Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.58 KB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HỊA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HỊA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC TRƯỜNG

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
TG là một thực thể xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, trong quá
trình hình thành và phát triển, các TG đã ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn
hố, xã hội khác nhau trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do TG là một
trong những quyền tự nhiên của con người được pháp luật bảo vệ, đồng thời đó cũng
là một mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay.
Nước ta là một quốc gia có nhiều tơn giáo, với trên 20 triệu người theo các
tơn giáo khác nhau. Tín đồ các TG đa số là nhân dân lao động nên có tinh thần yêu
nước, có ý thức gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng, nhiều chức sắc
đã tích cực cùng khối đại đồn kết dân tộc, góp phần đấu tranh giành độc lập tự do
của dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân và
sự tác động nhiều mặt của tình hình thế giới, cũng như chiến lược “diễn biến hồ
bình” của các thế lực thù địch... càng làm cho các hoạt động TG, tín ngưỡng trở
nên đa dạng và phức tạp hơn, có một số ít TG đã bị kẻ xấu lơi kéo, kích động đi
ngược lại lợi ích của dân tộc và tổ quốc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ.
Trong các TG ở Việt Nam, PGHH là một TG nội sinh, ra đời ở tỉnh AG và
ảnh hưởng chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng sơng Cửu Long, có nhiều đặc điểm
mang đậm tính văn hóa, tính cách của người dân Nam bộ. Dưới thời kỳ Việt Nam
bị đế quốc xâm chiếm, PGHH với giáo lý dễ hiểu, lễ nghi đơn giản dễ thực hành,
tỏ ra rất phù hợp với tâm lý của người dân vốn có trình độ văn hóa khơng cao, nên
đã nhanh chóng được đơng đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận, không ngừng tăng
nhanh. Tuy nhiên, PGHH, cũng như các TG khác, đã bị chính trị hóa, bị các thế
lực thù địch lợi dụng, chi phối nhằm thực hiện các hoạt động chống phá cách
mạng. Mặt khác, nội bộ PGHH cũng nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ sâu sắc.
Năm 1999, PGHH được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, sự kiện này
đã kịp thời động viên tinh thần, đáp ứng u cầu, nguyện vọng chính đáng của

đơng đảo quần chúng có đạo. Từ khi được cơng nhận tư cách pháp nhân đến nay,

1


với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, tín đồ PGHH ln phát huy
tinh thần đại đồn kết dân tộc, tích cực phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, làm tốt cơng tác từ thiện nhân đạo,… đóng góp nhất định, thiết thực vào
cơng cuộc xây dựng, phát triển quê hương đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, tu hành theo phương châm “Vì đạo pháp, vì dân tộc”.
Tuy nhiên, ở một vài địa điểm vẫn cịn một số tín đồ PGHH tham gia sinh
hoạt, hoạt động TG chưa đúng tinh thần “Vì dân tộc”, chưa “Tuỳ tài, tuỳ sức, nỗ
lực hy sinh cho xứ sở” như lời dạy của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Trên thực tế, vẫn
còn nhiều vụ án, vụ việc liên quan đến PGHH gây khơng ít khó khăn trong cơng
tác quản lý nhà nước của chính quyền, trong đó có một số đối tượng cực đoan ở
An Phú gây mất an ninh trật tự trong nhiều năm qua. Các vấn đề như xây dựng cơ
sở thờ tự không phép; xin lại, đòi lại, phục hồi lại cơ sở thờ tự; lợi dụng hoạt động
từ thiện xã hội chính quyền chưa kiểm sốt được,… địi hỏi phải được giải quyết
từ phương diện quản lý nhà nước đối với hoạt động của Giáo hội PGHH.
AG là tỉnh có đơng tín đồ PGHH và cũng là nơi ra đời của đạo PGHH, nên các
chính sách liên quan đến PGHH lại càng được xem trọng. Bên cạnh những thành
quả đã đạt được thì quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế nhất định. Với mong muốn đánh giá khách quan và trung thực kết quả cũng
như quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh nên tơi chọn đề tài:
“Thực hiện chính sách tơn giáo đối với Phật giáo Hịa Hảo trên địa bàn tỉnh AG”
làm luận văn thạc sĩ cho chuyên ngành CSC của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như chúng ta đã biết TG và CSTG là một trong những vấn đề được Đảng và
Nhà nước đặc biệt coi trọng và đây cũng là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, từ trước tới nay đã có nhiều tài

liệu và cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến TG, công tác quản lý nhà
nước về TG, chính sách về TG ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Để
làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu, trong phần tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề
tài, chúng tôi xin điểm qua các tài liệu và cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài theo 2 nhóm chính như sau:

2


2.1. Nhóm những cơng trình nghiên cứu liên quan đến TG và chính sách TG
Từ trước tới nay đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề TG và CSTG. Song trong luận văn này, chúng tơi chỉ điểm qua một số cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Năm 2005, trong cuốn Một số TG ở Việt Nam tác giả Nguyễn Thanh Xuân đã
đề cập đến các TG lớn ở Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài,
PGHH, Hồi Giáo. Riêng về PGHH, tác giả đã dành nhiều trang nói về q trình hình
thành và phát triển; về giáo lý, giáo luật; về sự phân hóa nội bộ dẫn đến sự thành các
phái khác nhau và hoạt động liên quan đến lĩnh vực chính trị của TG này.
Năm 2006, trong cuốn TG và chính sách TG ở Việt Nam của Ban Tơn giáo
Chính phủ đã trình bày khái quát về quá trình hình thành các TG ở Việt Nam, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, TG, kết quả
việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín
ngưỡng, TG.
Năm 2009, trong cuốn Tơn giáo - Quan điểm, chính sách đối với tơn giáo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Đức Lữ đã trình bày
một cách hệ thống về quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về TG; nhận thức, quan điểm của Đảng về TG từ năm 1930 đến năm 1986; nhận
thức, quan điểm và chính sách đối với TG của Đảng và Nhà Nước ta trong thời kỳ
đổi mới và đặc biệt là trong chương cuối của cuốn sách, tác giả đã tập trung trình
bày về cơng tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo của Nhà nước Việt Nam hiện

nay.
Năm 2011, trong cuốn Tìm hiểu về Tơn giáo và chính sách đối với Tơn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Đức Lữ, tác giả đã
nhìn nhận CSTG là “phương tiện, cơng cụ” của quản lý Nhà nước đối với hoạt
động TG.
Năm 2016, trong cuốn kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chính sách, pháp luật về
Tơn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh do Nxb Lý luận Chính trị xuất bản. Cuốn sách là kết quả của
cuộc hội thảo lớn do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức nhằm đánh

3


giá, làm rõ thành tựu và hạn chế của chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG của
nước ta từ 1990 đến nay. Trong đó có nhiều bài viết đề cập đến quá trình phát
triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề TG và công tác TG;
chủ nghĩa xã hội và TG ở Việt Nam; nhà nước pháp quyền và TG; quyền tự do tín
ngưỡng, TG trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; chính sách
pháp luật của Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, TG ở Việt Nam hiện nay;
những điểm mới trong dự thảo Luật tín ngưỡng, TG; vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong việc phản biện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng; phát huy
nguồn lực - sức mạnh mềm của các TG trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
Năm 2017, để đáp ứng nhu cầu của công tác TG và công tác quản lý TG Nhà
nước đối với TG cũng như nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của đồng bào theo TG và
những người quan tâm đến các vấn đề về TG, Ban Tơn giáo Chính phủ đã xuất
bản cuốn Tài liệu giới thiệu luật tín ngưỡng, tơn giáo. Tài liệu đã trích dẫn đầy đủ
nội dung của Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 được Quốc hội thông
qua ngày 18/11/2016 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 01/12/2016. Ngồi
ra, cuốn tài liệu này cũng phân tích sâu về sự cần thiết phải ban hành luật tín
ngưỡng, tơn giáo, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng luật, những điểm mới cơ

bản của Luật tín ngưỡng, tơn giáo.
Đặc biệt là năm 2019, trong cuốn giáo trình Tơn giáo và tín ngưỡng của Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Đỗ Lan Hiền chủ biên đã cập nhật,
bổ sung một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đời sống TG trên thế giới và ở Việt
Nam hiện nay, nhất là nhưng nội dung về TG được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Nghị định của Chính phủ về TG và cơng tác TG những năm qua.
Gần đây nhất là năm 2020 trong cuốn Quản lý Nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay do tác giả Hà Ngọc Anh chủ biên đã tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam;
phân tích thực tiễn quản lý Nhà Nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam và đặc
biệt là tác giả đã giành trọn vẹn một chương sách để trình bày các quan điểm,

4


phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý Nhà Nước đối với hoạt
động TG ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tóm lại, tuy những cơng trình nghiên cứu trên khơng đi sâu nghiên cứu về
PGHH nhưng đó là những kiến thức nền tảng cung cấp cho chúng tôi một bức
tranh khái quát về công tác TG và CSTG, góp phần định hướng cơ sở lý luận và
đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề nghiên cứu của luận văn.
2.2. Nhóm những cơng trình nghiên cứu liên quan đến PGHH và chính
sách TG đối với PGHH.
PGHH là đề tài luôn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học và quản lý. Do vậy từ trước tới nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu từ sách,
các đề tài, các luận án, luận văn. Điển hình như:
Về sách,
Trước năm 1975, người ta biết đến PGHH thông qua một số tác giả trong
giới lý luận của Hoà Hảo như: “Nguyễn Văn Hầu với các tác phẩm: “Nhận thức

Phật giáo Hoà Hảo”, “Năm cuộc đối thoại về Phật giáo Hoà Hảo”, “Thất Sơn
mầu nhiệm”, “Muốn về cõi Phật”,…các tác phẩm này nhằm giới thiệu cho người
đọc hiểu khái lược về giáo lý, giáo luật, lễ nghi và việc “Tu Nhân - Học Phật”
của Phật giáo Hoà Hảo.
Sau năm 1975, hoạt động nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo đạt được nhiều
kết quả khá quan trọng như cơng trình: “Một số Tơn giáo ở Việt Nam” của Ban
Tơn giáo Chính phủ (1993).
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và Tôn giáo bản địa, Nxb TG, Hà
Nội. Cuốn sách này vốn là kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học cấp Nhà
nước, chỉ giới hạn ở việc khảo sát và kiến giải về đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ
Hương và PGHH từ góc độ tâm lý. Tác giả đã dành một số trang nói về PGHH,
song cũng chỉ là những miêu tả tóm tắt về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, khảo sát
không nhiều về ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần ở Đồng bằng sông Cửu
Long.

5


Đồn Nơ (2007), PGHH ở Miền Tây Nam bộ, Nxb Văn hóa Sài Gịn. Cơng
trình này bàn về lịch sử hình thành, phát triển của PGHH và ảnh hưởng ở miền
Tây Nam bộ, còn ở An Giang tác giả hầu như chưa luận bàn.
Về đề tài nghiên cứu,
Năm 2001, Vụ Các Tơn giáo khác - Ban Tơn giáo Chính phủ có Báo cáo
tổng quan đề tài “Khảo sát thực trạng Phật giáo Hồ Hảo - kiến nghị và chủ
trương, chính sách”; Năm 2001, đề tài nhánh, “Thực trạng, xu hướng phát triển
PGHH ở nước ta hiện nay” thuộc đề tài cấp Nhà nước “Xu hướng phát triển Tôn
giáo ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với công tác lãnh đạo, quản
lý” do Ts. Nguyễn Thị Nga - Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và Tơn giáo
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đi
sâu, phân tích thực trạng chung của PGHH trong giai đoạn hiện nay, phân tích

những xu hướng vận động chủ yếu, trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý của Đảng và Nhà nước đối với TG này.
Năm 2012, đề tài khoa học Tổng kết lịch sử đấu tranh chống các thế lực thù
địch phản động lợi dụng PGHH (1975 - 2010) do Cục A88 - Bộ Cơng an chủ trì
thực hiện. Đề tài có nhiệm vụ: Khái quát lịch sử đấu tranh chống các thế lực phản
động lợi dụng PGHH và rút ra các bài học kinh nghiệm từ công tác này.
Viện Nghiên cứu khoa học - Bộ Cơng an có đề tài nghiên cứu về Phật giáo
Hoà Hảo ở cấp độ nghiệp vụ và kết quả nghiên cứu của cơng trình này nhận diện
rõ nét hơn về tính chính trị và tính TG của PGHH từ khi ra đời đến khi có Nghị
quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình
hình mới.
Về luận án,
Phạm Bích Hợp với luận án Đời sống xã hội và tâm lý nơng dân người Việt ở
làng Hồ Hảo tại AG trước và sau 1975 đã tổng quan về PGHH với tư cách là một
tổ chức TG (có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tín đồ), đời sống tâm lý của tín đồ
PGHH và người dân khơng có đạo ở làng Hịa Hảo.
Nguyễn Hồng Sa với Luận án Tiến sĩ “Đạo Hịa Hảo và ảnh hưởng của nó ở
Đồng bằng sông Cửu Long” đã tập trung làm rõ sự ra đời, nét đặc trưng và xu

6


hướng phát triển của TG Hòa Hảo ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nêu lên một số
giải pháp cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác TG trong vùng
Hòa Hảo trong giai đoạn cách mạng lúc đó.
Về luận văn,
Bùi Văn Hải với luận văn Thạc sĩ Triết học về công tác tôn giáo đối với Phật
giáo Hoà Hảo hiện nay đã phản ánh thực trạng PGHH, đề xuất chủ trương đối với
việc công nhận PGHH với tư cách là một tổ chức TG độc lập, quá trình thực hiện
chính sách đối với PGHH của các địa phương, dự báo xu hướng và đề xuất giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối với PGHH.
Nguyễn Hồng Điệp với luận văn Thạc sĩ ngành quan hệ xã hội về Công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay
đã làm rõ thực trạng của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật
giáo Hoà Hảo, luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay.
Bùi Thị Thu Hà với luận văn Thạc sĩ bàn về “Đảng bộ An Giang vận động
quần chúng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước
từ năm 1954-1975”.
Phan Bá Tài với khóa luận tốt nghiệp đại học về Phật giáo Hoà Hảo ở Đồng
Tháp thực trạng và chính sách.
Nhìn lại các cơng trình nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy vấn đề PGHH
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay
vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun biệt nào đi sâu phân tích, đánh giá
việc thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang dưới góc độ của
chuyên ngành CSC. Do đó, đề tài nghiên cứu sẽ là một hướng tiếp cận mới, tác giả
hy vọng cơng trình nghiên cứu này sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm.
Chúng tơi xem các cơng trình của những tác giả đi trước như một nguồn tư
liệu tham khảo quý giá và cần thiết, đồng thời kế thừa các thành tựu mà giới nghiên
cứu đã đóng góp để có những định hướng thiết thực, những giải pháp cụ thể cho
việc tiếp cận đề tài nghiên cứu của mình.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới hai mục đích chính đó là đánh giá thực trạng thực hiện
CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện CSTG đối với PGHH.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về CSTG đối với PGHH ở Việt
Nam hiện nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh
An Giang, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó.
Đề xuất, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách đối
với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện CSTG đối với PGHH từ
thực tiễn tại An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về CSTG đối với PGHH trên địa
bàn tỉnh An Giang.
Về không gian: Không gian nghiên cứu được xác định là vùng địa lý - hành
chính tỉnh An Giang, hoạt động thu thập dữ liệu sẽ được thực hiện chủ yếu ở huyện
Phú Tân nơi khai sáng đạo PGHH và là nơi có đơng tín đồ PGHH.
Về thời gian: Các số liệu thu thập để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực
trạng sẽ được lấy từ năm 2015 - 2020. Dựa trên cơ sở thực trạng, luận văn sẽ đưa ra
hệ thống các giải pháp có giá trị đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
- Nghiên cứu quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về TG và cơng tác TG.

8


- Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
nhà nước về TG và việc thực hiện CSTG.

- Nghiên cứu các lý thuyết về CSC, về vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội
trong các quá trình CSC.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả
sử dụng những phương pháp như: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp nghiên cứu chun ngành chính
sách cơng và các phương pháp phân tích, tổng hợp từ các tài liệu liên quan đến
tơn giáo và chính sách tơn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm phong phú thêm những vấn đề lý luận có liên quan đến TG và
CSTG, góp phần làm rõ những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các
CSTG mà cụ thể là các chính sách liên quan đến PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, căn cứ trên kết quả đánh giá thực trạng việc thực hiện CSTG
đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang, luận văn sẽ đưa ra hệ thống giải pháp
phù hợp có thể áp dụng trong công tác quản lý nhà nước về TG đối với PGHH trên
địa bàn tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn có kết cấu chủ yếu gồm có 3 chương và 10 tiết.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm TG
TG, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền của cái tột cùng, như
sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ

giữa con người và thần thánh; giữa thế giới vơ hình với thế giới hữu hình; giữa cái
linh thiêng với cái trần tục. Trong tiếng anh, TG là religion, có nghĩa là sự tồn tại
của một quyền lực bên ngoài mà con người phải tuân theo; cảm giác mộ đạo và tuân
theo quyền lực đó. Theo tiếng Hy Lạp thì TG là regere - ràng buộc hay mối liên hệ
giữa con người và thần linh.
Theo từ điển tiếng việt: “TG là một hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào
lịng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [50, tr.239],
Tại điều 2, Luật tín ngưỡng, tơn giáo có ghi rõ: TG là niềm tin của con người
tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về TG, nhưng chúng ta có thể hiểu TG theo
định nghĩa như sau: TG là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, vơ
hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại
một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên
kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử,
hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng TG, được vận
hành bằng những nghi lễ, giáo lý những hành vi TG khác nhau của từng cộng đồng
xã hội TG khác nhau.
1.1.2 Khái niệm chính sách TG
CSTG là chính sách đặc thù của Nhà nước ta. Từ trước tới nay đã có nhiều
quan niệm hay cách tiếp cận khác nhau về CSTG, trong phạm vi của luận văn này,
chúng tôi xin điểm qua một số quan niệm cũng như cách hiểu về CSTG như sau:
Theo tác giả Nguyễn Đức Lữ, CSTG là "phương tiện, công cụ" của quản lý

10


nhà nước đối với hoạt động TG, trong đó quản lý nhà nước với hoạt động TG được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp

luật để tác động, điều chỉnh hướng các quy trình TG và hành vi hoạt động TG của
tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản
lý. Theo nghĩa hẹp, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều
chỉnh các quá trình TG và mọi hành vi hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn
ra theo quy định của pháp luật [28, tr.103, tr.270 - 271].
Tác giả Hà Ngọc Anh cho rằng: Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành
động về phương diện nào đó của Chính phủ, bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ
muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Chính sách đối với hoạt
động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về nguyên tắc cho những hoạt
động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân của Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất cứ công dân
Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt tôn giáo [1, tr. 33].
Tác giả Nguyễn Văn Thanh thì nêu quan điểm về CSTG theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Cụ thể là, theo nghĩa rộng: CSTG ở Việt Nam là tổng thể các quy định,
quy tắc xử sự chung, các biện pháp trên các lĩnh vực do Đảng, Nhà nước ban hành
nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, TG, đồn kết tồn dân tộc, làm cho đồng
bào có đạo được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động TG được
quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế. Cịn theo nghĩa hẹp thì: CSTG của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là tổng thể những quy phạm pháp luật, các chương trình hành động, các biện
pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền tự
do tín ngưỡng, TG, đồn kết tồn dân tộc, làm cho đồng bào có tín ngưỡng, TG
được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động tín ngưỡng, TG được
quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế.

11



Tác giả Trương Ngọc Tuấn cho rằng: CSTG là CSC về lĩnh vực xã hội, được
biểu hiện bằng hệ thống các hành vi mà nhà nước ứng xử (làm hoặc không làm) với
TG, nhằm bảo vệ quyền và những lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người trong
hoạt động tín ngưỡng, [39, tr. 80].
Trong phạm vi của luận văn này, CSTG được hiểu là những quy phạm pháp
luật, các chương trình hành động, các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
của Nhà nước nhằm tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình TG và hành vi
hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp theo quy định của pháp luật,
nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước.
1.1.3 Khái niệm thực hiện chính sách TG
Thực hiện chính sách là một khâu quan trọng, là tồn bộ q trình chuyển hóa
ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu nhất định. Thực hiện chính sách nói chung, CSTG nói riêng là khâu, là
bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách, có nhiệm vụ hiện thực hóa
chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống.
CSTG ở Việt Nam chủ yếu thực hiện nguyên tắc, đường lối, quan điểm của
Đảng ta và nguyên tắc Hiến định: Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, TG; có
quyền theo hay khơng theo tín ngưỡng, TG. Vì vậy, việc thực hiện CSTG của Việt
Nam phải đảm bảo và bảo hộ quyền tự do TG, tín ngưỡng của mọi người; phải bình
đẳng trước pháp luật giữa người theo TG và khơng theo TG; Đồng bào các TG là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào có TG với
đồng bào khơng theo TG xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trong quá trình thực hiện
CSTG cần phải chú ý đến những đặc điểm của CSTG riêng của Việt Nam như:
CSTG của Việt Nam chịu sự tác động, chi phối bởi các điều kiện kinh tế - văn hóa xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của Việt Nam; Đối tượng thụ hưởng
CSTG là đồng bào có đạo, là những nhóm xã hội đặc thù, liên kết với nhau trên cơ
sở niềm tin TG; Việc thực hiện CSTG của Việt Nam cũng phải vừa có tính phổ
qt, hội nhập, tương thích với các quy tắc, thông lệ chung của thế giới, vừa phải có
những quy định, quy tắc riêng mang tính dân tộc. Có chính sách ban hành áp dụng
chung đối với tất cả các TG, có chính sách áp dụng đối với một TG cụ thể, có loại


12


chính sách khơng áp dụng đối với các tổ chức và cơ sở TG; Việc thực hiện chính
sách phải chịu sự tác động, chi phối bởi đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta,
trong đó cơng tác TG được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc các cơ quan lãnh đạo của Đảng (Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) ban hành các chủ trương, đường lối, nghị
quyết, kết luận, thông báo... về TG và CSTG để các cơ quan Nhà nước thể chế hóa
thành pháp luật, nhiều văn bản của Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng hoặc những tổ
chức đảng được cấp có thẩm quyền ủy quyền có thể chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp giải quyết trực tiếp vấn đề TG
ở Trung ương, địa phương; có chính sách, văn bản chính sách mang tính nội bộ,
khơng phổ biến rộng hoặc ở chế độ Mật với các cấp độ khác nhau; Quá trình thực
hiện CSTG của Việt Nam phải có sự kế thừa những truyền thống lịch sử tốt đẹp của
cha ông, phát huy vai trò, tư tưởng và các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
TG, tín ngưỡng trong xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam nhân nghĩa, khoan dung.
1.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với TG
1.2.1 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về TG
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thực hiện các chính sách TG
được Đảng khẳng định trên rất nhiều văn bản, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề
về TG và công tác TG; văn kiện các Đại hội Đảng, từ khóa VI đến nay.
Trong các Nghị quyết chuyên đề, trước hết phải kể đến Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị về tăng cường cơng tác TG trong tình
hình mới. Tại Nghị quyết này, nhiều quan điểm về TG và chỉ đạo công tác TG của
Đảng lần đầu tiên được đưa ra với nhiều nội dung đổi mới và mang tính “đột phá”.
Đó là các quan điểm: TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và là vấn
đề còn tồn tại lâu dài; đạo đức TG có nhiều điểm phù hợp với cơng cuộc xây dựng
xã hội mới, nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng và

kiên quyết đấu tranh chống các thế lực phản động và lợi dụng TG chống phá cách
mạng.

13


Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng về TG và công tác TG đã chuyển từ
nhận thức TG là chính trị, là nhạy cảm, tiêu cực, là địch lợi dụng TG sang TG là
nhu cầu của nhân dân, là lực lượng quần chúng của Đảng và TG có những giá trị
tích cực. Nhận thức của Đảng về TG như vậy là khách quan và toàn diện hơn so với
trước đây.
Đến Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về cơng tác TG, Đảng ta một lần nữa lại thể hiện sự khẳng định nhất
quán cao độ với quan điểm: hoạt động TG và cơng tác TG phải nhằm tăng cường
đồn kết đồng bào các TG trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết số 25-NQ/TW còn đi sâu,
nhấn mạnh 5 quan điểm chính sách đối với TG, đó là:
- Tín ngưỡng, TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các TG là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng.
- Công tác TG là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
- Vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Các quan điểm trên địi hỏi cơng tác TG phải ln qn triệt từ nhận thức đến
thực tiễn. Đó cũng là cơ sở trực tiếp để Đảng, Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương,
chính sách cụ thể đối với TG nói chung và đối với các hình thức TG cụ thể nói
riêng.

Có thể thấy từ những văn kiện Đại hội Đảng các khóa, Đảng ta đã đưa ra các
quan điểm nhận thức về TG và định hướng chính sách, pháp luật đối với TG mang
tầm chiến lược.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó vấn
đề TG và cơng tác TG được Đảng khẳng định trên một số quan điểm định hướng có
ý nghĩa căn cốt đối với chính sách, pháp luật về TG. Đó là: Lãnh đạo và giúp đỡ

14


đồng bào theo TG đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ
Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế
quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào khơng có đạo, giữa đồng
bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác.
Trên cơ sở đó, đến các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI và XII, các quan
điểm định hướng của Đại hội VI tiếp tục được Đảng ta khẳng định với sự mở rộng,
làm sâu sắc hơn và đặc biệt là đã nhấn mạnh tới quan điểm “phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức của các TG và đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Về nội dung này, Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hồn
thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các TG. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức TG sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức TG đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, TG để chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc hoặc những hoạt động
tín ngưỡng, TG trái quy định của pháp luật” [46, tr. 165].
Chính sách đối với TG của Đảng và Nhà nước ta một mặt được xây dựng dựa
trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vể vấn
đề tín ngưỡng, TG; mặt khác, căn cứ vào tình hình quốc tế, đặc điểm tín ngưỡng,
TG ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, tư

tưởng nhất quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân, đồn kết TG, hoà hợp dân tộc. Mặt khác, mọi người - kể cả
có hay khơng có tín ngưỡng cũng như có tín ngưỡng, TG khác nhau - cần đề cao
cảnh giác chống mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng TG chống phá cách mạng.
Chính sách đối với hoạt động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về
nguyên tắc cho những hoạt động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt
động tự do trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân
của Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp
luật đối với bất cứ công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt TG
nào.

15


Thể chế hóa quan điểm, chính sách đối với TG của Đảng, năm 2004, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, TG và sau đó, Chính phủ
ra Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, sau đó thay thế bằng Nghị định số 92/2012/NĐCP ngày 08-11-2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tơn giáo. Tiếp đó, đến ngày 18-11-2016, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, khóa XIV, kỳ họp thứ 2, đã thơng qua Luật tín ngưỡng, tơn giáo. Luật
này đã quy định những nội dung cụ thể của chính sách đối với tín ngưỡng, TG tại
Hiến pháp năm 2013 và đồng thời làm cơ sở trực tiếp cho cơng tác quản lý nhà
nước về tín ngưỡng, TG.
1.2.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của tỉnh An Giang về TG.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản chỉ đạo, triển
khai thực hiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, TG như: Nghị quyết số 25NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về cơng
tác tơn giáo; Luật tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP
ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn
giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2017 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tơn giáo…
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh An Giang đã xây dựng và ban hành các văn bản

nhằm thể chế hóa và hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn
giáo như Quyết định số 43/2006/QĐ-UBND ngày 13/11/2006 quy định thẩm quyền
của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo;
Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND ngày 18/3/2013 về việc ban hành quy định thẩm
quyền của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 196/KH-UBND ngày 11/4/2017 của UBND tỉnh về
việc triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tơn giáo.
Song song với việc ban hành các văn bản chỉ đạo, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ
tỉnh An Giang và chính quyền các địa phương thường xuyên tổ chức các khóa tập
huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, TG với nhiều hoạt động đa
dạng (lồng ghép với các buổi báo cáo tại các lớp bồi dưỡng giáo lý do các tổ chức
TG, các cuộc họp, hội nghị thường niên của các tổ chức TG…). Việc phổ biến pháp

16


luật về tín ngưỡng, TG đã nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của chức
sắc, chức việc, tín đồ các TG; tạo sự đồng thuận, niềm tin của chức sắc, chức việc,
tín đồ các TG vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Để thực hiện có hiệu quả cơng tác TG của tỉnh, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh
An Giang đã tích cực, chủ động tham mưu và thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo
công tác TG tỉnh đối với những vấn đề nổi cộm, nảy sinh liên quan đến tín ngưỡng,
TG trên địa bàn thơng qua các phiên họp định kỳ hoặc đột xuất.
Các ngành liên quan và Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang đã có sự phối
hợp chặt chẽ trong việc xem xét cho phép thành lập cơ sở TG, tổ chức TG cơ sở
trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với Sở Tài ngun và Mơi trường, chính quyền cấp
huyện thu hồi, giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở
TG… Phối hợp với Sở Ngoại vụ và các địa phương về các đồn cơng tác của Đại sứ
quán, Tổng lãnh sự các nước… đến thăm và làm việc tại AG. Trong đó có, Lãnh sự

quán Mỹ, Đại sứ quán Pháp, Đài phát thanh BBC, các đồn sinh viên Mỹ, đồn
phóng viên của các nước In-đơ-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… đến tìm hiểu và nghiên cứu
về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của một số tơn giáo, trong đó có Phật giáo Hịa
Hảo.
Đối với người nước ngồi sinh hoạt TG tại AG, tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người nước ngồi sinh hoạt tín ngưỡng, TG theo đúng quy định của pháp luật
Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, dễ bị các thế lực chống phá lợi dụng để
xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, các ngành chức năng của tỉnh và
chính quyền địa phương đã chủ động tạo điều kiện mở rộng đối ngoại TG trên
nguyên tắc tôn trọng, phù hợp với pháp luật mỗi bên và thông lệ quốc tế.
UBND tỉnh cũng tạo điều kiện cho các chức sắc, chức việc, tín đồ Hồi giáo
Islam đi hành hương Mecca theo nguồn tài trợ hằng năm của Tổng lãnh sự quán các
nước Hồi giáo…
Với sự nỗ lực, cố gắng của Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang và chính
quyền các cấp, tình hình hoạt động của các tổ chức TG trên địa bàn những năm gần
đây khá ổn định. Hằng năm các tổ chức TG đều đăng ký sinh hoạt, lễ hội TG với

17


chính quyền địa phương; các thủ tục liên quan đến thành lập, chia tách, sáp nhập
các tổ chức TG đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi.
Là địa phương có đơng chức sắc, nhà tu hành nên UBND tỉnh đã chủ động ban
hành các quy định hướng dẫn hoạt động phong phẩm, phong chức, bầu cử, suy cử,
cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành, vì vậy, việc quản lý khá
thuận lợi, được các TG ủng hộ. Tính từ năm 2015 đến nay, chính quyền các cấp trong
tỉnh đã tạo điều kiện cho việc thuyên chuyển công tác cho chức sắc trên địa bàn gần
300 trường hợp, chấp thuận việc phong phẩm, bổ nhiệm gần 400 trường hợp.
Tỉnh cũng tạo điều kiện cho các tổ chức TG mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng
những người chuyên hoạt động TG, bao gồm: thuyết giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý

căn bản, lớp đạo sự hành chính, bồi dưỡng trụ trì… cho các chức sắc, chức việc.
UBND tỉnh cũng tạo điều kiện cho các TG cử các tu sỹ, tăng, ni trẻ tham dự các
khóa đào tạo TG tại các trường của các tổ chức TG như: Học viện Phật giáo, Viện
Thánh kinh Thần học, Đại Chủng viện…, kể cả đi đào tạo ở nước ngồi thơng qua
con đường nhận tài trợ để nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế như sau:
- Việc quy định về phân cấp thẩm quyền chưa gắn với trách nhiệm và các chế
tài xử lý. Chẳng hạn, cấp phép xây mới, cải tạo lại, nâng cấp các cơng trình kiến
trúc tín ngưỡng, TG vẫn chưa phân cấp cho Sở Xây dựng và UBND cấp huyện;
công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn thuộc thẩm quyền của UBND
tỉnh; quản lý cơng trình kiến trúc TG được cơng nhận di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh chưa phân cấp cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch… Quy định về phân cấp
thẩm quyền chưa gắn với trách nhiệm và các chế tài xử lý vì hiện nay khơng có chế
tài xử phạt hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, TG.
- Việc áp dụng pháp luật trong quản lý hoạt động TG của cơ quan có thẩm
quyền chưa thống nhất. Tình trạng xây dựng cơ sở thờ tự khơng xin cấp phép vẫn
diễn ra, chưa có biện pháp chế tài, chỉ lập biên bản. Một số tu sĩ đi nước ngoài với
lý do du lịch, thăm thân nhân, chữa bệnh… nhưng thực chất là hoạt động TG, hiện
chưa được kiểm soát chặt chẽ.
1.3 Bối cảnh và điều kiện ra đời của Phật giáo Hòa Hảo

18


Về vị trí địa lý: Là nơi giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, làng Hoà Hảo
là một địa danh mới được hình thành từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Từ xa
xưa, nơi đây cùng với vùng núi Thất Sơn hợp thành "Châu Đốc Tân Cương" được
coi là nơi biên viễn xa xôi hiểm trở của miền Tây Nam Bộ. Làng Hoà Hảo - nơi
sinh ra và là trung tâm Phật giáo Hoà Hảo thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc
trước đây, ngày nay thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Về kinh tế: Đầu những năm 1930, bắt nguồn từ chính sách “đại khai thác”
của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Việt Nam bước vào cuộc
khủng hoảng kinh tế nặng nề và kéo dài, cuộc sống nhân dân đói khổ cùng cực.
Nam bộ, nhất là đồng bằng sông Cửu Long là trọng điểm cho chúng vơ vét, bóc
lột nhân dân đến mức kiệt quệ; thiên tai, dịch bệnh, nạn đói hồnh hành… càng
làm tăng thêm nỗi thống khổ của nhân dân lao động. Làng Hịa Hỏa cũng trong
tình trạng chung đó, song có lẽ là vùng xa xôi nên ở đây không bị ảnh hưởng quá
nặng nề. Như nhiều vùng khác của miền Tây Nam bộ, làng Hòa Hảo vốn là một
làng thuần nông. Tuy nhiên, do đất chật, người đông, ở đây dần hình thành một
vùng dân cư sầm uất.
Về chính trị - xã hội: Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp - Nhật
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau ở Việt Nam, làm cho tình hình nước Việt Nam
thuộc địa vốn đã căng thẳng lại càng căng thẳng thêm. Trong khi đó, Nhà nước
phong kiến Việt Nam và hệ tư tưởng của nó đang suy tàn, thì sự phản động của
Nhà nước bảo hộ và bản chất kẻ xâm lược ngày càng lộ rõ. Hệ tư tưởng tư sản đã
tỏ ra bất lực, một số trí thức yêu nước vốn là học trò cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu cũng thực sự tỏ ra bế tắc về đường lối. Niềm hy vọng và chỗ dựa vững chắc
của nhân dân lao động lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản. Song, vào thời kỳ này thực
dân Pháp và triều đình Huế tích cực đàn áp nên các hoạt động bị hạn chế, phong
trào u nước tạm thời đi vào thối trào.
Trong hồn cảnh đó, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân phong kiến
tay sai càng trở nên sâu sắc. Khi các phong trào cách mạng bị đàn áp và chịu tổn
thất nặng nề thì một bộ phận quần chúng, trong đó phần lớn là nơng dân mất

19


phương hướng, khủng hoảng niềm tin, cộng thêm trình độ dân trí thấp kém, đời
sống cùng cực, quần chúng đã tìm đến tín ngưỡng, tơn giáo, cầu mong có được
chỗ dựa tinh thần. Trong bối cảnh khủng hoảng đó quần chúng nảy sinh nhu cầu

khao khát tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần. Vì vậy, khi ơng Huỳnh Phú Sổ
đứng ra khai đạo thì những người nơng dân vốn thuần phác nơi miền Tây Nam bộ
xa xôi đã nhanh chóng tìm đến, tự nguyện làm tín đồ.
Về tiền đề tư tưởng: Sự suy thối của các tín ngưỡng, tơn giáo đương thời ở
Nam bộ. Trước hết là sự suy vi của Phật giáo Bắc tông truyền thống kéo dài từ
mấy thế kỷ trước nhưng đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX càng thêm trầm
trọng; thứ đến là Nho giáo - chỗ dựa của chế độ phong kiến tỏ ra khơng thích hợp
với thay đổi về kinh tế, văn hố, xã hội của Nam bộ. Cịn các tơn giáo khác mới du
nhập như Công giáo và Tin lành cũng khơng phát triển được vì một mặt gắn với
thực dân đế quốc, mặt khác nó khác lạ về văn hố, lối sống.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đặc biệt là sự mở rộng và củng cố lãnh
thổ phía nam Tổ quốc, các tộc người Chăm, Hoa, Khơme đã cùng người Việt khai
hoang lập ấp. Chính trong q trình chung sống và hợp tác của các tộc người này
đã sớm hình thành mối quan hệ gắn bó trong các lĩnh vực khác nhau, hình thành
những nét đặc trưng văn hoá của một vùng vừa phong phú về nội dung vừa đa
dạng về hình thức. Đây cịn là nơi có nhiều tôn giáo: Hồi giáo, Công giáo, Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài; sự du nhập các yếu tố văn hố bên
ngồi làm nảy sinh q trình hỗn dung văn hố (những tơn giáo mang sắc thái địa
phương có tính hỗn hợp bởi giáo lý được lấy từ nhiều tôn giáo khác nhau). Trong
bối cảnh như vậy, những yếu tố thiên nhiên đa dạng, phức tạp, trình độ dân trí có
hạn được giải thích một cách huyền bí cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện
nhiều đạo mang tính cứu thế suốt thế kỷ XIX và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX với hai địa điểm là miền Thất Sơn và núi Bà Đen (đạo Nằm, đạo Ngồi,
đạo Chuối, đạo Dừa, Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa…), những đạo này đã
có ảnh hưởng nhất định đến sự xuất hiện hai tôn giáo bản địa là đạo Cao Đài và
Phật giáo Hoà Hảo.

20



Những năm 30 của thế kỷ XX. Ở Việt Nam xuất hiện “phong trào chấn
hưng Phật giáo”. Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX không phải
chỉ có mục tiêu là chấn chỉnh tổ chức, chấn chỉnh tín ngưỡng Phật giáo, làm cho
nó thích hợp với xã hội đương thời, mà còn để nâng cao nhận thức đối với giáo lý,
nâng cao tư duy lý luận của Phật tử, nâng cao sự hiểu biết của con người lúc bấy
giờ đối với Phật giáo.Thông qua phong trào này, Phật giáo Việt Nam có sự phát
triển mới về nội dung và mục đích hành đạo.
Kết quả của Phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX là một tiến bộ
lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Có ý nghĩa mở đường cho Phật
giáo canh tân, ảnh hưởng đến tư tưởng của các "Ông Đạo" ở Nam bộ, tạo điều
kiện cho các phái Phật giáo biến dạng ra đời. Ơng Đồn Minh Hun (1807-1856),
người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương đã có ảnh hưởng to lớn đến người sáng lập
cũng như đến toàn bộ nội dung của Phật giáo Hoà Hảo.
1.4 Các bước tổ chức thực hiện chính sách TG
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực thi CSTG là bước đầu tiên và rất quan
trọng, quyết định rất nhiều tới hiệu quả triển khai chính sách. Việc xây dựng kế
hoạch nếu chi tiết, chặt chẽ thì việc triển khai mới thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Trong bản kế hoạch triển khai thực thi CSTG phải có đầy đủ tên các cơ quan chủ trì
và phối hợp ở các cấp; nguồn kinh phí, trang thiết bị....phục vụ cho việc thực thi
CSTG; Thời gian, lộ trình thực hiện đối với từng CSTG cụ thể, các mốc thời gian
thực hiện chính sách đều được xây dựng căn cứ trên văn bản của Trung ương và địa
phương; các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát...
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Sau khi kế hoạch được phê duyệt thì các tổ chức và cá nhân được giao nhiệm
vụ phải tiến hành phổ biến, tuyên truyền CSTG tốt giúp cho người tham gia thực thi
hiểu rõ về mục đích, u cầu của chính sách. Cơng tác tuyên truyền phổ biến không
chỉ giúp cho người thực thi nắm rõ để thực hiện công tác TG mà còn giúp cho các
đồng bào TG nắm và tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước.
Công tác tuyên truyền, vận động thực thi CSTG cần được thực hiện thường


21


xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi hành, để mọi đối tượng tun
truyền ln đặt lịng tin vào chính sách và tích cực thực thi chính sách.
Bước 3: Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách
Chính sách về TG rất phong phú và đa dạng, liên quan trực tiếp và gián tiếp
tới nhiều đối tượng và đơn vị từ Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố và các huyện,
thị, xã, phường… Chính vì vậy để việc thực thi CSTG đạt hiệu quả thì nhất định
phải có sự phân cơng cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện.
Bước 4: Theo dõi, kiểm tra và đơn đốc thực hiện chính sách
Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện CSTG giúp cho nhà quản lý nắm chắc
được tình hình thực thi chính sách, từ đó đánh giá khách quan những điểm mạnh,
điểm yếu của cơng tác tổ chức thực thi chính sách. Ngồi ra việc theo dõi, kiểm tra
đơn đốc thực hiện chính sách cịn giúp các đối tượng thực thi chính sách biết được
những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hồn thiện chính sách, vừa chấn
chỉnh cơng tác tổ chức thực thi chính sách.
Bước 5: Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách
Đánh giá, tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá
trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành CSTG của các đối
tượng thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi
CSTG là các cơ quan nhà nước. Ngồi ra, cịn xem xét cả vai trị, chức năng của các
tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia thực thi CSTG. Đồng thời còn phải
xem xét, đánh giá việc thực thi CSTG của chính đối tượng hưởng lợi ích trực tiếp và
gián tiếp từ chính sách.
1.5 Sự cần thiết phải tăng cường thực hiện chính sách TG
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là đất nước có nhiều TG và ngày càng phát
triển về số lượng. Do tính đa dạng của các TG, tín ngưỡng nên đồng bào có đạo

cũng rất đa dạng về niềm tin và sinh hoạt TG. Để giúp cho đồng bào các TG được
tự do sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng quy định của pháp luật đồng thời phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản và quy định nhằm thực hiện nhất quán chính sách về TG.

22


×