Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG m ôn NGỮ văn BẰNG PHƯƠNG PHÁP sử DỤNG bản đồ tư DUY TRONG dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.78 KB, 16 trang )

SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY- HỌC MÔN NGỮ VĂN THCS

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm thức
dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong các môn
học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và học sinh, điều
này đã tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức
thì vơ cùng; mơn học thì q tải mà sức học của học sinh có hạn. Trong giờ giảng
Ngữ văn, vấn đề khơng chỉ là ngơn ngữ, lời bình của người thầy mà còn đòi hỏi
phương pháp dạy học của người thầy.
Phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự
thành công trong giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản
đồ tư duy) là một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương
pháp dạy học bằng BĐTD không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến
thức, đơn giản hóa kiến thức của mơn học mà nó cịn giúp học sinh có khả năng
nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn
Ngữ văn.

1


1.2. Mục đích nghiên cứu

Ngữ văn là mơn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Văn học dùng chất liệu
hiện thực kết hợp với nghệ thuật ngôn từ để phản ánh hiện thực, thể hiện tư tưởng,
tình cảm của tác giả. Vì vậy dạy học văn là khai thác nghệ thuật ngôn từ để làm rõ
nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả. Theo định hướng đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH) trong môn ngữ văn, khơng có sự hạ thấp vai trị của
giáo viên (GV) mà ngược lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ
học. Đây là phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển quá


trình thuyết giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò,
giữa học sinh (HS) và HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm
hiểu bài học của mình.
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, giáo viên có thể
vậndụng nhiều loại hình phương pháp khác nhau. Trong đó, xây dựng và sử dụng
bản đồ tư duy là một trong những phương pháp hữu hiệu mang lại thành cơng
cho thày và trị qua mỗi bài học…
Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy- học Ngữ văn THCS”

2


1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của cải cách giáo dục. Hiện nay vấn đề đổi mới PPDH nói chung cũng như
đổi mới PPDH Ngữ văn nói riêng đã được pháp chế hóa trong điều 28, Luật Giáo
dục: “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh (HS)”. Việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến
thức mà quan trọng hơn là dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự chiếm lĩnh
kiến thức.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới
việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích

cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động (PGS.TS
Vũ Hồng Tiến).

3


1.4. Phương pháp nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học có thể áp dụng cho
nhiều bộ môn trong nhà trường phổ thông, trong thuyết trình đề tài, đề án, cơng
trình nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu khoa học,
các nhà sáng chế...Đối với môn Ngữ Văn THCS( gồm 3 phân mơn: Văn, Tiếng
Việt, Tập làm văn) thì bản đồ tư duy giúp người dạy, người học xử lý tốt các văn
bản tự sự, nghị luận, các bài Tiếng Việt, tổng kết chương... Bản đồ tư duy giúp
cho các bài văn trở lên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc, các bài học trong
phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mang tính khái quát, hệ thống, khoa học,
logic...
Trong quá trình dạy Ngữ văn, nếu giáo viên (GV) xây dựng và sử dụng sơ
đồ tư duy một cách hợp lý và sáng tạo các bài dạy học; tổ chức cho HS tham gia
các hoạt động học tập tích cực và hứng thú hơn để các em tự chiếm lĩnh kiến thức
cho bản thân; giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ
bản từ đó vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập và các tình huống trong
cuộc sống... Mặt khác sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy còn giúp học sinh rèn
luyện, phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo
của học sinh không chỉ trong học tập môn Ngữ văn mà cịn trong các mơn học
khác và các vấn đề khác trong cuộc sống.

4


1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

* BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà
còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng
vẫn học kém, nhất là mơn tốn, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học
phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không
biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh
này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu
thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD
trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
* BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và
in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của mình vì
vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não.
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu
sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự
“sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của
từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác
phẩm” của mình.
5


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh.

Mặt khác nó cũng là mơn học thuộc nhóm cơng cụ, mơn văn cịn thể hiện rõ
mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học
tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các mơn học khác và ngược lại, các mơn học
khác cũng góp phần học tốt mơn Ngữ văn. Điều đó đặt ra u cầu tăng cường tính
thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức
phong phú, sinh động của cuộc sống.
Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện chí, hứng thú trong việc học
mơn Ngữ văn, chưa nắm được vai trị quan trọng của môn Ngữ văn đối với đời
sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Vì thế đổi mới phương pháp,
cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh đối với môn
Ngữ văn là rất cần thiết.

6


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà
một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ khơng cịn thích học văn. Thực
trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở
với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã trở thành
vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học
sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về
phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm
trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tơi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện
tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công
tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc
học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là
nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các
em cịn phải dành thời gian học các mơn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định

hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba mơn: Tốn, Lý,
Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có khơng ít phụ huynh đã chọn hướng cho con
thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh cịn đang được rèn nói,
viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối
A thì thật là nguy hại.
- Kỹ năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận
ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai,
bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt
ngô nghê, tối nghĩa ... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là
đáng báo động trong xã hội ta.
7


2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
Từ nhận thức ấy, trong q trình gi ảng dạy , tơi đã cố gắng tìm hiểu làm thế
nào để khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương
pháp học văn hiệu quả nhất. Nếu giải quyết được vấn đề này thì các em sẽ vững
vàng chủ động hơn khi bước vào những kì thi quan trọng.
Qua q trình giảng dạy, tơi đã nghiên cứu và áp dụng một số bản đồ tư duy
giúp học sinh chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não
một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở
rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu
rộng.
BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án, có thói quen tính
tốn tỉ mỉ trước khi bắt tay vào cơng việc. Nó cho người học một cái nhìn tổng thể,
cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó đang một dự án kinh doanh thì
đừng qn sử dụng BĐTD khi làm việc.
Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý
tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công. Khi ta bắt đầu cho

một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều việc một lúc. Có khi nào ta
nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp xếp công việc
theo một trật tự ngay từ đầu.
Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học
sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội
dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của
phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát động.
8


Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập,
tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời
gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm
được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học mơn Ngữ văn nói riêng, tơi thấy bước đầu
có những kết quả khả quan. Tơi đã nhận thức được vai trị tích cực của ứng dụng
BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài
mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu
bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng
BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức mơn học. Một số học sinh trung bình đã
biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ
văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu
quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
* Đối với hoạt động giáo dục

Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức
cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu
đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc
phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.

9


Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng
một cách rất rõ ràng. Đặc biệt là khả năng khái quát và hệ thống hóa kiến thức.
Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD
cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử
dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất
nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo
đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc
sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt
chẽ về những gì được học.
BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn
tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là cơng cụ học
tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hồn
tồn giải phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới,
đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài.
Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa… hoặc
để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lơgic, củng cố khắc
sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
* Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức
của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em
để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khố đó và hồn thiện BĐTD. Qua BĐTD

đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.

10


- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Mơn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và
tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mơ hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh
chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung,
kiến thức của bài học.
Để có thể hồn thiện được mơ hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ
thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính (Hồn
cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi
mở (các thầy xem voi trong hồn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ...) từ
đó rút ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái quát thành bài
học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng…
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
11


-

Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Mơn Ngữ văn lớp 6), đầu tiết học, giáo viên

có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học.
Giáo viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến thức
cần tìm về các phép tu từ đã học ở tiết học trước.

-

Ở tiết học So sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái

niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh.
-

Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về So sánh, Giáo viên lần lượt hồn thiện

BĐTD trên bảng thơng qua ngữ liệu mẫu SGK. Việc hồn thiện BĐTD phải có sự
phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên đưa ra các tình huống bằng hệ
thống câu hỏi phát hiện, gợi mở, khái quát…
-

Cùng với giáo viên, học sinh cũng lần lượt hoàn thành BĐTD vào vở ghi.

Để kiến thức bài học được chi tiết, dễ hiểu, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
tiếp tục trẻ nhỏ thêm các nhánh trên BĐTD.
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
12


Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống
kiến thức sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý
để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng
cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại
thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một
cách nhanh chóng, dễ dàng.

- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng
hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có về từ
loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại kiến thức
đã học vì vậy BĐTD sẽ giúp các em có cái nhìn tổng qt hơn về từ ngữ tiếng
Việt. Việc sử dụng BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân mơn
tiếng Việt nói riêng khơng chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp
củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ pháp ở lớp 9 được
coi là giờ thực hành. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hình
thức học tập. Với kiểu bài này, giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện
việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các
nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung thêm cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt
lại kiến thức.
Sơ đồ minh hoạ

13


Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống
câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho học sinh bằng
BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:
a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác...
b. Tác phẩm:
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ
Nôm gồm cả thơ và truyện)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên
gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn
được coi là tác phẩm văn học Việt Nam; tại sao Truyện Kiều được viết bằng những
câu thơ lục bát mà vẫn được coi là một tác phầm truyện…

+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước; gia biến và
lưu lạc. đồn tụ)
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá
trị nghệ thuật của truyện.
Sơ đồ minh hoạ

14


Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham khảo từ
đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap không dễ, tuy
nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt,
xương cá, mơ hình…Việc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ
gúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối với phân môn Tập làm văn
BĐTD hay sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược của một đề bài cụ thể.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tơi đã vận dụng có kết quả trong
một phạm vi hẹp. Có thể những điều này khơng là những điều mới mẻ với các
đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm nhưng với tơi đó là tất cả sự tâm đắc sau
những năm công tác giảng dạy .Và những điều tôi thực hiện trên đây cũng chỉ là
một việc nhỏ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học mơn Ngữ Văn. Rất mong
được sự đóng góp chân thành của các đồng nghiệp
3.2. Kiến nghị
Đối với các cấp quản lí giáo dục
Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng học kỳ,
từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm
ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng
giảng dạy mơn Ngữ văn.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên về chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên

có chất lượng cao, phương pháp dạy học tốt.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
15


Đông Sơn ngày 20 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam doan đây là SKKN của

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

mình,
khơng sao chép nội dung của người khác
Người viết

Phạm Thị Hồng Nhung

16



×