Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Quyền của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.39 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THÀNH CƠNG

QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Thành Cơng
Lớp: Cao học luật, khố 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân. Mọi lý luận,
nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của
Giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo
độ tin cậy, khách quan và chính xác.
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thành Công


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS

Cơ quan tiến hành tố tụng

: CQTHTT

Người bào chữa

: NBC

Người tiến hành tố tụng

: NTTHS

Tố tụng hình sự


: TTHS

Tồ án nhân dân

: TAND

Viện kiểm sát nhân dân

: VKSND

Xã hội chủ nghĩa

: XHCN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO

CHỮA.................................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của ngƣời bào chữa...........8
1.1.1. Khái niệm người bào chữa và quyền của người bào chữa.................8
1.1.2. Đặc điểm quyền của người bào chữa...............................................13
1.1.3. Ý nghĩa quyền của người bào chữa..................................................15
1.2. Cơ sở quy định quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự....17
1.3. Kinh nghiệm lập pháp về quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng
hình sự Việt Nam..........................................................................................20
1.4. Kinh nghiệm lập pháp về quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình

sự của một số nƣớc.......................................................................................22

1.4.1. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hồ
nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)............................................................22
1.4.2. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của Cộng
hồ liên bang Đức......................................................................................25
1.4.3. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của Mỹ . 26

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................28
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN MỘT SỐ QUYỀN
CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA.............................................................................29
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về một
số quyền của ngƣời bào chữa......................................................................29
2.1.1. Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội.....................................................29
2.1.2. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi
cung bị can.................................................................................................32


2.1.3. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu..............35
2.2. Thực tiễn thực hiện một số quyền của ngƣời bào chữa.....................40
2.2.1. Kết quả thực hiện quyền của người bào chữa trong thời gian qua. .40
2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện quyền của người bào chữa và nguyên
nhân............................................................................................................ 49
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................54
CHƢƠNG 3. NHU CẦU VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA...................................................55
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của ngƣời bào chữa....55
3.1.1. Nhu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội................55
3.1.2. Nhu cầu bảo đảm tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự .. 56

3.1.3. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của người

bào chữa.....................................................................................................58
3.2. Biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện một số quyền của ngƣời bào
chữa................................................................................................................ 59
3.2.1. Biện pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự...............................59
3.2.2. Các biện pháp khác..........................................................................65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................70
KẾT LUẬN........................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người là vấn đề cơ bản, có giá trị phổ quát, được nhân loại
quan tâm nhất ở khía cạnh nhận thức, chính trị, pháp lý và thực tiễn đời sống, tư
pháp. Bởi lẽ, những vấn đề liên quan đến quyền con người có tính quốc tế chính
là sự bảo đảm tự do, phát triển, tơn trọng, là một trong những địi hỏi nền tảng
của trật tự pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia. Trong các văn
kiện pháp lý quốc tế và Hiến pháp, các đạo luật của các quốc gia thì giá trị về
quyền con người đã gắn liền với tiến trình phát triển các quan điểm chính trị
pháp lý. Quyền con người trong xã hội nói chung và quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự nói riêng, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam qua các thời
kỳ đều khẳng định tầm quan trọng của quyền bào chữa và những bảo đảm cho
quyền này được thực hiện. Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Quyền bào chữa của
bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”; Điều
16 BLTTHS năm 2015 ghi nhận “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa; Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị
hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của
họ theo quy định của Bộ luật này”. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ đầy

đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong TTHS và đảm bảo
nguyên tắc “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội Tồ án
1

đã có hiệu lực pháp luật…” . Đây cũng là nội dung liên quan đến chủ trương và
chiến lược của Đảng, được thể hiện trong Nghị quyết 08/NQ-TW, ngày
02/01/2012 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó, xác định cần đổi mới việc
tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của
NTHTT, người TGTT theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đây được coi là khâu
đột phá của hoạt động tư pháp.
1Điều 13, Nguyên tắc suy đốn vơ tội, BLTTHS năm 2015


2
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, CQTHTT
và NTHTT có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đại diện cho Nhà nước giải
quyết vụ án hình sự. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội
cũng như đảm bảo cơng lý thì NBC cũng có vai trị rất quan trọng TTHS. Như
vậy, NBC khơng chỉ có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội, đồng thời cịn góp phần bảo đảm pháp chế XHCN và xác định
sự thật khách quan của vụ án. Chính sự tham gia của NBC trong các giai đoạn tố
tụng sẽ tạo ra cơ chế phản biện giúp cho các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử
của các CQTHTT và NTHTT chính xác hơn, khách quan hơn. So với những năm
trước đây, sự tham gia của NBC trong giải quyết vụ án hình sự ngày càng được
thực hiện có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt kết quả đáng khích
lệ.
Mặc dù có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của

người bị buộc tội và giúp các CQTHTT và NTHTT phát hiện, sửa chữa những thiếu
sót, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, góp phần xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Nhưng thời gian qua, trong các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam thì địa vị pháp lý của NBC chưa được quan tâm một cách đúng mực. Điều này,
trước hết được thể hiện rõ nét ở các quy định về quyền của NBC. Trong một chừng
mực nào đó, quyền của NBC thực chất chỉ là thứ quyền năng phái sinh từ quyền bào
chữa của người bị buộc tội đồng thời có sự phụ thuộc vào sự chấp thuận hay không
của các CQTHTT, NTHTT khi tham gia tố tụng. Để giải quyết vấn đề này, BLTTHS
năm 2015 đã mở rộng thêm và cụ thể hơn các quyền của NBC hơn so với quy định
của BLTTHS năm 2003. Đây là một bước tiến rất quan trọng, giúp NBC thực thiện
được vai trị, trách nhiệm của mình một cách đầy đủ hơn, qua đó đảm bảo được
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế thấp nhất các trường hợp
oan sai, bức cung, nhục hình. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, những quy định về
quyền của NBC trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn một số bất cập dẫn đến việc nhận
thức và áp dụng pháp luật trong thực tiễn cịn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc tiếp
tục nghiên cứu, phân tích những điểm mới trong BLTTHS năm 2015 về quyền của
NBC cũng như đánh giá việc thực hiện quyền của NBC trong thực tiễn áp dụng
pháp luật là một việc làm hết sức cần thiết. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài
“Quyền của người bào chữa theo


3
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định NBC là một trong những chế định cơ bản trong TTHS, chính vì
thế mà chế định này luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau từ pháp luật thực định cho đến thực trạng áp dụng pháp luật để làm cơ
sở cho việc đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vị thế
của NBC trong TTHS. Trên thực tế đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về chế

định NBC nói chung và quyền của NBC nói riêng, tuy nhiên đa phần các tác
phẩm, bài viết này đều nghiên cứu dựa trên cơ sở nền tảng là các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cịn những bài viết phân tích, đánh giá dựa
trên các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chỉ đề cập đến một
số vấn đề nhất định liên quan đến người bào chữa mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
các quyền của NBC. Có thể chia các cơng trình nghiên cứu về quyền của NBC
thành các nhóm cụ thể như sau:
Nhóm luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp cử nhân tại Trường Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh: trong các cơng trình nghiên cứu thuộc nhóm này thì có
Luận án tiến sĩ của Lương Thị Mỹ Quỳnh với đề tài “Bảo đảm quyền có người
bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Đức và Mỹ” năm 2011; Luận văn thạc sĩ của Trần Văn Bảy “Người bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2000; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Cảnh
Tuyến “Vai trò của luật sự bào chữa trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” năm
2010; Luận văn thạc sĩ của Đào Thị Thu Hương “Sự tham gia bắt buộc của người
bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2009; Luận văn thạc sĩ của Phạm
Thị Ngọc Thu “Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” năm
2019. Khóa luận tốt nghiệp thì có các đề tài: “Sự có mặt của người bào chữa tại
phiên tòa – Lý luận và thực tiễn” của tác giả Phạm Minh Hải năm 2013; “Vai trò
của người bào chữa trong việc nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa hình sự” của
tác giả Lê Anh Thuận, năm 2012; “Quyền của người bào chữa trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của Phan Đỗ Hạnh Phương, năm 2015.


4
Nhìn chung các cơng trình trên đã đề cập ít nhiều đến quyền của NBC, tuy
nhiên phạm vi nghiên cứu và khía cạnh nghiên cứu có sự khác nhau. Đề tài của
các tác giả Trần Văn Bảy, Nguyễn Cảnh Tuyến, Lê Anh Thuận thì tập trung
nghiên cứu về vị trí, vai trò của người bào chữa trên cơ sở phân tích các quy định
về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo BLTTHS năm 1988 và BLTTHS

năm 2003. Luận án tiến sĩ của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh nghiên cứu bảo đảm
quyền có người bào chữa theo hướng so sánh luật với Mỹ, Đức, từ đó góp phần
hồn thiện những biện pháp bảo đảm có quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Các cơng trình của các tác giả Đào Thị Thu Hương, Phạm Thị Minh Hải, Phạm
Thị Ngọc Thu thì nghiên cứu ở khía cạnh hoạt động của NBC trong q trình
tranh tụng. Khóa luận tốt nghiệp của Phan Đỗ Hạnh Phương thì phân tích quyền
của NBC theo quy định của BLTTHS năm 2003.
Nhóm sách, giáo trình, sách bình luận chun khảo: Trong nhóm này có
nhiều đầu sách tiêu biểu liên quan đến đề tài nghiên cứu như: “Những điểm mới
về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” sách chuyên khảo
của tác giả Phan Trung Hoài, xuất bản năm 2016 của Nxb Chính trị Quốc gia;
“Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” sách
chuyên khảo của tác giả Trần Quang Tiệp, xuất bản năm 2004 của Nxb Chính trị
Quốc Gia; Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam (tái bản, có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức, xuất bản năm 2018;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản
lần thứ 14 có sửa đổi, bổ sung), Nxb Cơng an Nhân dân, xuất bản năm 2018;
“Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Nguyễn
Ngọc Anh, Phan Trung Hồi, Nxb Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2018; “Bình
luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015” do
tác giả Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Nxb Hồng Đức, năm 2016…
Nhóm các bài báo, tạp chí chun ngành luật: các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này phần lớn đề cập chủ yếu về quyền bào chữa, trong đó có liên quan đến
nội dung quyền của NBC, rất ít bài đề cập trực tiếp đến quyền của NBC, cụ thể:
bài viết “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015” của tác giả Tôn Thiện Phương đăng trên tạp chí Kiểm sát, số


5
10/2016; “Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm

bảo đảm quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng” của tác giả Lê Nguyên Thanh,
đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý, số 8/2015; “Luật sư và vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự
của nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, đăng trên tạp chí Nghề
Luật số 3/2015; “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ
án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Lê Huỳnh Tấn
Duy, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01/2017; “Hoạt động bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Mai, đăng trên Tạp
chí Luật học, số 7/2015;…
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu trên trước hết bàn về quyền bào chữa
của người bị buộc tội hoặc chức năng bào chữa trong TTHS hoặc quyền bào
chữa của NBC theo BLTTHS năm 2003. Vấn đề quyền của NBC vẫn chưa được
giải quyết đầy đủ ở khía cạnh lý luận và thực tiễn theo BLTTHS năm 2015. Có
thể nói đây là vấn đề còn mới được tác giả tiếp tục nghiên cứu trong luận văn
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn thực hiện quyền của NBC, từ đó kiến nghị những biện pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện quyền của NBC trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu lý luận về quyền của NBC trong TTHS, có tham khảo kinh
nghiệm lập pháp Việt Nam qua các thời kỳ và kinh nghiệm nước ngồi về quyền
của NBC trong TTHS
- Phân tích, giải thích các quy định về quyền của NBC trong TTHS.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện quyền của NBC trong TTHS
- Kiến nghị các biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của NBC
trong TTHS



6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quyền của NBC cũng như bảo
đảm thực hiện quyền của NBC theo quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn
giải quyết vụ án hình sự
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định rất nhiều
quyền của NBC. Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc nghiên cứu một cách chuyên
sâu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích ba quyền sau đây của NBC:
Thứ nhất, quyền gặp, hỏi người bị buộc tội (điểm a khoản 1 Điều 73);
 Thứ hai, quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi
hỏi cung bị can (điểm b khoản 1 Điều 73);
 Thứ ba, quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm
h, khoản 1, Điều 73).
- Về thời gian: quyền của NBC được nghiên cứu chủ yếu từ năm 2015
đến nay
- Về không gian: quyền của NBC được nghiên cứu, đánh giá trong phạm vi
cả nước.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả vận dụng Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và nhà nước trong cải cách tư
pháp và bảo đảm quyền con người làm phương pháp luận.
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng chủ yếu trong
Chương 1 và Chương 2 như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh và phương pháp lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn được sử dụng trong Chương 2 và
Chương 3 như phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình.



7
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề
l luận và thực tiễn quyền của NBC trong TTHS trước yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay. Các nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ
nghiên cứu khoa học, thực tiễn; các sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh
chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong quá trình học tập,
nghiên cứu, giảng dạy.
Luận văn góp phần làm r thực trạng thực hiện quyền của NBC. Trên cơ sở
đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hồn thiện chế định NBC nói chung
và nâng cao địa vị pháp lý của NBC trong TTHS nói riêng, góp phần thực thi
nhiệm vụ bảo đảm quyền con người trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành ba chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về quyền của người bào chữa
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và
thực tiễn thực hiện một số quyền của người bào chữa
Chƣơng 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện một số quyền của
người bào chữa


8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của ngƣời bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa và quyền của người bào chữa
1.1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được tơn
vinh và là đích đến của tồn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động bào chữa với sứ

mệnh là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ công lý,
công bằng xã hội được xem là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của
nền tư pháp đó. Hoạt động bào chữa là tồn bộ những hành vi tố tụng được pháp
luật TTHS quy định do người bị buộc tội và NBC thực hiện, xác định sự vô tội của
người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội và góp phần xác định sự thật vụ án.

Trước hết phải khẳng định sự tham gia của NBC trong TTHS là cần thiết,
khách quan. Người bị buộc tội luôn ở trong tình trạng bị động về các thủ tục tố
tụng, tâm lý hoang mang, lo sợ về số phận pháp lý của mình. Họ thường là người
bị hạn chế về kiến thức pháp luật, thiếu kinh nghiệm trong các hoạt động tố tụng.
Trong khi đó bên buộc tội gồm các CQTHTT và NTHTT là những chủ thể được
Nhà nước trao quyền lực, đủ thẩm quyền trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Bản
thân các chủ thể này được đào tạo bài bản, có kiến thức pháp luật vững chắc, có
chun mơn, kinh nghiệm trong xử lý tội phạm. Như vậy, người bị buộc tội luôn
ở vị thế bất lợi hơn so với bên buộc tội. Vì thế sự hiện diện của NBC để giúp cho
người bị buộc tội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, tạo thế cân bằng trong
2

TTHS .
NBC hay bào chữa viên là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức pháp
luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt người bị buộc tội tham gia tố
tụng trong vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại
sự buộc tội, truy tố hoặc tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ
của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình
2

Trần Văn Bảy (2000), Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật TP.HCM, tr.19.



9
tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ
3

án hình sự. Theo quy định của pháp luật, NBC có thể là luật sư, người đại diện
của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về người bào chữa.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì quan niệm “Người
bào chữa là người tham gia tố tụng với trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo, họ được phép sử dụng mọi phương tiện do luật định để bào chữa cho bị
4

can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ” .

Theo ý kiến của GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “Người bào chữa là người
tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng
minh sự vơ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giam, bị can,
5

bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết” .
Giải thích về thuật ngữ pháp lý của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng “Người
bào chữa là người được bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can,
bị cáo mời hoặc do Viện kiểm sát, Toà án chỉ định để bào chữa và có những giúp
6

đỡ cần thiết cho bị can, bị cáo về mặt pháp l ” .
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì
khái niệm người bào chữa theo Quy định của BLTTHS năm 2015 “Người bào
chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
7

tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa” .
Từ các quan điểm về NBC của các nhà khoa học, tác giả nhận thấy có
điểm chung đó là NBC chỉ là người tham gia TTHS. Thuật ngữ “tham gia” nói
lên tính chất, vai trò của NBC, họ tham gia dù dưới hình thức nào (được mời hay
được cử) thì vẫn nhằm mục đích chứng minh sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội và giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý
3

Từ điển Bách khoa toàn thư mở />ch%E1%BB%AFa.
4
5

Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, tr.69.

Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học BLTTHS, Nxb Cơng an Nhân dân, tr.128-129.
Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Thuật ngữ pháp lý – tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.55.
7
Khoản 1 Điều 72 BLTTHS năm 2015.
6


10
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời góp phần bảo vệ pháp
chế XHCN. NBC chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình trong hoạt động tố tụng, họ
khơng có quyền và lợi ích liên quan trong vụ án.
BLTTHS năm 2015 quy định những người tham gia tố tụng với tư cách là
NBC bao gồm: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên

nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối
tượng trợ giúp pháp lý.
8

9

Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn , điều kiện hành nghề theo quy định
của Luật luật sư. Quy định này nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp của luật sư,
phịng ngừa tình trạng những người khơng có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn tham
gia tố tụng như luật sư, góp phần tăng cường quản lý về hành nghề luật sư.
Người đại diện của người bị buộc tội là một khái niệm tương đối mới chưa
được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ dân sự
thì người đại diện là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại
các Điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khác với luật sư, người đại
diện chủ động thực hiện chức năng bào chữa mà khơng cần có đề nghị hoặc yêu
cầu từ người bị buộc tội hoặc họ cũng có thể chủ động lựa chọn NBC.
Bào chữa viên nhân dân: là NBC được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử ra để bào chữa cho người bị buộc tội
là thành viên của tổ chức này. Nghị quyết số 03/NQ – HĐTP ngày 02/10/2004 của
Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn một người được coi là bào chữa viên
nhân dân khi người đó được Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cử ra bào chữa cho thành viên của tổ chức
mình. Trong thực tế, hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ
chức thành một hệ thống nên chức danh này tuy vẫn được ghi nhận trong BLTTHS
hiện hành, nhưng thực tiễn bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng rất hiếm hoi.
Vai trò của bào chữa viên nhân dân đang dần bị lãng qn và hiện nay khi nói đến
NBC thì người ta thường nghĩ ngay đến luật sư.
8


Điều 10 Luật luật sư.

9

Điều 10 Luật luật sư.


11
Trợ giúp viên pháp lý: là một trong những chủ thể tham gia tố tụng hình sự
bắt đầu ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc việc
10

xét xử với tư cách là người bào chữa ; Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
11

của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự . Hoạt động
của trợ giúp viên pháp lý trong TTHS mang tính đặc thù bởi đây là chủ thể đại
diện để thực thi trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước
12

đối với nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội .
Từ những nhận định, phân tích về NBC cũng như quy định NBC theo
BLTTHS năm 2015, tác giả có thể đưa ra khái niệm NBC trong TTHS như sau:
Người bào chữa trong tố tụng hình sự là luật sư, người đại diện của người
bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, hoặc trợ giúp viên pháp lý được người bị
buộc tội nhờ bào chữa hoặc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ
định tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người bị buộc tội và giúp đỡ người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ..
1.1.1.2. Khái niệm quyền của người bào chữa

Theo từ điển Tiếng Việt, “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng
13

nhận, cho được hưởng, được làm, được địi hỏi . Theo giải thích này có thể hiểu,
“quyền” là khả năng thực hiện ý chí của cá nhân được pháp luật, xã hội hoặc lẽ phải
chấp nhận. Mở rộng hơn, “quyền lợi” là điều mà pháp luật và xã hội cho phép
hưởng thụ, vận dụng, thi hành, có thể địi hỏi nếu thiếu hoặc bị tước đoạt.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thì “Quyền là khái niệm
khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực
hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được địi
hỏi mà khơng ai được ngăn cản, hạn chế. Dấu hiệu đặc trưng nhất của quyền là
phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định
của pháp luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể,
cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các
10
11
12

Điều 72 BLTTHS năm 2015.
Điều 83, Điều 84 BLTTHS năm 2015.

Nhóm người được trợ giúp pháp l quy định tại Điều 7 Luật trợ giúp pháp l năm 2017.
13
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, tr. 1045.


12
quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền
của cá nhân được phát sinh tăng hay giảm tuỳ theo từng thời điểm của quá trình
14


tồn tại và phát triển của xã hội …” . Dựa trên khái niệm về quyền trong khoa học
pháp lý thì quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng, vừa mang tính
lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Trong TTHS quyền bào chữa thuộc về người
bị buộc tội, pháp luật cho phép họ sử dụng các biện pháp hợp pháp để tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực
hiện dưới hai hình thức “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”. Trên thực tế,
hầu hết người bị buộc tội đều bị sức ép tâm lý từ phía bị hại và gia đình của bị hại,
từ dư luận xã hội, từ NTHTT. Họ ln trong trạng thái bất an, ít hiểu biết về pháp
luật đồng thời khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng thì người bị buộc tội
khó có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa. Do đó, việc người bị buộc tội nhờ
người có kiến thức pháp lý, có thể thay mặt mình tham gia vào quá trình tranh tụng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là nhu cầu thiết yếu. Với sự am
hiểu pháp luật, NBC góp phần đưa ra những lý lẽ và chứng cứ mang tính phản biện
nội dung buộc tội, giúp các CQTHTT phát hiện ra những sai lầm, thiếu sót (nếu có),
kịp thời khắc phục trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên cần khẳng
định rằng nhiệm vụ chính của NBC là gỡ tội, là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội, nhưng nhiệm vụ của NBC đối với người bị buộc tội là nhiệm
vụ có giới hạn, có điều kiện đó là phải tuân thủ theo pháp chế XHCN. Điều này có
nghĩa NBC tham gia tố tụng tương đối độc lập với ý muốn chủ quan của người bị
buộc tội; NBC chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội, NBC khơng có nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu cầu
của người bị buộc tội nếu những u cầu đó khơng có căn cứ, trái pháp luật.

Để NBC có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XHCN, pháp luật
TTHS đã quy định cho NBC có quyền pháp lý nhất định. Các quyền này được
thực hiện phụ thuộc vào ý chí của NBC, khơng bắt buộc và được đảm bảo thực
hiện mà không bị ngăn cản hay hạn chế bởi các chủ thể khác trong quá trình tố
tụng.

14

Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa.


13
Dựa vào những phân tích trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm quyền của
NBC như sau: Quyền của NBC là những quyền mà pháp luật cho phép và đảm
bảo thực hiện đối với NBC, theo đó NBC được hưởng, được làm và được thực
hiện các quyền đó trong hoạt động gỡ tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XNCH.
1.1.2. Đặc điểm quyền của người bào chữa
Trong TTHS chức năng bào chữa là một trong những chức năng tố tụng cơ
bản, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự thật, đảm bảo việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Chức năng bào chữa chỉ nhằm chống lại sự buộc tội
thiếu căn cứ, mang tính áp đặt chứ khơng nhằm mục đích chống lại sự buộc tội
có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy NBC thực hiện chức năng của mình trên cơ sở các
quy định của pháp luật.
Thứ nhất, quyền của NBC được quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam:
NBC thực hiện công việc bào chữa của mình trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Quyền của NBC phụ thuộc vào từng loại mơ hình TTHS. Mơ hình TTHS
khác nhau sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của NBC cũng khác nhau, vì quyền của
NBC được pháp luật quy định phải phù hợp với mơ hình tố tụng thì khi đó các quy
định được áp dụng trên thực tiễn mới trở nên thiết thực và phù hợp, không mâu
thuẫn với quyền của các chủ thể khác, phát huy triệt để chức năng gỡ tội, đảm bảo
công bằng trong hoạt động TTHS và bảo đảm pháp chế XHCN.

Trong TTHS, NBC và quyền bào chữa có mối liên hệ chặc chẽ, thống nhất
biện chứng với nhau. Tư cách NBC khơng tự nhiên hình thành mà nó xuất phát
từ quyền bào chữa của người bị buộc tội, ngược lại NBC lại là cơ sở bảo đảm

thực hiện tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời quyền bào
chữa cũng như NBC cũng không thể thực hiện cơng việc của mình nếu như pháp
15

luật không ghi nhận quyền cho NBC .
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng, NBC không chỉ bảo vệ quyền lợi của
người bị buộc tội mà họ còn nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN.
Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn bảo vệ tốt
15
Phan Đỗ Hạnh Phương (2015), Quyền của người bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.5.


14
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì phải tơn trọng sự thật và tơn
trọng pháp luật. Ngược lại, muốn góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN thì
phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trên
cơ sở các quy định của pháp luật. Khi nhận bào chữa cho người bị buộc tội, NBC
cố gắng tập trung năng lực và tâm huyết của mình để hồn thành trách nhiệm bào
chữa. Họ có thể sẵn sàng làm tất cả mọi việc để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp
của thân chủ mình, song điều này khơng có nghĩa NBC khơng bị giới hạn về
quyền hạn hay hồn tồn tự do làm bất cứ việc gì. Pháp luật TTHS Việt Nam quy
định những điều NBC không được phép làm nếu điều đó trái với pháp luật và
đạo đức. NBC không được phép hứa hẹn trước kết quả hoặc làm móp méo sự
thật để trục lợi, khơng được lợi dụng bào chữa để mơi giới hối lộ, kích động, xúi
giục kiện tụng, cản trở hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc phỉ báng, xúc
phạm đến chế độ, đến các CQTHTT, NTHTT hoặc các cơ quan tổ chức khác có
liên quan.
Với xu thế phát triển hiện nay, khi mà quyền con người, quyền công dân
ngày càng được quan tâm và bảo vệ, thì vấn đề oan sai trong hoạt động tố tụng sẽ

được hạn chế. Điều này đồng nghĩa bên cạnh việc nâng cao chất lượng xét xử thì
quyền của NBC cũng được pháp luật quy định mở rộng hơn, tạo điều kiện thuận
lợi để NBC tham gia vào các hoạt động TTHS góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ sự thật khách quan của vụ án, góp nâng
cao tiến trình cải cách tư pháp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội của đất nước.
Thứ hai, quyền của NBC được pháp luật bảo đảm thực hiện:
Sự tham gia của NBC trong TTHS là một biểu hiện cụ thể nhằm thực hiện
nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, một trong những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS nhiều nước trên thế giới nói chung và
trong pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng. Điểm b và d Khoản 3 Điều 14 Cơng
ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp Quốc mà Việt Nam
16

là nước thành viên , quy định: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi
người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hồn tồn bình đẳng
16
Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 vào ngày
24/9/1982


15
những bảo đảm tối thiểu, trong đó có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để
chuẩn bị bào chữa và liên hệ với NBC do chính mình lựa chọn.
Chủ trương nâng cao vị trí, vai trị của NBC, đảm bảo các quyền và nghĩa
vụ của NBC, người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự được thể hiện
trong các Nghị quyết của Đảng

17


và Hiến pháp năm 2013 chính là nền tảng cho

việc bảo đảm dân chủ hố hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng với các
chủ thể có chức năng buộc tội. Điều này có nghĩa là ở đâu có việc buộc tội thì ở
đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng nhằm chứng minh bị can, bị
cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt. Hơn nữa chế độ bào
chữa trong TTHS giúp cho công tác xét xử được tiến hành toàn diện và khách
quan, xét xử được chính xác bảo đảm đúng người, đúng tội.
Để NBC thực thi được chức năng của mình, BLTTHS quy định rất cụ thể
vị trí, quyền và nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng trong một
quan hệ pháp luật thì quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược
lại. Do đó khi pháp luật quy định cho NBC quyền thì đồng thời cũng sẽ quy định
cho các chủ thể khác có liên quan như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Thư ký toà án…nghĩa vụ tương ứng để đảm bảo cho việc thực hiện quyền của
NBC. Do đó, khi NBC thực hiện quyền của mình mà bị cản trở bởi các CQTHTT
hay người có thẩm quyền THTT làm ảnh hưởng đến việc bào chữa và hiệu quả
bào chữa thì NBC có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế
bằng quyền lực nhà nước đối với bên có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu theo quyền
của NBC được pháp luật cho phép. Đây là căn cứ quan trọng để quyền của NBC
được đảm bảo thực hiện.
1.1.3. Ý nghĩa quyền của người bào chữa
Quyền của NBC chính là các quyền năng mà pháp luật cho phép NBC
được thực hiện thơng qua hoạt động bào chữa của mình. Trong tư pháp hình sự,
hoạt động bào chữa có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý.
Về mặt chính trị, thực hiện hoạt động bào chữa của NBC chính là nhằm
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề
bảo đảm quyền con người, vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
17

Nghị quyết 48 về cải cách tư pháp.



16
quyền. Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, trong hoạt động tố tụng địi hỏi phải đảm bảo tơn trọng pháp
luật, chống lại sự tuỳ tiện của những người có thẩm quyền, tăng cường tính tranh
tụng dân chủ, tạo khung pháp lý và điều kiện cần thiết khác để người bị buộc tội
và NBC thực hiện hoạt động bào chữa có hiệu quả. Ngược lại bằng hoạt động
bào chữa, NBC góp phần vào việc đảm bảo pháp chế, bảo đảm pháp luật được
tôn trọng và thực thi một cách nghiêm minh, bảo đảm quyền con người trong
TTHS.
Về mặt xã hội, hoạt động bào chữa của NBC góp phần bảo đảm cho công
lý được thực thi, bảo đảm công bằng trong TTHS, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Việc quy định quyền của NBC cịn thể hiện
tính nhân đạo của pháp luật trong TTHS, nhờ đó mà quyền bào chữa của người
bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội và hơn hết là bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp. Đồng thời hạn chế sự làm quyền của CQTHTT và NTHTT để không làm
oan người vô tội. Qua đó cũng cố lịng tin của người dân vào pháp luật, vào
CQTHTT, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Về mặt pháp lý, hoạt động bào chữa của NBC là hoạt động cơ bản trong
TTHS nhằm thực hiện chức năng bào chữa. Quyền của NBC góp phần nâng cao
tính tranh tụng trong hoạt động TTHS, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể
tham gia vào quá trình tố tụng. Việc quy định quyền cho NBC tạo điều kiện cho
họ có cơ hội gặp người bị buộc tội; tiếp cận hồ sơ vụ án; thu thập các tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án; tham gia vào các hoạt động điều tra khác như: lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại; đối chất giữa các bị can với nhau hay giữa
bị can và người làm chứng; nhận dạng; khám nhà; kê biên tài sản; khám nghiệm
hiện trường; thực nghiệm điều tra;… để NBC có điều kiện nắm bắt nội dung vụ
án một cách toàn diện, xác định được mấu chốt vụ án, từ đó có cách lập luận

quan điểm riêng của mình khi tranh luận tại phiên tồ. Hoạt động bào chữa góp
phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, kịp thời yêu
cầu sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị các quyết định của CQTHTT để từ đó đảm
bảo việc giải quyết vụ án được cơng minh, tồn diện, đầy đủ, đúng pháp luật,
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng


17
dân, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm của nhân dân.
1.2. Cơ sở quy định quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
Cơ sở lý luận:
TTHS là một lĩnh vực của tư pháp mà khi thực hiện có mối liên quan chặt
chẽ tới quyền con người. Mọi hành vi tố tụng đều ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích thiết thân nhất như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do, thậm chí là quyền sống
của con người, mà giá trị của con người là vô giá, mỗi một sai lầm xảy ra đều để
lại hậu quả mà có khi là những hậu quả khơng thể khắc phục được. Vì vậy, cách
tốt nhất để hạn chế sai lầm là phải luôn cẩn trọng, luôn đặt giá trị của con người
lên hàng đầu để trong mọi hành vi tố tụng đều phải cân nhắc tính chính xác và
tính hợp lý của nó. Khi để sai lầm xảy ra hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến số
phận của người tham gia tố tụng mà còn gắn chặt đến cuộc sống của những
người thân của họ. Do đó, một trong những điều kiện đảm bảo việc xử lý vụ án
được khách quan, chính xác, góp phần vào cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm
có hiệu quả, cũng như bảo vệ tốt các quyền tự do, dân chủ của cơng dân chính là
ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Tuy nhiên, khơng
phải người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực hiện được hoặc thực hiện có
hiệu quả quyền bào chữa của mình. Trong khi đó, chức năng buộc tội trong
TTHS thuộc về người thực hành quyền công tố - những người có chun mơn,
kinh nghiệm đảm nhiệm. Do vậy, nhu cầu quyền bào chữa được thực hiện bởi
người thứ ba, những người có vị trí tách biệt, độc lập với Toà án, Viện kiểm sát.

Họ là những người chuyên nghiệp, am hiểu pháp luật đã nảy sinh như một yêu
cầu khách quan của thực tiễn. Đây là lý do tại sao trong pháp luật TTHS của các
nước trên thế giới cũng như Việt Nam, bên cạnh nguyên tắc đảm bảo quyền tự
bào chữa, đều quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác
bào chữa.
Cơ sở chính trị - pháp lý:
Người bị buộc tội có quyền có NBC được ghi nhận và đảm bảo hầu hết
trong các văn kiện pháp lý quốc tế và Công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam có tham gia.


18
Khoản 1 Điều 11, Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948
nêu rõ “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội
cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tồ xét
xử cơng khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa
cho mình”
Điều 14 Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị với nội dung: một
người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội sẽ có quyền (1) được có khoảng thời
gian hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa và có quyền trao
đổi với NBC do mình lựa chọn; (2) có quyền tự bào chữa hoặc thơng qua NBC do
mình lựa chọn; (3) trong trường hợp một người khơng có NBC thì cơ quan có thẩm
quyền THTT sẽ chỉ định NBC vì lợi ích chung của cơng lý, NBC sẽ được chỉ định
miễn phí nếu người bị buộc tội khơng có khả năng chi trả cho NBC.

Quyền có NBC cịn được bảo đảm bởi văn bản pháp lý quốc tế khác có
liên quan như Bộ các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của luật sư.
Tại Việt Nam, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội
được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam là
một trong những quyền cơ bản của con người, của công dân, là quyền cơ bản

trong số các quyền trong lĩnh vực tư pháp phải được tôn trọng và triệt để thực
hiện. Nếu quyền bào chữa bị xâm phạm thì cũng khó thực hiện được các quyền
tư pháp khác.
Nghị quyết 08 – NQ/TW của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra “Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo cho
mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, của
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người
có quyền lợi hợp pháp; các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để
luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ
sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa;…”. Yêu cầu này đặt ra trách nhiệm
của các CQTHTT, NTHTT trong việc bảo đảm cho NBC được tranh luận dân
chủ tại phiên tịa cần được hồn thiện theo hướng mở rộng quyền của NBC và


19
đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và NBC trong việc thu thập, xuất trình
chứng cứ, đề xuất yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Như vậy, cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động bào chữa của NBC là
quyền bào chữa của người bị buộc tội và ngược lại hoạt động bào chữa của NBC
là phương thức để người bị buộc tội và NBC thực hiện quyền bào chữa. Quyền
của NBC được thể hiện bằng hiệu quả của hoạt động bào chữa, mà điều này phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện pháp lý quy định về quyền và nghĩa vụ của NBC.
NBC thực hiện hoạt động bào chữa một mặt phải dựa vào các quy định của pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Mặt khác, phải
bảo vệ lợi ích của nhà nước, cũng cố pháp chế XHCN, tuyên truyền pháp luật,
giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật. Các CQTHTT, NTHTT phải tôn
trọng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và phải bảo đảm để hoạt
động bào chữa cho người bị buộc tội của NBC được thực hiện một cách thuận

lợi.
Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn cho thấy rằng phần lớn các trường hợp vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dẫn đến xét xử oan sai
thường khơng có sự tham gia của NBC trong quá trình tố tụng. Khi thực hiện các
hoạt động tố tụng không loại trừ việc các CQTHTT và NTHTT không tuân thủ
các chuẩn mực do pháp luật TTHS quy định nên có khả năng xâm phạm quyền
cơng dân của người bị buộc tội. Sự có mặt của NBC trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự là một đảm bảo quan trọng trong việc hạn chế thấp nhất quyền của
người bị buộc tội bị xâm phạm cũng như đảm bảo pháp chế XHCN được thực
hiện tốt nhất.
Thực tiễn cũng chứng minh nếu khơng có sự tồn tại của NBC cũng như cơ
chế đảm bảo quyền của NBC trong hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội
thực hiện quyền bào chữa thì khơng thể nói đến dân chủ trong hoạt động tư pháp.
Đặc biệt là đối với các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm
2015 liên quan đến quyền, lợi ích và cả sinh mạng con người. Bảo đảm được dân
chủ, khách quan trong hoạt động tố tụng là điều kiện quan trọng và cần thiết để
hoạt động tranh tụng được tiến hành một cách có hiệu quả.


×