Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn xã vĩnh nhuận, huyện châu thành, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.24 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ
THỰC TIỄN XÃ VĨNH NHUẬN, HUYỆN CHÂU THÀNH,
TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ
THỰC TIỄN XÃ VĨNH NHUẬN, HUYỆN CHÂU THÀNH,
TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


PHẦN MỞ ĐẦU


1.

Tính cấp thiết của đề tài:

Ngày nay, đói nghèo là một vấn đề mang tính tồn cầu, loại trừ tình trạng
bần cùng và thiếu ăn là một trong tám mục tiêu thiên niên kỷ mà 189 quốc gia
thành viên đang phấn đấu để đạt được trong thời gian tới. Giải quyết tình
trạng nghèo đói khơng những nâng cao đời sống kinh tế, mà nó cịn cải thiện
những vấn đề xã hội, đặc biệt là sự bình đẳng của các tầng lớp dân cư, nhất là
dân cư nông thôn so với thành thị.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi cơng tác xóa đói giảm nghèo là một chủ
trương lớn, nhiệm vụ chính trị quan trong hàng đầu; là nhiệm vụ kinh tế xã
hội quan trọng và cấp thiết nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững
gắn với đảm bảo công bằng xã hội. Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn về
xóa đói giảm nghèo, được các tổ chức quốc tế và các nước đánh giá cao về sự
quyết tâm chống đói nghèo của Chính phủ. Tuy nhiên, thực tế hiện nay số hộ
nghèo vẫn còn nhiều, tình trạng tái nghèo thường xuyên diễn ra, khoảng cách
giàu nghèo ngày càng giãn rộng, chênh lệch giàu nghèo giữa các khu vực,
giữa các dân tộc còn cao…Tất cả đã và đang trở thành thách thức lớn cho
công tác giảm nghèo của Việt Nam nói chung và của từng địa phương nói
riêng trong những năm tới.
Vĩnh Nhuận là một xã vùng xa của huyện Châu Thành, có vị trí địa lý:
phía đơng giáp xã Vĩnh Lợi, Vĩnh Thành; phía tây giáp xã Tân Phú; phía nam
giáp xã Vĩnh Phú huyện Thoại Sơn; phía bắc giáp xã Vĩnh Hanh, Vĩnh Bình.
Diện tích tự nhiên: 3.802 ha; trong đó diện tích nơng nghiệp 3.347,4ha. Xã có
06 ấp; Tồn xã có: 1.737 hộ với 7.717 nhân khẩu. Có 3 dân tộc (Kinh,
Khơme, Hoa) cùng sinh sống. Về tơn giáo, có 3 thành phần tơn giáo (Phật,
Phật giáo hịa hảo, Thiên chúa và một số hộ khơng đạo), trong đó chủ yếu
người dân làm nghề nông nghiệp chiếm 82,6%. Năm 2016 xã Vĩnh Nhuận
1



được Chủ tịch UBND tỉnh An Giang công nhận là xã đạt chuẩn xã Nơng thơn
mới qua đó các chính sách, chương trình trong thực hiện tiêu chí nơng thơn
mới được quan tâm đầu tư như điện, đường, trường trạm…, sự nỗ lực cố gắng
của lãnh đạo và nhân dân trên tồn địa bàn xã nên tình hình kinh tế - xã hội đã
có những bước chuyển biến tích cực, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân
ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm từ 1 – 1,5%.
Trong năm 2016 tồn xã có 120 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 6,9% trong đó có 08 hộ
dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 16,3%, 216 hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 12,43%
trong đó có 03 hộ dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 6,12%. Hiện tại tỷ lệ hộ nghèo
xã 50 hộ, chiếm 2,87%. Tuy nhiên, so với khu vực bình quân chung của tỉnh
thì Vĩnh Nhuận vẫn là xã nghèo, thu nhập trung bình thấp hơn các xã, thị trấn
trên toàn địa bàn huyện Châu Thành.
Vấn đề đặt ra ở đây là Vĩnh Nhuận đã có những chính sách gì, bằng cách
nào, thực hiện các giải pháp nào để đẩy mạnh q trình xố đói giảm nghèo,
từng bước ổn định đời sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều kiện, tiền
đề thuận lợi để các hộ vươn lên thốt nghèo và khơng bị tái nghèo (giảm
nghèo bền vững). Đây là vấn đề rất bức thiết đối với xã Vĩnh Nhuận cần sớm
được nghiên cứu giải quyết, xuất phát từ thực tiễn đó học viên nghiên cứu đề
tài: “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn xã Vĩnh Nhuận,
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nghèo đói là vấn đề xã hội bao hàm nghĩa rộng, đa chiều gắn liền với
tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, trong quan hệ phân phối của
cải vật chất, mở rộng an sinh xã hội và các cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội
cho mọi người, đặc biệt ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em, nhóm người yếu thế và
dễ bị tổn thương, thực hiện đầy đủ quyền con người nhằm cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách và trình độ phát
2



triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Đảng và Nhà
nước ta xác định XĐGN là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển
đất nước hiện nay, rất phức tạp và khó khăn cả về nhận thức, cũng như chỉ
đạo thực tiễn. Nhưng trước hết là về nhận thức, cần phải làm cho các cấp, các
ngành và mọi người có nhận thức đúng về vấn đề XĐGN trong điều kiện và
bối cảnh của Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu về đề tài:
-

Luận văn Thạc sĩ Chính sách cơng (2016) của tác giả Châu Văn Hiếu

thực trạng chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016) báo cáo nghèo
đa chiều

Việt Nam giảm nghèo ở tất cả chiều cạnh để đảm bảo cuộc sống có
chất
lượng cho mọi người
-

Luận văn Thạc sĩ Quản lý công (2017) của tác giả Đinh Thị Hồng

Thắm Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện An Minh,
tỉnh Kiên Giang.
-

Luận văn Thạc sĩ Chính sách cơng (2020) của tác giả Trần Thanh Cúc


thực trạng chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Bắc Trà My,
tỉnh Quảng Nam.
Đến nay, tuy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về cơng tác giảm nghèo,
nhưng trên địa bàn xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang chưa
có một cơng trình nào nghiên cứu thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền
vững. Điều này, địi hỏi phải có có cách nhìn cụ thể, nghiên cứu đúng thực
trạng để có giải pháp nâng cao thực hiện chính sách về giảm nghèo bền vững
ở xã Vĩnh Nhuận trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, đề tài luận văn “Thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang” là cần thiết, khơng trùng lặp với các cơng trình khoa


3


học đã cơng bố và có ý nghĩa lý luận – thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững của xã Vĩnh Nhuận, tìm ra hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu góp phần giải quyết vấn đề giảm nghèo bền vững của xã
Vĩnh Nhuận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận việc thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững trên địa bàn xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các chính sách về giảm nghèo
bền vững hiện nay ở xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện các chính sách về giảm
nghèo bền vững trên địa bàn xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững của xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Chính sách giảm nghèo bền vững của xã Vĩnh Nhuận
Phạm vi không gian: xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
Phạm vi thời gian: Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững từ năm 2016 – 2020. Chọn thời điểm phân tích từ năm 2016 do
Chính phủ Việt Nam đề ra chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững (giai đoạn 2016 – 2020), theo đó các tỉnh thành phố, trong đó có tỉnh An

4


Giang triển khai các kế hoạch giảm nghèo bền vững dựa trên chương trình
của Chính phủ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành để đánh giá nghèo đa chiều và
giảm nghèo bền vững; cách tiếp cận các chính sách cơng để hệ thống hóa cơ
sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo; đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững tại xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh
An Giang trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về chính sách giảm nghèo bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
Sử dụng phương pháp điều tra: phân tích số liệu để đưa ra những nhận
định, đánh giá và đề xuất giải pháp cho thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu sơ cấp: thu thập và tìm kiếm thông tin từ một

số sách báo, mạng Internet và các cơng trình nghiên cứu khác.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học của công tác thực
hiện về giảm nghèo bền vững. Vận dụng vào công tác thực hiện về giảm
nghèo bền vững trên địa bàn xã Vĩnh Nhuận. Đánh giá thực trạng cơng tác
thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền vững của xã trong thời gian qua,
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động thực
hiện về giảm nghèo bền vững của xã Vĩnh Nhuận.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp một tài liệu thiết thực, ý nghĩa cho đội ngũ cán bộ,

5


cơng chức hoạt động trong lĩnh vực giảm nghèo nói chung và các nhà hoạch
định chính sách giảm nghèo bền vững của xã Vĩnh Nhuận nói riêng, từ đó có
thể góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền
vững của xã Vĩnh Nhuận cũng như trên các địa phương khác.
Luận văn cũng có thể là một tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai
quan tâm nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên
địa bàn các xã vùng xa, xã đặc thù về sản xuất nông nghiệp.
7.
Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được chia
thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại xã

Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành,
tỉnh An Giang.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG
1.
Khái niệm về Xóa đói, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, Khái
niệm chính sách và thực hiện chinh sách về giảm nghèo bền vững.
Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất
đáng báo động, là một trong những nguyên nhân đang trực tiếp đe dọa đến sự
tồn vong và phát triển của loài người. Do đó, Giảm đói nghèo là một trong
những vấn đề quan tâm của toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua cũng như trong
nhiều năm tới và cũng là một mục tiêu hàng đầu của các nước, đặc biệt là các
nước đang phát triển.
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư khơng có khả năng thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu đó phụ thuộc vào
trình độ phát triển KTXH, phong tục, tập quán của từng vùng và những phong
tục ấy được xã hội thừa nhận.
Ở nước ta, đói và nghèo được chia thành hai khái niệm:
-

Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức

tối thiểu, thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì sự sống. Là

tình trạng con người khơng có cái ăn, ăn khơng đủ dinh dưỡng tối thiểu cần
thiết hằng ngày và không đủ sức để tái sản xuất sức lao động. Về mặt năng
7


lượng, nếu trong một ngày, con người chỉ được thõa mãn mức 1500 cal/ngày
thì đó là thiếu đói, dưới mức đó là gay gắt.
-

Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thõa mãn

một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống, có mức sống thấp hơn trung
bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Họ phải vật lộn với mưu sinh
hằng ngày và kinh tế vật chất, trực tiếp nhất ở bữa ăn; họ không thể vươn tới
các nhu cầu về văn hóa – tinh thần, hay phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất
hoặc gần như khơng có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn Việt nam với hiện
tượng trẻ em bỏ học, thất học, các hộ nông dân nghèo khơng có khả năng để
hưởng thụ văn hóa, y tế chữa bệnh khi ốm đau, không đủ nhu cầu mặc, nhà
ở... phần tích lũy hầu như khơng có.
-

Xóa đói: là làm cho bộ phận dân cư nghèo từng bước nâng cao mức

sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để
duy trì cuộc sống.
-

Giảm nghèo: chính là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức

sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ đánh giá và số

lượng người nghèo giảm xuống, nói cách khác, là một quá trình chuyển một
bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
- Giảm nghèo bền vững: là kiên quyết khơng để tái nghèo, là tình trạng
dân cư đạt được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập
cao hơn chuẩn nghèo và duy trì được mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó
ngay cả khi gặp các cú sốc hay rủi ro, trong đó tập trung vào các hoạt động hỗ
trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo có tư liệu và phương tiện sản
xuất, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (như y tế, giáo dục, nước
sạch…), bảo đảm an ninh lương thực ở cấp hộ gia đình, nâng cao thu nhập để
tự vượt qua nghèo đói; giảm thiểu rủi ro do thiên tai, bão lụt và tác động tiêu
cực của quá trình cải cách kinh tế, bảo đảm thốt nghèo bền vững hay khơng
8


tái nghèo.
-

Chính sách: là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa do chủ thể là cơ

quan quyền lực hoặc cơ quan quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc
một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện
một mục tiêu ưu tiên nhất định trong chiến lược phát triển của một quốc gia,
một khu vực hành chính, một doanh nghiệp... theo định nghĩa khác, Chính
sách là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay khơng làm với
tính tốn và chủ đích rõ ràng, có tác động đến người dân...
Như vậy, phân tích khái niệm cho thấy “chính sách” là do một chủ thể
quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra. Chính sách được ban hành căn cứ vào
đường lối chính trị chung và tình hình thực tế, nhắm đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó.
-


Thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền vững: là sự tác động có tổ

chức và bằng quyền lực nhà nước tới các hoạt động giảm nghèo,cụ thể như
hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giảm nghèo; hoạch
định và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án giảm
nghèo; huy động mọi nguồn lực tài chính để đầu tư cho các chương trình dự
án giảm nghèo; hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát, tổng kết, đánh giá
việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo. Qua đó, góp
phần giúp người nghèo nâng cao mức sống, từng bước thốt khỏi tình trạng
nghèo và vươn lên thốt nghèo bền vững.
Về cơ bản, giải quyết đói nghèo cần đảm bảo cả về số lượng lẫn chất
lượng, số lượng giảm nghèo sẽ tuyệt đối hộ nghèo giảm được trong một thời
gian (theo từng giai đoạn từ 1- 5 năm). Chất lượng giảm nghèo là khái niệm
chỉ thực chất của kết quả giảm nghèo, mà vấn đề cần đạt được là đời sống
người nghèo được nâng lên sau khi có tác động hỗ trợ, thu hẹp khoảng cách
thu nhập với các nhóm dân cư khác, khi gặp rủi ro, bất trắc sẽ không bị rơi lại
9


vào tình trạng nghèo đói. Hay nói cách khác, chất lượng giảm nghèo phản ánh
tính bền vững của q trình giảm nghèo.
Theo các nhà nghiên cứu, chuyên gia về kinh tế - xã hội, lao động - việc
làm: để giảm nghèo bền vững cần hỗ trợ phát triển kinh tế hạ tầng, hỗ trợ đào
tạo nghề cũng như các điều kiện tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế dựa vào các
nguồn lực sẳn có của địa phương, của cộng đồng để người nghèo, hộ nghèo
có thể tự vươn lên thốt nghèo.
Theo PGS, TS Trần Đình Thiên: “khơng thể giúp người nghèo bằng cách
tặng nhà, tặng phương tiện sống. Đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh
nhưng chỉ tức thời, khơng bền vững; muốn giảm nghèo bền vững thì Nhà

nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát
triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ,
ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục
hậu quả sau rủi ro… Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập
trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thốt nghèo
nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận”. Khái niệm trên có nghĩa rằng,
chúng ta tặng “cần câu” thay vì tặng “con cá”, và tạo ra động lực thúc đẩy để
người dân người dân chủ động trong việc thốt nghèo bằng chính năng lực
của mình chứ khơng chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của các nhà hảo tâm, cộng
đồng. Bên cạnh đó, việc xây dựng các chính sách hỗ trợ, xây dựng các biện
pháp để phòng ngừa các rủi ro không mong muốn từ các yếu tố con người, xã
hội, tự nhiên mang lại, việc này đóng vai trị cực kì quan trọng để giúp cho
người nghèo có thể chuyển đổi phương thức sản xuất khi phương thức cũ
khơng cịn phù hợp, có thể tìm được việc làm mới, tạo ra được nguồn thu
nhập bổ sung... Ngoài ra, những chương trình giảm nghèo đặc thù cho những
đối tượng cụ thể, một số vùng nhằm tạo sức lan tỏa là hết sức cần thiết trong
điều kiện nguồn lực hạn chế của chúng ta hiện nay. Do vậy, quan điểm giảm
10


nghèo bền vững ở nước ta chính là cần nắm bắt các xu hướng và đặc điểm
vận động của các nhân tố tác động đến chất lượng của giảm nghèo và giải
quyết đồng thời tất cả những vấn đề, bất cập nêu trên.
Chính sách XĐGN là sự cụ thể hóa Nghị quyết, chủ trương, đường lối
của Đảng bằng những quyết định, quy định của nhà nước nhằm giải quyết các
vấn đề về đói nghèo. Nó phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng, của
các nhóm xã hội nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bộ phận dân cư
nghèo đói, đảm bảo quyền con người và an tồn xã hội cho người nghèo, tạo
sự phát triển bình thường cho người nghèo cũng như cho toàn xã hội. Chính
sách XĐGN được thiết kết theo một cấu trúc cụ thể: Phạm vi và đối tượng của

chính sách; mục tiêu của chính sách; giải pháp của chính sách; nguyên tắc chỉ
đạo thực hiện chính sách; nguồn vốn thực hiện chính sách, cơ quan quản lý và
thực hiện chính sách; thời gian triển khai chính sách.
2. Các tiêu chí đánh giá hộ nghèo
Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg, ngày 19/11/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016 – 2020. Theo đó, chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo được xác định
như sau:
Hộ nghèo ở nơng thơn: là hộ có mức thu nhập bình quân từ
700.000đ/
người/tháng (từ 8.400.000đ/năm) trở xuống;
từ

Hộ nghèo ở thành thị: là hộ có mức thu nhập bình quân

900.000đ/người/ tháng (từ 10.800.000đ/năm) trở xuống;
-

Hộ cận nghèo ở nông thơn: là hộ có mức thu nhập bình qn từ

700.000đ đến 1.000.000đ/người/tháng và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường
mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản;
-

Hộ cận nghèo ở thành thị: là hộ có mức thu nhập bình qn từ


11



900.000đ đến 1.300.000đ/người/tháng và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường
mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Theo Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn quy trình rà sốt hộ nghèo, hộ cận
nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016-2020, theo đó hộ thốt nghèo bao gồm:
-

Hộ thoát nghèo và trở thành hộ cận nghèo;

Hộ thoát nghèo vượt qua mức chuẩn hộ cận nghèo là hộ có thu nhập
bình quân đầu người/tháng từ mức sống trung bình trở lên (tiêu chí xác định
mức sống trung bình theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Quyết định số
59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ).
Cụ thể, được rà soát, điều tra hàng năm theo quy định:
Hộ thoát nghèo khu vực thành thị:
+
Hộ thoát nghèo vượt qua chuẩn cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên
175 điểm;
+
Hộ thốt nghèo, nhưng vẫn còn là hộ cận nghèo là hộ có tổng điểm
B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;
Hộ thốt nghèo khu vực nơng thơn:
+
Hộ thốt nghèo vượt qua chuẩn cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên
150 điểm;
+
Hộ thốt nghèo nhưng vẫn là hộ cận nghèo là hộ có tổng điểm B1
trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;
Hộ thoát cận nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1

trên 175
điểm;
Hộ thốt cận nghèo khu vực nơng thơn là hộ có tổng điểm B1 trên
150 điểm.
3.

Chủ thể thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền vững

Chủ thể để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững là cơ quan nhà
nước, được chia thành 4 cấp từ Trung ương đến địa phương, cụ thể:
12


-

Cấp Trung ương: Chính phủ thống nhất quản lý chung, Bộ LĐTB&XH

là cơ quan chủ trì thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững quốc gia,
đồng thời phối hợp với các bộ ngành liên quan trong việc tổ chức, điều hành
và thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động giảm nghèo bền vững.
-

UBND cấp tỉnh: UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

chịu trách nhiệm thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững tại địa phương;
lập kế hoạch và lồng ghép các hoạt động giảm nghèo, phê duyệt các kế hoạch,
dự án giảm nghèo thuộc thẩm quyền; huy động và quản lý kinh phí, điều phối
và chỉ đạo thực hiện các hoạt động giảm nghèo tại địa phương với sự hỗ trợ,
tham mưu của Sở LĐTB&XH, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban
Dân tộc và các sở ban, ngành liên quan; chỉ đạo xây dựng và phê duyệt kế

hoạch giảm nghèo hàng năm của huyện; hàng năm tổ chức giám sát, đánh giá
kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo gửi Bộ LĐTB&XH tổng hợp báo
cáo Chính phủ.
-

UBND cấp huyện: UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chủ trì và

phối hợp với Sở LĐTB&XH, căn cứ vào những văn bản của Chính phủ và
UBND tỉnh để rà sốt chính xác số hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm trên địa
bàn; đánh giá đúng thực trạng giảm nghèo của địa phương, phân tích rõ
nguyên nhân nghèo đói của từng xã, ấp, từng hộ gia đình để có giải pháp hỗ
trợ hiệu quả; căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế chính sách định mức, tiêu
chuẩn của Nhà nước để xây dựng đề án hỗ trợ giảm nghèo bền vững trên địa
bàn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; xây dựng bản đồ thơng tin nghèo của
địa phương để phân tích diễn biến nghèo, xác định những xã có tỉ lệ nghèo
cao, những địa bàn trọng điểm nhằm tập trung nguồn lực đầu tư có hiệu quả;
cùng với nguồn vốn của Trung ương, ngân sách tỉnh, các huyện, thành phố
(thuộc tỉnh), thị xã cần tổ chức huy động các nguồn lực, vận động sự tham gia
của các doanh nghiệp trên địa bàn để tổ chức thực hiện tốt hoạt động giảm
13


nghèo bền vững.
-

UBND cấp xã: Là đầu mối thực hiện các kế hoạch, dự án giảm nghèo;

huy động sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở vào việc thực hiện giảm
nghèo; hàng năm, tiến hành rà sốt, bình xét hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa
bàn, báo cáo cấp trên về thực trạng đói người trên địa bàn.

4.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách về giảm nghèo
bền vững.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức triển khai thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững, cả về tích cực và tiêu cực; trong đó có cả
những nhân tố thuộc về quản lý của nhà nước, nhân tố thuộc về chính các đối
tượng của chính sách và những nhân tố kinh tế - xã hội khác.
-

Thứ nhất, về nhận thức: quan trọng đầu tiên là quan điểm, nhận thức

của các cơ quan cũng như của các địa phương trong việc đề xuất, xây dựng
các chính sách, chương trình thích hợp cũng như việc thực hiện các chính
sách đó. Chỉ có nhận thức đúng đắn, thống nhất của các chủ thể hoạch định và
thực thi chính sách mới tạo cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách
trong thực tiễn. Nhận thức về giảm nghèo bền vững khác nhau dẫn đến cơ chế
thực hiện khác nhau, mức độ quan tâm, ưu tiên khác nhau. Cụ thể như có
những cơ quan quản lý nhà nước cho rằng tập trung ưu tiên phát triển cơ sở hạ
tầng ở các vùng nghèo là điều kiện để giảm nghèo bền vững mà khơng hiểu
đó là trách nhiệm của nhà nước nên đã biến cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng theo
kiểu ban phát, xin – cho, dẫn đến thất thốt, lãng phí, kém hiệu quả, sử dụng
các nguồn lực một cách bất hợp lý gây thiệt hại, thậm chí làm giảm đi khả
năng của người nghèo địa phương mình. Do đó cần phải chỉ ra rõ ràng, cần
phải bám sát nội dung, quan niệm của giảm nghèo bền vững cho dù ở các địa
phương, vùng miền có thể có những cách làm khác nhau.

14


-


Thứ hai, nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách, chương trình, dự án

giảm nghèo.
+
Ở nước ta, kinh phí để thực hiện giảm nghèo được cân đối chủ
yếu từ
nguồn ngân sách nhà nước đóng vai trị chủ đạo. Đồng thời huy động các
nguồn lực của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và sự đóng góp của
các quỹ từ thiện của quốc tế và cũng như các mạnh thường quân trong và
ngoài nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu ngân sách tăng là
một trong những yếu tố tài chính đảm bảo nguồn lực cho giảm nghèo, nếu chi
tiêu cho giáo dục, y tế, dạy nghề, các chính sách đầu tư phát triển KT-XH của
Nhà nước chưa cân đối giữa các cấp hành chính, giữa các vùng miền, giữa các
ngành kinh tế thì tính bền vững của giảm nghèo sẽ bị hạn chế.
+ Dành tỷ lệ đầu tư lớn cho nông nghiệp và khu vực nơng thơn cũng có
tác động tích cực đến giảm nghèo. Ngoài việc tập trung đầu tư cho thủy lợi,
các trục cơng nghiệp chính, chính sách đầu tư nếu chú trọng vào các ngành
công nghiệp thu hút nhiều lao động gắn với khuyến khích kịp thời phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo động lực tốt cho giảm nghèo; Đối với các
chính sách tín dụng, trợ giá, trợ cước nếu chưa đủ mạnh và không đúng đối
tượng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn; Việc tập
trung đầu tư vào phát triển giao thơng, đường xá đến các vùng sâu, vùng xa sẽ
có tác động ảnh hưởng khơng nhỏ tới q trình phát triển kinh tế hàng hóa ở
các địa phương, vùng miền.
+

Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm

nghèo, song mặt khác cũng làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói. Q

trình hội nhập quốc tế và khu vực một mặt đem lại những sự trợ giúp về tài
chính trong XĐGN từ các thiết chế tài chính, tín dụng và chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ. Những nguồn lực này nếu được sử dụng tốt, cùng với các
chương trình mang tính trợ giúp kỹ thuật, điều kiện kết cấu hạ tầng, nâng cao
15


dân trí... sẽ có vai trị hỗ trợ tích cực đối với giảm nghèo bền vững.
+

Nguồn nhân lực là một yếu tố đóng vai trị rất quan trọng đối với công

tác XĐGN. Để thực hiện đồng bộ, hiệu quả hệ thống các chương trình giảm
nghèo rất cần có đội ngũ cán bộ có chun mơn phù hợp, có tinh thần trách
nhiệm cao, phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch từ trung ương tới cơ sở.
- Thứ ba, về công tác tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá
việc thực hiện các chương trình giảm nghèo: Thực tế cho thấy để giảm nghèo
bền vững, cần tác động tới người nghèo bằng một hệ thống chính sách,
chương trình đồng bộ có tính lồng ghép cao, như: Chương trình 135, Nghị
quyết 30a của Chính phủ có đã tác động tích cực, nhanh chóng đến những
huyện, xã nghèo, hộ nghèo trong một khoảng thời gian ngắn, tạo tiền đề trong
công cuộc giảm nghèo của các địa phương nói riêng cũng như cả nước nói
chung. Việc thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình, dự án giảm
nghèo, tránh sự chồng chéo và việc thiết lập hệ thống chỉ tiêu, phương pháp
đánh giá phù hợp cũng rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của
công tác giảm nghèo. Nhà nước với vai trị quản lý vĩ mơ, hồn tồn có thể
kiểm sốt và đưa ra những chính sách tác động nhiều chiều đến giảm nghèo,
tuy nhiên, cần có một hệ thống chính sách, chương trình, dự án vừa khuyến
khích, tạo động lực cho giảm nghèo bền vững gắn với tăng trưởng kinh tế,
hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo vừa bảo đảm cho người nghèo và nhóm có

thu nhập thấp được hưởng lợi nhiều hơn từ thành quả phát triển kinh tế.
Ngồi ra, cịn có các yếu tố đặc thù của địa phương ảnh hưởng đến quá
trình giảm nghèo bền vững như:
- Điều kiện tự nhiên:
+ Vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp lên các nguồn lực của phát triển,
như tín dụng, KHKT và cơng nghệ, thị trường, lựa chọn địa điểm xây dựng cơ

16


sở hạ tầng cũng như phân bố các ngành, các cấp và các hình thức tổ chức lĩnh
vực nơng nghiệp, cơng nghiệp, ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành, phát triển
và phân bố các loại hình giao thơng vận tải, đặc biệt phục vụ cho công tác an
ninh quốc phịng.
+ Đất đai: Theo các kết quả điều tra, thì thiếu đất canh tác hay đất đai
khơ cằn khó canh tác cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến cảnh túng thiếu
của người dân.Vấn đề thiếu đất sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng
lúa) ngày càng mang tính trầm trọng đồng thời dân số tăng nhanh trong khi
đất nơng nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp làm cho rất nhiều hộ nông dân
không đủ tiềm lực để phát triển. Ở vùng biển, biên giới, hải đảo khơng có đất
trồng lúa, đây là nhân tố tác động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi
là một trong những yếu tố cơ bản làm cho những hộ này bị nghèo bền vững.
+ Khí hậu và thời tiết: ở những địa phương có khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai (bão, lũ lụt, hạn hán…), điều kiện thiên nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và đời sống của nhân dân. Tác hại của thiên tai rất lớn, nó ln là kẻ thù
đồng hành nghèo đói, dịch bệnh… nó có thể cướp đi tài sản, tính mạng con
người và hậu quả để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát
mà phải trải quá trình và nhiều năm.
- Điều kiện xã hội:
+


Dân số: Việc gia tăng dân số tự nhiên quá nhanh, quy mô dân số lớn,

sẽ tạo sức ép lên nhiều mặt của đời sống xã hội, việc làm và chính sách hoạt
động XĐGN. Mặt khác, khi các chi phí cho giáo dục, phúc lợi xã hội, y tế
tăng lên sẽ cản trở đến quá trình phát triển.
+

Lao động: Người lao động là lực lượng sản xuất của nền kinh tế thị

trường, sự phân bố dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng rất lớn tới việc phát
triển khu vực, là lực lượng chủ yếu tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra của xã hội.

17


Việc cải thiện đời sống của nhân dân nhằm nâng cao sức mua cũng là nhân tố
kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất.
+

Văn hóa: có chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống

xã hội, chi phối các hành vi của mỗi người và tồn xã hội. Trình độ văn hố
thấp, sẽ là rào cản đối với công cuộc giảm nghèo, từ thực trạng đói nghèo sẽ
nảy sinh các vấn đề xã hội, làm thay đổi nhân cách con người đi vào lối sống
tự ti, buông thả, sùng bái những tư tưởng lạc hậu, hoang man dẫn đến đẩy lùi
văn minh xã hội.
+ Tôn giáo, tín ngưỡng đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống người dân.
Ảnh hưởng tích cực của các tơn giáo là ngoài việc truyền đạo đã đặc biệt chú
trọng hơn đến việc hỗ trợ, giúp đỡ các tín đồ làm ăn phát triển kinh tế, thường

xuyên có những hoạt động từ thiện hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào trong những lúc
hoạn nạn khó khăn, thiên tai lũ lụt…ít nhiều cũng góp phần cùng với chính
quyền địa phương giải quyết những khó khăn cấp bách trước mắt về kinh tế
cho đồng bào. Bên cạnh đó, sự xuất hiện và xâm nhập của một số tôn giáo,
đặc biệt là các tôn giáo xuất phát từ phương Tây vốn có những nét khác biệt
với nền văn hố, nét sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống, dẫn đến hệ lụy là phá
vỡ trật tự cộng đồng; nghiêm trọng hơn có thể gây chia rẽ, phân hoá sâu sắc
trong nội bộ nhân dân giữa người theo đạo với người không theo đạo. Nếu
như Tôn giáo bị lợi dụng thì sẽ làm ảnh hưởng xấu đến đời sống cũng như
việc thực hiện các chính sách giảm nghèo của nhà nước, cũng như tiềm ẩn các
nguy cơ đối với cộng đồng xã hội.
+

Dân tộc: Giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn là

nhiệm vụ quan trọng trong cơng cuộc xóa đói giảm nghèo.
+

Với các thói quen, tập quán sản xuất cũ; những quan niệm lệch lạc,

cùng với tư tưởng bảo thủ, cổ hủ, không chịu tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm
làm ăn mới... cũng là một trong những nguyên nhân khiến người nghèo, đồng
18


bào dân tộc không thể vươn lên trong phát triển sản xuất, kinh doanh và thoát
nghèo đồng thời tác động, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện pháp luật, đảm
bảo an ninh trật tự xã hội và làm kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương.
-


Điều kiện kinh tế: Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng

thấp kém, khơng có thị trường, thị trường hoạt động yếu kém hay thị trường
không đầy đủ cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của dân cư.
Ngồi ra, trong sản xuất trồng trọt, hệ thống kênh mương, cống đập, hệ thống
tưới tiêu còn hạn chế (tạm bợ, xuống cấp…) tác động trực tiếp đến sản lượng
năng suất cây trồng; Cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học,
trạm y tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng
hoá) chưa đầy đủ cũng là nguyên nhân của sự chậm phát triển, đặc biệt là các
nhóm dân tộc thiểu số, dân cư nghèo càng ít có cơ hội tiếp cận với những dịch
vụ ngân hàng.
- Trình độ học vấn và ý thức của người nghèo:
+

Trình độ học vấn: Trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến quá trình nhận

thức của một bộ phận người nghèo và làm hạn chế khả năng kiếm việc làm có
thu nhập cao và ổn định trong các ngành phi nông nghiệp và trong các khu
vực khác. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới ngày càng phát
triển ở khu vực ngoại thành là cơ hội nhưng đồng thời đây cũng là thách thức
lớn đối với người nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp, họ khó có thể tìm
được việc làm tốt hơn. Nếu tìm được chỗ làm cũng chỉ là lao động phổ thơng,
từ đó ảnh hưởng đến hoạt động giảm nghèo bền vững.
+

Ý thức của một bộ phận người nghèo chưa cao, vẫn cịn tư tưởng trơng

chờ, ỷ lại vào Nhà nước nên việc thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà
nước còn hạn chế và gặp khó khăn; việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở cịn

mang tính hình thức, chưa phát huy nội lực trong nhân dân.
19


-

Sự phát triển của khoa học và công nghệ: Khoa học và cơng nghệ nó

trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động,
giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ
chất xám trong cấu tạo sản phẩm… Khoa học và công nghệ luôn là lực lượng
sản xuất số một, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
5. Nội dung thực hiện các chính sách về giảm nghèo bền vững
5.1. Chính sách của nhà nước
Chính sách của Nhà nước là định hướng hành động được nhà nước lựa
chọn, phù hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của
xã hội trong một thời kỳ nhất định. Chính sách có vai trị to lớn trong hoạt
động quản lý xã hội của nhà nước về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nếu chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương sẽ có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển KT-XH góp phần thúc đẩy hộ nghèo vươn lên
thốt nghèo, làm giảm tỷ lệ hộ nghèo. Còn ngược lại, sẽ tạo ra cản trở sự phát
triển KT-XH của địa phương, gây lãng phí nhân lực, tiền của cũng như làm
cho người nghèo đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Năng lực tổ chức, quản lý của chính quyền địa phương trong hoạt động
giảm nghèo bền vững: thường bị bỏ qua và chậm đổi mới, thể hiện ở các mặt
sau:
-

Thứ nhất, tính chất và mức độ “hành chính quan liêu” trong các cấp đã


ảnh hưởng đến thực hiện những chủ trương, chính sách XĐGN, giải quyết vấn
đề đói nghèo trong thời gian qua, biểu hiện ở các hoạt động:
+

Cứu trợ dân nghèo trong các đợt thiên tai bão lụt ở một số nơi rất chậm

trễ, làm tình trạng đói nghèo kéo dài cục bộ và lan rộng.
+

Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc, đưa vào

diện hộ nghèo những hộ khơng nằm trong tiêu chí nghèo, dựa vào quan hệ

20


thân quen, họ hàng, thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo được
hưởng.
-

Thứ hai, tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong q trình triển khai

các dự án KTXH, do chất lượng thấp trong xây dựng nên các dự án khơng có
khả năng hồn vốn, rủi ro cao, thời gian thực hiện kéo dài.
-

Thứ ba, tình trạng tham nhũng tác động không chỉ đến chất lượng và

hiệu quả phát triển mà còn trực tiếp đến đời sống nhân dân. Hiện tượng tham
nhũng xuất hiện cả trong lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, thậm chí cả trong dự

án xóa đói, giảm nghèo, cùng với những tác động tiêu cực của các dự án xây
dựng, nhất là các dự án sử dụng nhiều đất đai, làm cho vấn đề đói nghèo và ổn
định xã hội trở thành khó giải quyết.
Trong thời gian qua, thực hiện Chương trình 135 cũng như hỗ trợ giải
quyết đói nghèo đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo, nhưng con số nghèo ở nơng
thơn và đơ thị vẫn cịn cao. Nếu về mặt tổ chức, quản lý nhà nước khơng khắc
phục tình trạng hành chính quan liêu, lãng phí, tham nhũng thì các mục tiêu
giảm nghèo sẽ khó đạt được trong thời gian tới.
5.2. Chiến lược lập quy hoạch, kế hoạch để thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, XĐGN về kinh tế là điều
kiện tiên quyết để xố đói giảm nghèo về văn hóa, xã hội, vì vậy phải tiến
hành thực hiện xố đói giảm nghèo cho các hộ nơng dân sinh sống ở vùng
cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ,
nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh lạc hậu lỗi thời, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nơng nghiệp trên tồn quốc theo hướng
sản xuất hàng hố, phát triển cơng nghiệp nơng thơn, mở rộng thị trường, tạo
việc làm tại chỗ, thu hút lao động ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ công

21


×