠNH DẠN TỰ TIN CHO
TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON
Người thực hiện: Bùi Thị Ân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thành Vinh
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THẠCH THÀNH, NĂM 2019
MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các biện pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
2.3.1. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, phù hợp giúp trẻ hứng
thú khi tham gia các hoạt động.
2.3.2. Nắm rõ đặc điểm, tâm sinh lý của lứa tuổi và trẻ cá biệt để rèn
luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ
2.3.3. Thơng qua việc tạo tình huống, kích thích trẻ đặt câu hỏi với cơ
để rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ
2.3.4. Rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ thơng qua trị chơi và các hoạt
động khác.
2.3.5. Tạo cơ hội cho trẻ được thuyết trình theo ngơn ngữ tự do và
hành động theo suy nghĩ của trẻ
2.3.6. Cho trẻ được tập làm thủ lĩnh, làm tổ trưởng, giúp đỡ các bạn
khác khi tham gia các hoạt động theo nhóm.
2.3.7. Cơng tác phối kết hợp và tun truyền với các bậc phụ huynh.
2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm.
3. Kết luận kiến nghị
* Kết luận
* Kiến nghị
Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
5
5
9
10
12
14
16
17
18
19
19
20
1. MỞ ĐẦU .
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống hiện nay, giao tiếp rất quan trọng và ảnh hưởng đến thành
công của mỗi con người. Giao tiếp tốt, tự tin giúp con người phát triển ngôn
ngữ, phát triển trí tuệ cũng như học hỏi mọi điều xung quanh nhanh nhất và đầy
đủ. Nếu bạn biết rất nhiều mà khơng thể truyền đạt cho người khác biết thì thật
là đáng tiếc và như vậy sẽ không mang lại thành công trong cuộc sống
Đối với trẻ em cũng vậy khả năng mạnh dạn tự tin và giao tiếp tốt quả là
một điều rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng như
trong cuộc sống hằng ngày.
Bác Hồ từng nói:
“Ai cũng có lịng tự trọng, tự tin.
Khơng có lịng tự trọng , tự tin là người vơ dụng” [2]
Trẻ em sinh ra và lớn lên trong vòng tay u thương chăm sóc của gia đình.
Nếu những người thân trong gia đình và đặc biệt là những người làm cha, làm
mẹ sẽ hạnh phúc biết bao khi con của họ là những đứa trẻ khỏe mạnh, thông
minh, sáng tạo, mạnh dạn tự tin trong cuộc sống. Nhưng không phải ai sinh ra
cũng đã có ngay sự mạnh dạn, tự tin mà tất cả đều phải trải qua sự rèn luyện và
học hỏi, hơn nữa sự mạnh dạn, tự tin còn lớn dần lên nhờ vào cảm giác được u
thương, tơn trọng và thấy mình có giá trị.
Có thể nói sự mạnh dạn, tự tin chính là món q quý giá nhất đối với mỗi
người nói chung và bản thân trẻ nhỏ nói riêng. Khi có niềm tin vào bản thân, trẻ
sẽ can đảm vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Hiện nay, do sự phát
triển của xã hội, nhu cầu của phụ huynh đã được đáp ứng, trẻ em được gửi tới
trường Mầm non để vui chơi, học tập, tạo điều kiện cho cha mẹ, các bậc phụ
huynh có thời gian tham gia làm việc, tham gia các cơng việc xã hội.
Đến trường trẻ mầm non nói chung được vui chơi, học tập và tham gia tất
cả các hoạt động trong trong ngày với quãng thời gian chiếm 2/3 thời gian trong
ngày.
Vì vậy, việc rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường
Mầm non rất quan trọng vì ở lứa tuổi này trẻ đã một phần nào hình thành ý thức
và phát triển nhân cách. Mạnh dạn, tự tin chính là tiền đề để giúp trẻ trở nên
năng động sáng tạo và chủ động trong cuộc sống. Ở trường mầm non trẻ được
vui chơi, học tập, giao lưu, hợp tác cùng bạn giúp trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin,
năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, rất nhiều trẻ hiện nay còn nhút nhát, thiếu tự
tin, tự ti với bản thân mình, khơng dám thể hiện bản thân vì ngại giao tiếp, đặc
biệt là những nơi đông người hay trong môi trường tập thể.
Làm thế nào để giúp trẻ sống trong một tập thể đơng đúc có nề nếp, hiểu biết mà
vẫn hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, linh hoạt như ở gia đình, đó là nhiệm vụ rất khó
khăn của một giáo viên phụ trách nhóm lớp. Năm học 2018 – 2019 tôi được
phân công đứng lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi, nhận thức được tầm quan trọng của tính
mạnh dạn tự tin đối với sự phát triển của trẻ, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1, tôi
đã luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để phát huy sự mạnh dạn tự tin cho trẻ 5 -
6 tuổi có hiệu quả trước khi trẻ rời trường mầm non để bước sang mơi trường
học tập mới địi hỏi tính tự lập nhiều hơn đó là trường tiểu học. Vậy làm thế nào
để trẻ mạnh dạn tự tin khi tham gia giao tiếp với bạn bè và mọi người xung
quanh? Để trả lời câu hỏi này, tôi luôn tìm tịi, áp dụng các biện pháp, hình thức,
tổ chức các hoạt động giúp trẻ trong lớp tơi có cơ hội được thể hiện sự mạnh dạn
tự tin khi giao tiếp với cô giáo, bạn bè và mọi người xung quanh. Chính vì vậy,
tơi đã lựa chọn đề tài "Một số biện pháp rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong trường mầm non" để làm sáng kiến kinh nghiệm
cho bẩn thân với mong muốn tìm ra một số biện pháp hay, phù hợp để góp phần
trong cơng tác rèn tính mạnh ạn tự tin ho trẻ 5 – 6 tuổi đat hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Phát huy có hiệu quả kiến thức của bản thân để vận dụng vào trong thực tiễn
việc rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ mầm non. Qua đó cũng giúp bản thân
tiếp tục học tập, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ. Qua nghiên cứu đưa
ra một số giải pháp để rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ mầm non.
1.3. Đối tượng nghiên cứu :
Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi Trường mầm non Thành Vinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu tạp chí, tài liệu giáo dục mầm
non, các phương tiện thông tin đại chúng để thu thập các thông tin cần thiết phục
vụ cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: giảng giải, chỉ dẫn, trò chuyện với trẻ khi tổ chức các
hoạt động.
- Phương pháp thực hành : Tổ chức cho trẻ ứng xử, giao tiếp,..
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin, thống kê số liệu:
Thu thập thơng tin, tổng hợp, trình bày số liệu khảo sát số trẻ trước và sau khi áp
dụng các biện pháp thực hiện.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm .
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm :
Tất cả chúng ta đều biết niềm tin vào chính mình hay cịn gọi là sự tự tin,
chính là một động lực quan trọng của mỗi cá nhân. Mất niềm tin vào chính
mình, người ta thường khơng cịn tin tưởng vào người khác, dù đó là người thân
trong gia đình. Từ kinh nghiệm bản thân và quá trình được làm việc với nhiều
đồng nghiệp, tơi rất đồng tình với câu danh ngơn: “Mất tiền là mất một ít, mất
bạn là mất nhiều, nhưng mất niềm tin vào chính mình là mất tất cả”. Nếu mất
niềm tin hay khơng có sự tự tin trong cuộc sống thì thường có cảm giác mình là
người vơ dụng, khơng làm được gì.
Tự tin là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học
hỏi. Sự tự tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy
mình có giá trị. Tự tin là tin tưởng vào khả năng của bản thân, chủ động trong
mọi công việc, dám tự quyết định và hành động một cách chắc chắn, không
hoang mang dao động. Tự tin được thể hiện bên ngồi là mạnh dạn, thể hiện
mình trước đám đơng, khơng sợ nói trước đơng người. Tự tin là dám làm điều
mình nghĩ, bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà khơng e ngại. Tự tin
giúp con người có thêm sức mạnh, nghị lực và sức sáng tạo.
Tự tin là một phẩm giá mà mỗi người cần phải hướng tới và rèn luyện để
tồn tại và phát triển trong cuộc sống.
Ở lứa tuổi Mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nói riêng, ở giai
đoạn này trẻ rất cần có tính mạnh dạn, tự tin. Vì ở lứa tuổi này trẻ bắt đầu hình
thành một loại động cơ của hành vi mang tính chủ động, sáng tạo trong mọi tình
huống, hiển thị ở giao tiếp của trẻ đối với những người xung quanh (theo góc độ
của nhà tâm lý học trẻ em). Mỗi người chúng ta cần hiểu rằng cho dù sống ở
đâu, làm công việc gì thì sự mạnh dạn tự tin vẫn ln là điều cần thiết để giúp
con người vượt qua sự tự ti, nhút nhát. Mạnh dạn, tụ tin sẽ giúp chúng ta hòa
đồng với bạn bè, tất cả mọi người xung quanh. Trẻ ở lứa tuổi mầm non bắt đầu
hình thành và thể hiện cái “tôi”, trẻ quan tâm nhiều hơn đến thế giới xung quanh
và đã biết thể hiện cảm xúc của mình. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
thì sự mạnh dạn, tự tin là rất quan trọng, giúp cho trẻ chủ động để chơi với nhau,
sống hịa thuận với trẻ khác trong nhóm, tuy nhiên điều này không dễ dàng với
một số trẻ. Trẻ cần những kỹ năng quan hệ xã hội như làm thế nào để mạnh dạn
tự tin với mọi người? để giao tiếp? để chọn hành vi đúng đắn? Sự mạnh dạn tự
tin có thể được biểu hiện chỉ bằng những cử chỉ, thái độ rất đơn giản và gần gũi
trong cuộc sống, song lại giúp chúng ta phát hiện được nhiều điều đáng quý của
người khác để trân trọng và học tập.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy
lớp 5 - 6 tuổi với số trẻ là 35 cháu, trong đó có 19 cháu nam và 16 cháu nữ.
Trong q trình thực hiện tơi gặp phải những thuận lợi và khó khăn sau.
* Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên về chuyên
môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, động viên sự sáng tạo của giáo viên.
Tập thể cán bộ giáo viên trong trường ln có tinh thần đồn kết, tương
thân, tương ái luôn giúp đỡ nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng
ngày.
Trẻ đi học chuyên cần và được ăn ở bán trú tại trường, đảm bảo thời gian
nghỉ ngơi đúng khoa học nên việc chăm sóc giáo dục trẻ có nhiều thuận lợi. Các
bậc phụ huynh ngày càng quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Nhà trường tiếp tục thực hiện chuyên đề “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”
là chuyên đề trọng tâm của năm để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.
Trong năm học nhà trường tổ chức nhiều các ngày hội ngày lễ như: Ngày
hội đến trường, tết trung thu, ngày 20/11 ,…Qua các ngày hội đã lôi cuốn, hấp
dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Đặc biệt là
trong năm học 2018 - 2019 này nhà trường đã tổ chức hội thi “Bé khỏe, bé tài
năng” cấp trường và tham dự hội thi “Bé khỏe, bé tài năng” cấp huyện nên trẻ
càng có nhiều cơ hội để phát triển về kĩ năng sống hay sự mạnh dạn tự tin của
mình hơn.
Những thuận lợi này có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện kĩ năng sống hay
tính mạnh dạn tự tin trong giao tiếp cho trẻ mầm non.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó trong q trình giảng dạy tơi cũng gặp phải một
số khó khăn sau:
Qua khảo sát ban đầu tôi thực sự lo lắng vể sự mạnh dạn tự tin của trẻ.
Mặc dù trẻ con ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát hơn, lém lỉnh hơn. Nhưng
khi vào lớp học thì một số trẻ khơng dám nói lên những điều trẻ thích, khơng
dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người lớn theo suy nghĩ của
mình. Chỉ một số cháu dám nói lên những suy nghĩ, trị chuyện cùng cơ và
khách đến lớp.
Phịng học còn quá tải về số lượng nên cũng đã ảnh hưởng phần nào đến
việc chăm sóc giáo dục và rèn kĩ năng sống trẻ.
Số trẻ trong lớp đa số là con em nơng thơn, điều kiện kinh tế cịn nhiều khó
khăn, nhiều bố mẹ học sinh đi làm ăn xa dẫn đến việc quan tâm đến con cái còn
chưa được nhiều.
50% học sinh của lớp là người dân tộc thiểu số nên kĩ năng giao tiếp cũng
như ngôn ngữ phổ thơng của trẻ đang cịn hạn chế.
Nhiều phụ huynh hiện nay cho con em mình chơi, nghịch điện thoại di
động, xem ti vi nhiều như vậy các bậc phụ huynh đã vơ tình biến con mình
thành người nhút nhát, thụ động chỉ biết đến mình, khơng chịu giao tiếp ứng xử
đối với người xung quanh dẫn đến một số trẻ bị tự kỉ.
* Kết quả của thực trạng trên.
Bên cạnh những khó khăn trên mà việc rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho
trẻ đạt kết quả cao. Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2018 – 2019 tại lớp
mình tơi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 1 : Kết quả thực trạng
Kết quả
Tốt
Nội dung khảo sát
Số trẻ
Khả năng nói mạch
lạc
Khả năng giao tiếp với
người lạ.
Khả năng thuyết trình
trước đám đơng.
8
8
6
Khá
Tỷ
lệ
23
%
23
%
17
%
Số
trẻ
8
9
8
Tỷ
lệ
23
%
26
%
23
%
Trung
bình
Số
Tỷ
trẻ
lệ
34
12
%
37
13
%
43
15
%
Yếu
Số trẻ
Tỷ
lệ
7
20%
5
14%
6
17%
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát như trên, tôi thấy nhiều trẻ chưa mạnh dạn
tự tin, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ để đưa ra những giải pháp và sử dụng các
biện pháp để khi tổ chức các hoạt động cho trẻ đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng
dần khả năng mạnh dạn tự tin của trẻ, phát triển sự linh hoạt và nhanh nhẹn của
trẻ trong các hoạt động.
2.3. Các biện pháp thực hiện để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, phù hợp giúp trẻ hứng thú
khi tham gia các hoạt động.
Muốn trẻ mạnh dạn tự tin và hứng thú tham gia vào các hoạt động ở trường
ở lớp trước hết phải tạo cho trẻ được sống trong một không gian đẹp, đảm bảo
tính thẩm mĩ, khi trẻ nhìn thấy cái đẹp nó sẽ hình thành ở trẻ vốn kinh nghiệm
mà khi trải nghiệm thực tế trẻ sẽ bộc lộ ra ngồi. Tạo cho trẻ có một mơi trường
học tập phong phú với không gian đẹp là điều thực sự cần thiết và quan trọng.
Nó được ví như người giáo viên thứ hai trong công tác tổ chức, hướng dẫn cho
trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ, thơng qua đó, nhân
cách của trẻ được hình thành và phát triển tồn diện.
Thơng qua hội thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”
năm học 2017 – 2018 trường tôi đã tạo ra cho trẻ một mơi trường hoạt động tích
cực hơn, trẻ được chủ động chơi, được chơi theo ý thích của mình, được học tập
và được trải nghiệm, khám phá thực tế, đây chính là mơi trường thuận lợi nhất
để trẻ phát triển kĩ năng mạnh dạn tự tin trong giao tiếp. Và mơi trường giáo dục
đó được hiểu là mơi trường trong lớp học và mơi trường ngồi lớp học.
Đối với môi trường trong lớp học, ngay từ đầu năm học tơi đã tiến hành tạo
mơi trường lớp học của mình sạch sẽ thống mát. Trong phịng có nhiều đồ dùng
đồ chơi đẹp và được tơi trang trí phù hợp với độ tuổi, các góc chơi sắp xếp hợp
lý, góc động xa góc tĩnh, trang trí các góc phù hợp chủ đề, gần gũi quen thuộc
với cuộc sống hằng ngày của trẻ nhằm tạo cho trẻ cảm giác mới lạ, thích thú,
đồng thời nó cũng là động lực thúc đẩy trẻ học tập và vui chơi.
Ví dụ: Ở góc nghệ thuật tơi sưu tầm những hình ảnh ngộ nghĩnh từ hoạ báo,
có màu sắc rõ nét, gần gũi với trẻ để trưng bày ở góc này, và những hình ảnh đó
được thay đổi theo từng chủ đề, chủ điểm.
Ngồi ra tơi cùng các cơ giáo trong lớp cịn tự tay làm những đồ dùng đồ
chơi như các con vật, đồ vật…cho trẻ chơi. Khi thấy và được chơi với những đồ
chơi này trẻ rất hứng thú và thể hiện sự tò mị, thích khám phá, đặc biệt trẻ mong
muốn được cùng cô giáo làm ra những đồ dùng đồ chơi ở lớp, chính vì vậy mỗi
khi làm đồ dùng đồ chơi tơi thường khuyến khích, hướng dẫn trẻ cùng tham gia.
Tơi tận dụng các nguyên vật liệu từ sinh hoạt, từ thiên nhiên không độc hại
như: Vỏ chai nhựa, vỏ thuỷ sản, vải vụn, giấy báo, lá khô…từ những nguyên vật
liệu này tôi đã hướng dẫn trẻ cùng giúp cô giáo để làm các loại đồ dùng đồ chơi.
Ví dụ : Từ mảnh vải vụn và bông, tôi làm thành những con vật ngộ nghĩnh hay
những loại rau củ quả cho trẻ quan sát và cùng khám phá. Những lúc làm đồ
chơi như vậy trẻ có thể giúp cơ cắt những bơng hoa, chiếc lá,…để trang trí cho
thật đẹp. Khơng những vậy khi được tham gia làm đồ dùng đồ chơi cùng cô sẽ
tạo cơ hội cho trẻ được sáng tạo và qua đó cịn giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn đồ
dùng đồ chơi, biết giữ gìn bảo vệ môi trường.
Hình ảnh các đồ dùng đồ chơi tự tạo
Mơi trường ngồi lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong việc rèn luyện tính
mạnh dạn tự tin cho trẻ. Tuy diện tích ngồi sân trường cịn chật hẹp song nhà
trường cũng đã thiết kế các khu vui chơi học tập của trẻ phù hợp cho trẻ hoạt
động (sân vận động, khu vực chơi với các đồ chơi ngoài trời, khu vườn cổ tích,
…). Để giúp trẻ vui chơi, học tập tơi cùng các đồng nghiệp trong trường cịn làm
thêm các đồ dùng đồ chơi ở ngoài sân trường để trẻ vui chơi và trẻ được trải
nghiệm thực tế một số hoạt động như: chăm sóc vườn rau, chơi với đồ chơi phát
triển vận động…
Hình ảnh: Các đồ dùng đồ chơi tự tạo
Không những thoải mái mạnh dạn tự tin và hứng thú trong các hoạt động
vui chơi mà trong học tập trẻ cũng cần có sự hứng thú khi tham gia hoạt động
học tập. Cô giáo là người trực tiếp ảnh hưởng đến những thói quen trong sinh
hoạt hằng ngày của trẻ. Vì vậy để tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái gần gũi, thân
thiện, tơi thường xuyên trò chuyện với trẻ mỗi khi đến lớp. Những câu hỏi của
tơi ln kích thích trẻ muốn tìm hiểu và học hỏi. Ví dụ: Mỗi buổi sáng đến lớp
tôi thường đặt câu hỏi cho bé như: Hôm qua ở nhà con đã làm những gì? Con có
đi chơi đâu không ? với giọng hài hước, gần gũi với trẻ, khi đó tơi nhận thấy các
bé xem cơ giáo như một người bạn của mình.
Cho trẻ được hoạt động nhiều trong các bài học, gợi ý để trẻ phát huy hết khả
năng của mình. Nếu như phương pháp dạy và học trước đây là cô giáo giảng cho
học sinh nghe thì bây giờ học sinh chính là trung tâm, cịn giáo viên chỉ là người
hướng dẫn, gợi ý. Tơi thường đưa ra các câu hỏi mở rộng và sau đó dùng các câu
hỏi gợi ý để cho trẻ suy nghĩ và trả lời.
Ví dụ: Khi trẻ học với chủ đề “Thế giới thực vật” và chủ đề nhánh là “Một số
loại quả”. Tôi sẽ đưa ra câu hỏi mở rộng như : Bạn nào có nhận xét gì về quả này ?
rồi từ đó tơi dùng nhưng câu hỏi gợi ý để cho trẻ trả lời như: Qủa này có hình dạng
như thế nào ? Vỏ của nó ra sao ? Qủa này dùng để làm gì ?... Với phương pháp dạy
học này tôi thấy trẻ trả lời hết nội dung mà câu hỏi đặt ra, trẻ được hoạt động, được
nói lên sự hiểu biết của mình. Khi trẻ trả lời đúng tơi ln khen ngợi để khuyến
khích trẻ. Qua những lần như vậy tôi thấy trẻ đã mạnh dạn để trả lời câu hỏi của cô
giáo và trẻ rất tự tin với câu trả lời của mình.
Để thu hút được trẻ trong các hoạt động tôi xây dựng các bài giảng điện tử
phong phú về nội dung, có nhiều hình ảnh ngộ nghĩnh phù hợp với độ tuổi.
Trong các bài giảng tơi đã thiết kế có chèn thêm âm thanh, hình ảnh hiệu ứng
hay các video cho trẻ được nhìn thấy.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen bài thơ “Ếch con học bài” nếu chỉ có hình ảnh
ếch con đi học thì q nhàm chán trẻ sẽ khơng hứng thú học bài, tôi đã lựa chọn
phương pháp tạo hình ảnh mưa rơi khi ếch con đang đi học, sau đó tạo hiệu ứng
hình ảnh ếch con đang chuyển động, giúp trẻ hứng thú với bài học hơn. Chính vì
như vậy nên tơi đã gây được hứng thú đối với trẻ, giúp trẻ có cảm giác tự tin
thoải mái khơng bị gị bó khi học bài, qua đó tạo điều kiện cho trẻ ghi nhớ có
chủ định, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ.
Khi tổ chức hoạt ngồi trời cho trẻ tơi ln tìm những hoạt động thực tế để
trẻ có thể được thực hành và trải nghiệm. Ví dụ như hoạt động: “Cùng chung tay
làm sạch mơi trường ngồi lớp học”, tơi đã tổ chức cho trẻ nhặt lá trong sân
vườn trường, tôi thấy trẻ hoạt động rất tích cực, rất thoải mái, tự tin khi giao tiếp
và trả lời các câu hỏi của cô giáo trong khi hoạt động. Thông qua hoạt động này
trẻ đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về cuộc sống và cũng thơng qua đó
tơi giáo dục trẻ có ý thức biết giữ gìn và bảo vệ mơi trường xanh sạch đẹp.
Hình ảnh: Cơ cùng các bé đang nhặt lá trong sân vườn trường.
Đặc biệt trong năm học 2018 – 2019 này trường tơi có tổ chức hội thi “Bé
khỏe, bé tài năng” cấp trường, lớp tơi có 3 học sinh tham gia hội thi “Bé khoẻ,
bé tài năng” cấp huyện đạt giải nhì. Qua hội thi này trẻ đã có một môi trường
học tập, vui chơi thú vị hơn và điều quan trọng hơn nữa là trẻ được giao lưu học
hỏi và được thể hiện tài năng, năng khiếu cũng như sự mạnh dạn tự tin của
mình.
Hình ảnh trẻ tham dự hội thi
2.3.2. Nắm rõ đặc điểm, tâm sinh lý của lứa tuổi và trẻ cá biệt để rèn
luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ
Như chúng ta đã biết, ở lứa tuổi này, trẻ ý thức khá rõ ràng về những
“quyền lợi” và “thế mạnh” của mình. Vì thế trẻ dễ có những tình trạng như:
Hiếu động - nghịch ngợm, nhõng nhẽo, nhút nhát…
Vì vậy là giáo mầm non phải biết đánh giá đúng về trẻ để có cách ứng xử
phù hợp giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Trong bất kì một hoạt động nào
cơ giáo phải ln chú ý quan tâm đến trẻ để kịp thời hướng dẫn và uốn nắn
những việc làm chưa đúng của trẻ. Cô giáo phải biết khích lệ động viên trẻ kịp
thời trong khi trẻ hoạt động.
Để hiểu rõ hơn về tâm sinh lý của trẻ thì trong mọi hoạt động tơi ln quan
tâm chú ý đến từng trẻ, và đặc biệt hơn nữa chú ý đến những trẻ còn nhút nhát
và nhất là những trẻ là người dân tộc thiểu số, trong mọi giờ hoạt động tôi luôn
quan sát và nhận xét xem trong q trình học tập trẻ có hoạt động khơng? Có
tích cực, hứng thú khơng? Tơi tìm hiểu ngun nhân vì sao trẻ khơng hồ đồng
cùng các bạn để có hướng tìm cách giúp trẻ hồ nhập với bạn bè, cách làm này
của tôi đã giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều.
Ví dụ: Trong lớp tơi có cháu Nguyễn Thị Ngọc Mai, cháu là người dân tộc
Mường, gia đình sống ở thơn có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, có lẽ một phần
cũng vì lý do này nên cháu nhút nhát hơn các bạn khác. Qua khảo sát chất lượng
đầu năm học này cho thấy, cháu chậm chạp trong mọi hoạt động, vốn từ giao
tiếp của cháu cũng rất hạn chế, vì vậy mỗi lần khi trả lời câu hỏi của cơ giáo
cháu cịn chưa mạnh dạn, tự tin vì sợ cơ và các bạn cười. Với những cháu nhút
nhát như cháu Mai, tơi thường xun trị chuyện gần gũi, ân cần, nhẹ nhàng, thể
hiện sự quan tâm, yêu thương cháu, động viên, giúp đỡ khi cháu tham gia vào
các hoạt động. Ban đầu tôi cho cháu tham gia hoạt động nhóm với các bạn rồi
sau đó tơi khuyến khích cháu thực hiện độc lập. Mỗi lần cháu thực hiện như vậy
luôn được cô và các bạn khen, cổ vũ bằng nhiều hình thức như: Cổ vũ bằng một
tràng pháo tay, cuối tuần được cô nêu gương bé chăm bé ngoan và nhận phiếu
bé ngoan.
Để thu hút được sự chú ý của những trẻ còn nhút nhát trong lớp tơi tìm
hiểu mong muốn, sở thích của các cháu và cùng các cháu đề ra những quy định
chung của lớp như “Mạnh dạn tham gia chơi với bạn, đoàn kết với các bạn,
nhường đồ chơi cho bạn” vào thứ hai hàng tuần. Đến cuối tuần tôi cho các cháu
tự nhận xét xem mình đã thực hiện tốt nội quy đó chưa. Bạn nào tiến bộ sẽ được
cơ cắm cờ bé ngoan, còn những bạn chưa thực hiện được tốt nội quy thì vẫn phải
phấn đấu bao giờ ngoan mới được thưởng. Từ đó tơi đã tạo được niềm tin ở trẻ,
trẻ luôn tin tưởng và giãi bày những mong muốn với tơi vì các cháu đã thực sự
mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia các hoạt động ở lớp, không những vậy bây
giờ các cháu đã quen hơn với mơi trường tập thể, thích đi học và đã mạnh dạn tự
tin giao tiếp với mọi người xung quanh. Chính điều này đã giúp tơi thành cơng
trong việc rèn luyện sự mạnh dạn tự tin cho những trẻ cá biệt.
Tôi luôn chú ý đến việc nhận xét khen hay chê đối với những trẻ nhút nhát,
không mạnh dạn, luôn quan tâm đến thái độ của trẻ vì điều này có ảnh hưởng rất
lớn đến tâm sinh lý của trẻ.
Ví dụ: Đối với một số trẻ trong lớp cịn nói ngọng hay phát âm chưa chuẩn
tôi sẽ không chê bai trẻ ra mặt, như vậy sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ làm cho
trẻ càng e dè nhút nhát hơn mà thay vào đó tơi thường dùng những câu động
viên trẻ như “Con hãy đọc lại cho cô và các bạn nghe cô tin rằng lần này con sẽ
đọc hay hơn và chính xác hơn nhiều” hay “Cơ tin rằng con sẽ làm tốt mà”…
Cô giáo là người thân và gẫn gũi với trẻ nhất khi trẻ đến trường, vì vậy phải
biết thương u trẻ như chính những đứa con mà mình sinh ra. Hiểu được tâm
sinh lý, suy nghĩ của trẻ sẽ có những phương pháp phù hợp để giúp trẻ mạnh dạn
tự tin hơn trong các hoạt động.
2.3.3. Thơng qua việc tạo tình huống kích thích trẻ đặt câu hỏi với cơ để rèn
tính mạnh dạn tự tin cho trẻ.
Đối với trẻ mầm non, cơ giáo đóng vai trị rất quan trọng và cơ giáo được ví
như “người mẹ hiền thứ 2” của trẻ. Hiểu được điều đó nên bản thân tơi ln tâm
niệm và đặt ra một số quy tắc cho mình khi chăm sóc và giáo dục trẻ như:
Muốn giúp trẻ mạnh dạn tự tin, thơng minh cơ giáo nên gần gũi, trị chuyện cùng
trẻ, không quát nạt khi trẻ làm sai. Ngược lại, phải luôn tôn trọng trẻ, không xem
thường những thắc mắc qua những câu hỏi của trẻ, thậm chí quan tâm cả những
lời mách tội của trẻ. Phải luôn lắng nghe và cùng trao đổi ý kiến đối với các
đồng nghiệp, cũng từ đó rút kinh nghiệm cho bản thân để tiếp tục sử dụng những
phương pháp hay cho đề tài.
Trẻ mầm non “học bằng chơi, chơi mà học” vì vậy, tơi ln cố gắng tạo cơ
hội để trẻ có thể học được nhiều hơn thơng qua những trị chơi. Hay cho trẻ
tham gia vào các hoạt động thực tế như vậy trẻ sẽ hào hứng hơn để đặt ra câu
hỏi và khám phá xung quanh.
Ví dụ : Khi cho trẻ chơi trị chơi trải nghiệm “vật chìm vật nổi” tơi cho trẻ tự
chọn vật chìm, vật nổi thả xuống nước. Trong khi thực hiện trẻ sẽ rất thắc mắc
tại sao vật đó lại chìm và tại sao vật lại nổi. Sẽ có những câu hỏi mà trẻ cần cơ
trả lời. Khi trẻ đưa ra những câu hỏi tôi sẽ thưởng cho trẻ đó một lời khen đơn
giản như: cơ rất thích câu hỏi của con, câu hỏi của con rất tuyệt... như vậy trẻ sẽ
rất phấn khích vì được cơ giáo khen.
Khi tổ chức các hoạt động tôi đưa ra các gợi ý về đối tượng gợi cho trẻ sự
hứng thú nhằm kích thích sự tị mị và trí tưởng tượng để trẻ đưa ra câu hỏi với
đối tượng đó.
Tùy vào từng nội dung bài dạy mà tôi xây dựng chuỗi hệ thống câu hỏi từ
dễ đến khó và sưu tầm phương pháp giới thiệu vấn đề một cách cởi mở. Ví dụ:
Khi hướng dẫn trẻ làm quen với một số con vật ni trong gia đình. Đầu tiên tơi
cho trẻ thăm quan mơ hình về các con vật ni trong gia đình sau đó tơi dẫn dắt
trẻ vào bài học, hay khi tìm hiểu về một con vật nào đó tơi lại bắt chước tiếng
kêu của con vật đó và tơi đặt câu hỏi cho trẻ: Đó là tiếng kêu của con gì? Con
vật này sống ở đâu? tơi cho trẻ bắt chước tiếng kêu của các con vật. Tôi luôn sử
dụng cách nói hài hước với trẻ trong các giờ hoạt động để trẻ khơng bị gị bó,
căng thẳng khi tham gia các hoạt động.
Tơi thường xun trị chuyện với trẻ về cuộc sống hằng ngày vào những
giờ đón trẻ, trả trẻ hay những giờ hoạt động ngoài trời để kích thích trẻ giao tiếp
một cách thoải mái. Hay đơi khi tôi lại sử dụng những câu chuyện sáng tạo, thân
quen với trẻ để trò chuyện với trẻ, gợi ý cho trẻ trả lời bằng những ngôn ngữ gần
gũi, quen thuộc mà trẻ thường sử dụng, cứ như vậy dần dần tơi thấy trẻ khơng
cịn gị bó, khơng cịn nhút nhát nữa, mà thay vào đó trẻ thấy rằng cơ giáo thật
gần gũi giống như những người thân trong gia đình hay những người bạn vậy.
Hình ảnh: Cơ giáo và trẻ đang trò chuyện
Để chọn biện pháp giáo dục tốt cho trẻ tôi nghĩ thông tin cho trẻ biết là
những người thân trong gia đình nghĩ gì về mình, nhận xét về mình như thế nào
cũng rất quan trọng. Tơi chọn một buổi sinh hoạt cuối tuần hoặc lúc hoạt động
ngồi trời để kể lại những gì tơi biết về trẻ một cách thật tình cảm, thật tế nhị.
Đặc biệt lưu ý đến những trẻ cá biệt của lớp, tôi nêu những ưu điểm dù rất nhỏ
để động viên, tránh trường hợp chỉ khen những trẻ giỏi, chê bai những trẻ kém
làm cho trẻ chán và thêm mặc cảm.
Tôi không nhận xét hay chê bai những điều chưa tốt của một cá nhân nào đó
trước lớp, thay vào đó tơi chọn cách giáo dục trẻ thông qua những nhân vật
trong 1 câu truyện nào đó...
Ví dụ: Có 1 trẻ trong lớp, khi ở nhà chưa ngoan, chưa biết vâng lời mẹ. Với
trường hợp như vậy tôi sẽ giáo dục trẻ thông qua câu truyện “Cá rô ron không
vâng lời mẹ”, hay có thể giáo dục trẻ qua bài thơ “Thỏ bông bị ốm”… Qua
những câu truyện, bài thơ đó tơi vừa có thể giúp trẻ hiểu được những điều mình
đã làm là đúng hay sai, đồng thời giáo dục trẻ biết vâng lời cha mẹ, cô giáo và
những người lớn tuổi. Để giúp trẻ mạnh dạn, tôi mời trẻ đứng lên xác nhận
những gì cha mẹ kể cho cơ nghe và động viên trẻ kể lại những việc làm tốt ở
nhà. Như vậy trẻ sẽ rất tự tin với những điều cơ nói về mình.
Thường xuyên cho trẻ tham gia trả lời câu hỏi dù trẻ chưa biết, cô gợi mở
để trẻ hiểu và mạnh dạn hơn. Và dựa theo sự hăng hái kể chuyện của trẻ, tôi
uốn nắn thêm giúp trẻ nhận xét đúng hơn.
2.3.4. Rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ thơng qua trị chơi và các hoạt
động khác.
Khi tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ tôi hiểu khi trẻ được hoạt động
vui chơi dưới hình thức trẻ làm trung tâm sẽ tạo điều kiện cho trẻ hoạt động tích
cực, mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin và hứng thú, dám thể hiện “cái tơi” của mình,
bước đầu đặt nền tảng cho việc đào tạo nên những con người dám nghĩ, dám làm
trong tương lai.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ chơi trị chơi: Đóng vai theo chủ đề (đóng vai
bác sĩ, đóng vai mẹ - con, tập làm cơ giáo, bán hàng,...). Trong q trình chơi trẻ
được thể hiện vai chơi, từ đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn, góp phần vào sự
phát triển hài hịa cho trẻ, qua đó cịn giúp trẻ củng cố thêm những kiến thức mà
mình có. Và mối quan hệ qua lại giữa con người với con người sẽ rất tốt nếu
người lớn thể hiện sự hứng thú của mình với trị chơi của trẻ, tham gia chơi cùng
trẻ, chỉ bảo, hướng dẫn hành động của trẻ trong khi chơi.
Hình ảnh: Các bé đang chơi đóng vai Bác sỹ khám bệnh
Hình ảnh: Trẻ chơi bán hàng
Đối với trẻ em ở lứa tuổi mầm non thì “học bằng chơi, chơi mà học”.
Thơng qua các trị chơi trẻ được hoạt động thoải mái và học được nhiều điều hay
sau những trò chơi đó. Trong những giờ hoạt động học tập của trẻ tơi lồng ghép
các trị chơi vào bài học để trẻ được trải nghiệm và thể hiện bản thân.
Ví dụ : Trong giờ văn học khi dạy câu truyện “Nhổ củ cải” tơi lồng ghép
trị chơi đóng kịch vào giờ học đó, tơi tập cho trẻ biết đóng kịch, biết hóa thân
vào các nhận vật trong câu truyện. Mỗi lần như vậy tôi thấy trẻ rất hứng thú và
mỗi trẻ đều có một cách để thể hiện bản thân mình, đặc biệt sau những giờ đó trẻ
mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều.
Tôi luôn thay đổi các phương thức để trẻ chủ động, vì giờ vui chơi là của
trẻ. Các bé rất tha thiết được suy nghĩ chơi theo ý tưởng riêng và sự hứng thú
của mình. Cơ chỉ nên là người quan sát, góp ý dưới hình thức cùng nhập vai
chơi với trẻ. Ví dụ : Cơ tổ chức cho trẻ chơi trị chơi “Bạn hãy làm giống
tơi” (Trị chơi này sử dụng đầu năm học và các buổi giao lưu với các bạn lớp
khác)
Mục đích: Tạo cho trẻ cơ hội nhớ tên của nhau một cách tự nhiên, phát triển
mạnh dạn tự tin của trẻ đến các hoạt động tập thể.
Chuẩn bị: Một trái bóng cao su nhẹ nhiều màu
Tiến hành: Cơ và trẻ ngồi thành vịng trịn. Trước tiên cơ giáo nói tên của mình
(chào các bạn tơi tên là Quỳnh Ân) sau đó ném bóng cho một trẻ bất kỳ. Trẻ
nhận được bóng từ cơ giáo sẽ nói tên mình. Cứ như vậy cho đến khi tất cả các
trẻ nhớ tên nhau. Trẻ mạnh dạn đứng lên giới thiệu tên của mình
Tơi thường xun tổ chức các buổi sinh hoạt văn nghệ nhằm giúp trẻ
hình thành những tình cảm, cảm xúc tích cực và hình thành ở trẻ tính mạnh dạn
tự tin khi được thể hiện bản thân mình trong buổi sinh hoạt đó. Trong giờ hoạt
động này tơi tổ chức thành chương trình hay cuộc thi cho trẻ hoạt động, chính
trẻ sẽ được thay phiên nhau làm MC hoặc làm thí sinh. Khi thực hiện chương
trình sinh hoạt văn nghệ âm nhạc tơi sử dụng bằng nhiều hình thức khác nhau
như: để trẻ nghe nhạc không lời và hát theo nhạc... Qua những hình thức đó, trẻ
được tiếp xúc với âm nhạc thường xuyên, cùng sinh hoạt với lớp thường xuyên
sẽ tạo cho trẻ tự tin, vui tươi, mạnh dạn, hồn nhiên và gần gũi, thân thiết với cô
và các bạn. Từ đó, trẻ sẽ khắc phục được tính thụ động và nhút nhát.
Một số hoạt động thực tế trong đầu năm học 2018 – 2019 mà trẻ được
tham gia và có hiệu quả rõ rệt trong việc rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ
như chương trình văn nghệ mừng ngày hội đến trường của bé, tết trung thu, hội
thi “bé khỏe, bé tài năng”...
Hình ảnh : Các bé múa hát vui tết trung thu
Rèn sự mạnh dạn tự tin cho trẻ thơng qua các trị chơi hay các hoạt động
khác cũng vậy, tôi luôn chọn nội dung phù hợp với trẻ lớp mình, kết hợp với
phương pháp dùng lời, phương pháp trực quan, trẻ được nghe, được xem hình
ảnh cùng với sự giảng giải của cơ, trẻ sẽ được trải nghiệm, khám phá cuộc sống
xung quanh, từ đó trẻ tích luỹ cho mình những bài học kinh nghiệm. Hằng ngày
tôi ghi chép từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn,
ghi chép những điều mà trẻ đạt được trong mỗi ngày, lưu trữ dữ liệu, sản phẩm
để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục
từng trẻ cho phù hợp và giúp trẻ mạnh dạ tự tin hơn trong mọi hoạt động.
2.3.5. Tạo cơ hội cho trẻ được thuyết trình theo ngôn ngữ tự do và hành
động theo suy nghĩ của trẻ.
Tự do chính là cha đẻ của sự mạnh dạn tự tin, nó là mơi trường thuận lợi để
kích thích ý tưởng sáng tạo của trẻ, trẻ mạnh dạn tự tin để nói ra hoặc thể hiện ra
sự sáng tạo đó. Nếu có ai nói rằng “cho trẻ hành động theo ý thích và suy nghĩ
của trẻ là sai lầm” thì tơi nghĩ chính người nói như thế mới sai lầm. Bởi vì, với
vai trị là một người lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ chính của chúng tơi là chăm
sóc, giáo dục và giúp đỡ trẻ, hướng dẫn khi trẻ gặp khó khăn. Phải hướng dẫn trẻ
một cách kịp thời để trẻ luôn đi đúng hướng. Vì vậy tơi ln tạo cho trẻ khơng
gian tự do cần thiết, cho trẻ được quyết định những việc đơn giản và làm những
điều mà trẻ thích. Việc bị hạn chế, cấm đoán quá nhiều sẽ khiến trẻ khơng cịn
khơng gian cho sự sáng tạo và hình thành thói quen làm theo ý của người khác.
Tuy nhiên, tơi dành cho trẻ sự tự do không đồng nghĩa với việc vô nguyên tắc,
vô kỉ luật. Tôi cho trẻ sự tự do sáng tạo nhưng luôn đưa ra những giới hạn nhất
định để giáo dục trẻ.
Tôi thường giao cho trẻ một nhiệm vụ nào đó vào ngày nghỉ, ví dụ như một
lời dặn dò, hay một câu hỏi để trẻ tò mò và hỏi những người lớn xung quanh.
Trẻ đã được hướng dẫn từ cô giáo, và thông qua việc trò chuyện với cha mẹ, trẻ
lại một lần nữa được học cách nói chuyện, cách trình bày của chính người thân
của trẻ. Như vậy, với hình thức này tơi thấy trẻ được giao tiếp, trao đổi với nhiều
người lớn, học được nhiều cách trình bày ngơn ngữ khác nhau và cũng qua đó
giúp cho bản thân trẻ mạnh dạn, tư tin hơn trong giao tiếp hằng ngày.
Ví dụ: Với chủ đề gia đình. Tơi sẽ giao cho trẻ một nhiệm vụ là hãy kể về
sở thích của những người thân trong gia đình. Với chủ đề này, khi về nhà trẻ sẽ
đặt câu hỏi hoặc trò chuyện cùng với người thân trong gia đình để tìm hiểu. Qua
đó tơi kết hợp giáo dục trẻ biết yêu thương, quan tâm đến những người thân
trong gia đình.
Đặc biệt, với những hoạt động vui chơi ngồi trời sau hoạt động chính, tơi
ln bao quát hướng dẫn trẻ rồi sau đó cho trẻ hoạt động tự do theo ý thích và
sáng tạo của riêng trẻ. Qua những việc mà trẻ đã làm sẽ có vốn kiến thức và kinh
nghiệm sống bền vững. Đây chính là nền tảng để trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển
ngơn ngữ của mình một cách hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất thiết thực từ những
gì trẻ đã và đang thực hiện.Ví dụ : Trong giờ hoạt động ngồi trời, với nội dung
chơi tự do tôi hướng trẻ vào các trị chơi dân gian như: Chi chi chành chành, ơ
ăn quan, cờ gánh, lộn cầu vồng,…Thơng qua các trị chơi này trẻ được giao tiếp
một cách thoải mái nhất, thỏa thuận, hợp tác với nhau để cùng chơi trò chơi. Trẻ
được thể hiện mình thơng qua các trị chơi và điều đặc biệt hơn nữa thơng qua
đó tơi cũng muốn khơi phục các trị chơi dân gian ngày càng bị mai một bởi các
đồ chơi thơng mình hiện đại trong cuộc sống ngày nay.
Hình ảnh: Trẻ chơi trị chơi lộn cầu vồng
2.3.6.Cho trẻ được tập làm thủ lĩnh, làm tổ trưởng, giúp đỡ các bạn khác
khi tham gia các hoạt động theo nhóm
Trong những buổi họp chun mơn giáo viên chúng tơi có bàn bạc thảo
luận, đưa ra những ý kiến về cách rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ và chúng tôi
đã rút ra được những kinh nghiệm sau: “Muốn trẻ tự tin mạnh dạn, nên cho
trẻ thay nhau làm thủ lĩnh trong các hoạt động, phân tổ trưởng, tổ phó, cho
trẻ tham gia các hoạt động tự giao tiếp, thuyết trình trước đám đơng”.
Tơi đã áp dụng biện pháp này tại lớp tơi, sau một thời gian đã có kết quả rõ rệt,
trẻ rất thích được làm thủ lĩnh, được giúp đỡ các bạn. Tôi tiếp tục cho trẻ luân
phiên nhau làm tổ trưởng, tổ phó và các nhiệm vụ khác nhau. Tơi cịn thường
xun giao nhiệm vụ cho trẻ để trẻ thích đi học và khơng cịn rụt rè nữa.
Ví dụ: Trong lớp tơi phụ trách có cháu Nguyễn Đình Đức, đầu năm học
cháu rất nhút nhát khơng hay giao tiếp với bạn bè trong lớp. Tôi đã xắp xếp cho
cháu ngồi ở vị trí gần với cơ giáo và giao cho cháu nhiệm vụ làm tổ trưởng tổ 1,
yêu cầu cháu quan sát các bạn trong tổ của mình trong các giờ hoạt động và vào
dịp cuối tuần cháu sẽ nhận xét về các bạn trong tổ của mình. Đến nay tơi đã thấy
cháu mạnh dạn, tự tin hơn, khả năng giao tiếp tốt hơn và sẵn sang phối hợp với
các bạn trong tổ của mình.
Tơi cho trẻ hoạt động theo nhóm để trẻ thể hiện được khả năng hợp tác của
mình với các bạn và có thể giúp đỡ các bạn trong nhóm của mình thực hiện tốt
hơn. Trong khi trẻ hoạt động nhóm, tơi hướng cho trẻ hãy cử ra một bạn trong
nhóm có thể làm nhóm trưởng và nhóm trưởng có trách nhiệm phân cơng nhiệm
vụ cho các bạn khác, tự điều khiển các hoạt động chơi của nhóm mình và tự sắp
xếp ý tưởng chơi theo hướng dẫn và gợi ý của cô. Trong khi hoạt động sẽ có
những câu hỏi mà trẻ đặt ra và cũng chính những trẻ trong nhóm sẽ trả lời những
câu hỏi đó. Thơng qua hoạt động này trẻ được giao tiếp với nhau một cách thoải
mái tự tin nhất, được bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của bản thân, từ đó tơi thấy trẻ
đã mạnh dạn, tự tin, linh hoạt, tự giác hơn. Cô giáo chỉ là người hướng dẫn, giúp
đỡ trẻ trong các hoạt động. Tôi rất vui và tự tin tiếp tục áp dụng biện pháp này,
sau một thời gian đã có hiệu quả rõ rệt, trẻ đã mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt
động.
Ví dụ: Trong giờ trẻ hoạt động góc, ở góc xây dựng tơi đưa ra nhiệm vụ
cho trẻ là xây dựng trường mầm non. Từ đó trẻ sẽ tự lên ý tưởng xây như thế
nào ? trường mầm non cần có những gì ? trang trí trường bằng những gì ?…
Trong khi trẻ thực hiện tôi luôn quan sát và đưa ra những gợi ý kịp thời để trẻ
làm tốt hơn.
2.3.7. Công tác phối kết hợp và tuyên truyền với các bậc phụ huynh.
Bên cạnh sự tác động hỗ trợ của nhà trường, cô giáo thì một phần khơng
thể thiếu đó là các bậc phụ huynh. Muốn cho con em phát triển một cách hài hịa
tồn diện thì sự kết hợp hài hịa giữa nhà trường và gia đình cũng rất quan trọng.
Vậy làm thế nào để tuyên truyền với phụ huynh học sinh một cách thuyết phục,
một cách đạt hiệu quả đó là một công việc không đơn giản. trong công tác phối
hợp với phụ huynh học sinh tôi đã thực hiện các bước sau:
- Lên kế hoạch thông báo phương pháp rèn luyện tính manh dạn tự tin cho
trẻ, ghi rõ nội dung rèn luyện trẻ vào bảng “Những điều phụ huynh cần biết” để
phụ huynh theo dõi rèn luyện thêm cho trẻ.
- Hằng ngày cùng chia sẻ với phụ huynh về phương pháp giáo dục ở lớp,
ở trường để phụ huynh nắm được phương pháp giáo dục của nhà trường, phụ
huynh sẽ hiểu rõ những hoạt động của trẻ ở lớp và có thể tham gia đánh giá sự
phát triển của trẻ. Thơng qua giờ đón, trả trẻ phụ huynh cũng đánh giá được
cách giáo dục của mình có phù hợp với nhà trường khơng. Gia đình và nhà
trường phải ln là người bạn đồng hành cùng chí hướng thì việc chăm sóc giáo
dục trẻ mới hiệu quả. Và quan trọng hơn là phụ huynh có điều kiện tiếp xúc với
mơi trường học tập sinh hoạt của trẻ, có điều kiện gần gũi với các cơ giáo từ đó
tạo sợi dây liên kết giữa nhà trường và gia đình, giúp trẻ được sống trong một
mơi trường giáo dục tốt, qua đó cịn dạy cho trẻ bài học cần phải có mối quan hệ
tích cực với những người xung quanh.
Hình ảnh: Cơ giáo trao đổi cùng phụ huynh vào giờ đón – trả trẻ
- Tuyên truyền để phụ huynh đóng góp các ngun vật liệu khơng độc hại
để cơ và trẻ làm đồ dùng đồ chơi trên lớp.
Sau khi sử dụng các biện pháp tuyên truyền với phụ huynh, phụ huynh
hiểu bản chất, tác dụng của sự mạnh dạn tự tin, nắm vững phương pháp rèn
luyện trẻ từ đó phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, kết hợp chặt chẽ với giáo viên
để rèn luyện trẻ tốt hơn.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.
Rèn kĩ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi mầm non có vai trị rất quan trọng, đó sẽ
là nền tảng giúp cho trẻ hình thành những con người có nhân cách tốt, mà cịn
hình thành cho trẻ khả năng mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động khơng chỉ ở
lứa tuổi mầm non mà đó là nền tảng cho các cấp học tiếp theo, tạo nên một con
người năng động sáng tạo.
Sau một thời gian với những phương pháp và hình thức rèn luyện tính
mạnh dạn tự tin trong giao tiếp mà tôi đã dạy trẻ thơng qua các hoạt động, tơi
thấy trẻ có những thay đổi rõ rệt:
- Trẻ lớp tôi đã mạnh dạn tự tin hơn, hứng thú, tích cực khi tham gia vào
các hoạt động. Đặc biệt với những cháu cá biệt đã có sự tiến bộ rõ rệt, khơng
cịn nhút nhát, mạnh dạn hơn và sẵn sàng hợp tác cùng các bạn trong mọi hoạt
động của lớp.
- Trẻ sẵn sàng bày tỏ những suy nghĩ của mình, bộc lộ cảm xúc bản thân.
- Trẻ thích đi học, thích tham gia các hoạt động, có tinh thần thi đua, giúp
đỡ nhau trong các hoạt động.
- Kết quả tham gia hội thi “Bé khoẻ, bé tài năng” cấp trường lớp tơi đạt
giải Nhì, và lớp có 3 học sinh đạt giải Nhì hội thi cấp Huyện.
Bảng 2 : Kết quả đạt được sau khi áp dụng các giải pháp
Kết quả
Tốt
Nội dung khảo sát
Khả năng nói mạch
lạc
Khả năng giao tiếp
với người lạ.
Khả năng thuyết trình
trước đám đơng.
Khá
Số
Tỷ
trẻ
lệ
Trung bình
Số
Tỷ
trẻ
lệ
Số
trẻ
Tỷ
lệ
15
43%
11
31%
9
14
40%
12
34%
13
37%
10
29%
Yếu
Số
trẻ
Tỷ lệ
26%
0
0%
9
26%
0
0%
12
34%
0
0%
Bản thân tơi qua q trình rèn luyện giáo dục trẻ cũng đã trau dồi kiến thức
và tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm cho bản thân. Thông qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn của tổ cũng như của nhà trường, tôi thường xuyên trao đổi những
kinh nghiệm mà bản thân tơi đã tích lũy được với đồng nghiệp để góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống hay sự mạnh dạn tự tin cho trẻ ở trường.
3. Kết luận và kiến nghị.
* Kết luận :
Rèn luyện cho trẻ tính mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với người thân và tất cả
mọi người xung quanh giống như ta chắt lọc nguồn nước tinh khiết từ mạch
nguồn yêu thương tưới cho những chồi non mới nhú, những chồi non đó chính
là những em bé với tâm hồn trong sáng, thánh thiện. Những chồi non đó sẽ trở
nên khô cằn nếu như ta không biết cách nuôi dưỡng và chăm sóc. Để làm được
điều đó, địi hỏi người giáo viên phải có sự kiên trì, nhẫn nại với trẻ, cho trẻ hoạt
động nhiều lần, quan tâm đến mọi trẻ đặc biệt là những trẻ chưa mạnh dạn tự tin.
Với những kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng và tơi nhận thấy rằng nó đã đem lại
hiệu quả thiết thực trong việc rèn cho trẻ tính mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
Để có được kết quả như vậy đó là sự nỗ lực phấn đấu của bản thân tôi, kết
hợp cùng sự giúp đỡ của đồng nghiệp và đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường
luôn sát sao dự giờ cũng như các hoạt động của lớp tôi để đưa ra những biện
pháp phù hợp với khả năng của trẻ. Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân
tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm như sau:
- Trước hết cơ giáo phải có trình độ chun mơn, phải có lịng nhiệt tình say
mê với nghề nghiệp yêu nghề, mến trẻ. Cần xây dựng và duy trì nề nếp học tập
của trẻ trong lớp. Cần cho trẻ hoạt động trong môi trường học tập phong phú.
Đặc biệt luôn luôn quán triệt và xác định tầm quan trọng trong việc phát triển
nhân cách của trẻ trong trường Mầm non để giúp trẻ hoạt bát, mạnh dạn, tự tin,
nhanh nhẹn.
- Ln tự học hỏi để nâng cao trình độ chun mơn, tích lũy kinh nghiệm để
có sự sáng tạo trong giảng dạy. Ln thay đổi hình thức giáo dục, tạo tình huống
bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ vào giờ hoạt động. Thường xuyên nghiên
cứu, tham khảo tài liệu trên sách, báo, tivi, mạng internet… Thường xuyên kết
hợp công tác giáo dục thông qua các hoạt động học tập, vui chơi ở lớp, trẻ phát
triển mọi mặt từ đó tạo ra niềm tin với phụ huynh học sinh.
- Phải tạo cho trẻ một trạng thái tâm lý thoải mái và an tồn. Gần gũi, u
thương trẻ, ln coi trọng những hành động, suy nghĩ của trẻ dù là nhỏ nhất và
luôn đặt khẩu hiệu “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” lên hàng đầu.
Phải tạo được nề nếp hoạt động thường xuyên, liên tục, mang tính tự giác cao,
đồn kết, nhất trí và quyết tâm thực hiện khơng ngại khó khăn. Điều cơ bản nhất
là khơng gấp gáp với thời gian, khơng nóng vội địi có kết quả trong thời gian
ngắn, phải thật sự kiên trì.
- Và điều quan trọng là giáo viên phải làm tốt công tác phối kết hợp với phụ
huynh để cùng kết hợp chăm sóc, giáo dục trẻ một cách tốt hơn.
* Kiến nghị :
Trong q trình đứng lớp bản thân tơi trực tiếp giảng dạy và chăm sóc cho
các cháu. Xin có một số kiến nghị đề xuất như sau:
- Vì thời gian công tác trong ngành của bản thân tôi chưa nhiều, kinh nghiệm
cịn hạn chế. Kính mong được Ban Giám hiệu Nhà trường quan tâm, tạo điều kiện
hơn nữa để tơi được học hỏi và nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình.
- Đối với phụ huynh cần quan tâm đến trẻ hơn nữa, phối hợp chặt chẽ giữa
gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Qua sang kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy đề tài rất sát với thực tế công
việc hiện tại của tôi cũng như mơi trường tơi đang làm việc. Vì vậy kính mong
Ban Giám hiệu Nhà trường, các đồng nghiệp góp ý, bổ sung để đề tài của tơi
được hồn thiện hơn và mang lại hiệu quả thiết thực trong việc giáo dục rèn
luyện tính mạnh dạn tự tin của trẻ.
Tơi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
HT:
Hồng Thị Loan
Thành Vinh, ngày 25 tháng 03 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến
Bùi Thị Ân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục Mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/TT – BGDĐT ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
2. Ngạn ngữ Đức.
3. Danh ngơn Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn lọc theo chủ đề.
4. Danh ngôn Việt Nam.
5. Điều lệ trường Mầm non.
6. Tâm lý học trẻ em – Nguyễn Ánh Tuyết – NXB Đại học sư phạm
7. Giáo trình tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non - Nguyễn Bích Thủy NXB Hà Nội 2005.
8. Giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội – Đặng Lan Phương - vụ
GDMN.
9. Lý luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với MTXQ – Hoàng
Thị Phương – NXB Đại học sư phạm.
10. Tham khảo tài liệu, sách, báo, internet.