Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương tại khu bảo tồn thiên nhiên na hang tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.66 KB, 104 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường Đại học Lâm nghiệp

Ngô Ngọc Tuyên

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương
đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên
Na Hang tỉnh Tuyên Quang

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây, năm 2007


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường Đại học Lâm nghiệp

Ngô Ngọc Tuyên

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương
đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên
Na Hang tỉnh Tuyên Quang
Chuyên ngành: Lâm học
MÃ số: 60.62.60


Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Bá NgÃi

Hà Tây, năm 2007



1

Đặt vấn đề
Sự tồn tại của xà hội loài người liên quan mật thiết đến các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như: Nước, không khí, khoáng sản, động vật và thực vật.
Nhu cầu cơ bản và sự sống còn của con người phụ thuộc vào các nguồn tài
nguyên đó. Song, con người đà mắc phải những sai lầm là khai thác, tàn phá
thiên nhiên một cách nghiêm trọng. Hậu quả là số loài sinh vật ngày càng giảm
về số lượng và chất lượng, các hệ sinh thái động thực vật bị phá vỡ, suy thoái,
giông bÃo, lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra.
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên nhằm mục tiêu phát triển
bền vững là vấn đề mang tính chất toàn cầu, vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
Trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đà sớm có những nỗ lực trong công
tác bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học. Ngay từ năm 1962, Vườn
quốc gia Cúc Phương đà được thành lập. Sắc lệnh Bảo vệ rừng và quyết định
thành lập mạng lưới kiểm lâm nhân dân được ban hành năm 1972. Chiến lược
bảo tồn quốc gia năm 1985. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991. Sắc lệnh
của chính phủ về việc bảo vệ và quản lý những loại động thực vật quý hiếm năm
1993. Thời gian gần đây, Việt Nam là một trong những nước có bước tiến tích
cực trong công tác bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học. Năm
1994, Việt Nam đà chính thức tham gia công ước Quốc tế về bảo vệ đa dạng
sinh học. Ngày 22 tháng 12 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đà ký quyết định

phê duyệt Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Việt Nam. Quyết định số
186/2006/QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý
rừng ngày 14/8/2006, đà thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg ngày
11/1/2001. Luật đất đai năm 2003. Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm
2004là những cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta thực hiện công cuộc bảo
tồn ®a d¹ng sinh häc [23], [32], [34], [41].


2

Đến nay, Việt Nam đà có 128 khu rừng đặc dụng được thành lập với tổng
diện tích trên 2,5 triệu ha bao gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
khu bảo vệ cảnh quan [37]. Hệ thống các khu bảo tồn đà và đang góp phần tích
cực vào sự nghiệp bảo tồn đa dạng sinh học, gìn giữ nguồn gen động thực vật
rừng, nơi nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam
thắng cảnh...Bên cạnh chức năng bảo tồn đa dạng sinh học, các khu bảo tồn còn
là nơi lưu trữ các vật liệu thiên nhiên cho sự phát triển của các ngành y tế, giáo
dục, nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và du lịch. Gìn giữ các chức năng tự
nhiên của hệ sinh thái, bảo vệ đất đai, điều hoà khí hậu, đảm bảo chất lượng
cuộc sống cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Mặc dù hệ thống các khu bảo tồn đang gìn giữ những giá trị không thể
thay thế được như vậy, nhưng quản lý các khu bảo tồn đà và đang gặp rất nhiều
khó khăn từ phía người dân địa phương. Việc thành lập các KBTTN luôn có xu
hướng làm thay đổi lớn tới cuộc sống của họ. Bắt đầu từ những thay đổi về vị trí
nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, nguồn sản phẩm sẵn có ở rừng,
dẫn tới nhiều thay đổi khác về tập quán canh tác, sinh kế, văn hoá... TNR là
nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần rừng bao đời nay, giờ đây
dường như đà không còn là của họ. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu
nhập khác chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đà gây ra
mâu thuẫn giữa KBTTN và người dân địa phương sống phụ thuộc vào nguồn

TNR. Do đó, việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào TNR là một
tất yếu.
Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang được thành lập theo quyết định số
274/QĐ - UB ngày 09/05/1994 của UBND tỉnh Tuyên Quang nhằm mục đích
ban đầu là bảo vệ loài Voọc mũi hếch (Pygathrix avunculus) được xem là loài
đang bị đe doạ tuyệt chủng trên toàn cầu. Khu bảo tồn nằm trên địa bàn hành
chính của 5 xÃ: Thanh Tương, Vĩnh Yên, Sơn Phú, Khau Tinh, Côn Lôn thc
hun Na Hang tØnh Tuyªn Quang víi tỉng diƯn tÝch khi thµnh lËp lµ 41.930 ha,


3

đến năm 1998 Ban quản lý KBTTN Na Hang được chuyển thành Hạt kiểm lâm
Rừng đặc dụng Na Hang theo quyết định số 1115/QĐ - UB ngày 09/11/1998
của UBND tỉnh Tuyên Quang với tổng diện tích là 36.646 ha. Ngy 19/04/2002
chính phủ Việt Nam đà phê duyệt dự án Thủy Điện Tuyên Quang, xây dựng
một con đập tại điểm giao nhau giữa hai con sông: Sông Gâm và sông Năng
thuộc huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang. Con đập đà làm ngập và biến vùng
thượng lưu sông Gâm và sông Năng bao gåm mét phÇn diƯn tÝch cđa KBTTN
Na Hang trë thành vùng lòng hồ. Đến nay, diện tích KBTTN Na Hang được
điều chỉnh theo quyết định ngày 31/12/2006 của UBND tỉnh Tuyên Quang,
KBT nằm trên địa bàn hành chính của 4 xÃ: Côn Lôn, Khau Tinh, Sơn Phú và
Thanh Tương với tổng diện tích tự nhiên là 37.298 ha [1], [3].
Tại đây, có khu hệ động thực vật phong phú, đặc trưng bởi hệ sinh thái
rừng trên núi đá vôi vùng Đông Bắc Việt Nam. Cho đến nay đà xác định được
1162 loài thực vật [26], trong đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ như Trai,
Mun, Nghiến, Lát hoa, Đinh, Thông tre, Hoàng đàn, Trầm gió... ĐÃ ghi nhận
được 90 loài thú, 263 loài chim, 61 loài bò sát, 35 loài ếch nhái, 219 loài bướm,
trong đó có nhiều loài quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ như
Voọc mũi hếch, Voọc đen má trắng, Cầy vằn, Gấu chó, Gấu ngựa, Vạc tai

trắng, Kỳ nhông Tam đảo, Cu li nhỏ [1]. Có 4 dân tộc chính là Tày, Dao, Kinh,
H'mông, ngoài ra còn có các dân tộc Nùng, Mường, Sán Chỉ, Cao Lan và Hoa
với số lượng ít. Họ sinh đà sinh sống ở đây từ lâu đời với các tập quán truyền
thống như đốt nương làm rẫy, du canh du cư, săn bắn động vật, chặt gỗ, lấy củi,
thu lượm các sản phẩm của rừng. Đời sống của người dân chủ yếu dựa vào TNR
là chính. Trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc hậu, chưa có biện pháp sử
dụng đất hợp lý, cùng với sức ép về nhu cầu lương thực, thực phẩm, gỗ, củi
ngày càng gia tăng là những nguyên nhân tác động mạnh mẽ tới TNR của
KBTTN, gây suy giảm nghiêm trọng đa dạng sinh học của khu bảo tån.


4

Trước thực trạng trên, với sự đóng góp tích cực của các ngành hữu quan
như Chi cục kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang, Sở nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng Na Hang, cùng các cấp chính quyền địa
phương, đà có nhiều biện pháp tích cực nhằm bảo vệ, sử dụng và phát triển bền
vững TNR. Song, nguồn TNR tại KBTTN vẫn bị xâm hại. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu là thiếu sự tham gia của người dân địa phương trong các
hoạt động quản lý bảo tồn TNR.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi lựa chọn đề tài: Nghiên cứu tác
động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiªn
nhiªn Na Hang tØnh Tuyªn Quang”. Víi mong mn gãp phần vào công cuộc
bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển bền vững TNR tại KBTTN Na Hang.


5

Chương 1


Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Tổng quan vấn ®Ị nghiªn cøu trªn thÕ giíi
Trªn thÕ giíi, céng ®ång quốc tế đà có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực
làm thay đổi chiến lược bảo tồn từ đầu thập kỷ 1980. Một chiến lược bảo tồn
mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hoá trong quá trình xây dựng các quyết định.
Phần lớn các khu bảo tồn đều được thiết lập vì mục đích Quốc gia, mà ít
nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mô
hình của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao
gồm việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác
TNR. Phương thức này gọi là biện pháp "Rào và phạt". Tại các nước Đông
Nam Châu á phương thức này tỏ ra không thích hợp vì để duy trì sự đa dạng
sinh học thì người dân địa phương bị mất qun tiÕp cËn víi ngn TNR,
trong khi sù phơ thc của họ vào TNR là rất lớn [39].
ở Đông Nam Châu á, sự tham gia của người dân địa phương vào công
tác bảo tồn đa dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả.
Lý do để khuyến khích sự tham gia này là: Nỗ lực của các cơ quan chính phủ
nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đà không mang lại kết quả như mong
muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xà hội. Việc đưa người dân
vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khác nào "Bắt cá
khỏi nước" và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà
không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đà tỏ ra có hiệu
quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [39].


6


Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các
KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô hình
quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa
phương. ở VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được
chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp
pháp của VQG và được tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ
trong ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc
sống gắn với săn bắn cổ truyền [9], [22].
ở Thái Lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới
60%, nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%. Hơn 170.000 km2 rừng bị tàn
phá. Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái Lan (The Royal Forest
Department) thành lập khu bảo tồn để bảo vệ diện tích rừng còn lại. Điều này
dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương. Một thử nghiệm của Dự án
Quản lý rừng bền vững thông qua sù céng t¸c” (Sustainable Forest
Management through Collaborative efforts’ Project) thùc hiện tại Phu Kheio
Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra
rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia
của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa
phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [44].
Cũng tại Thái Lan, các nguyên tắc được lập ra trong công tác quản lý tài
nguyên thiên nhiên và kế hoạch phát triển kinh tế xà hội quốc gia năm 1992 1996 là: "Khuyến khích người dân cộng tác với chính phủ, trong bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên thông qua việc đề cao vai trò của các tổ chức nhân dân, tổ
chức phi chính phủ, từ trung ương đến địa phương. Trong việc quyết định các
dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như trong việc theo dõi, giám sát và
đánh giá thành công của dự án này". Nhận rõ sự cần thiết phải xem xét điều
kiện kinh tế, xà hội xung quanh KBT, các nhà quy hoạch quản lý KBT đà bắt
đầu đề xuất và thiết lập các vùng đệm để ngăn chặn sự xâm hại từ bên ngoài
vào các KBT [39].



7

Tại Nêpan Apple Gate, G.B và Gilmour, D.A 1987 trong khi nghiên cứu
kinh nghiệm tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nêpan
đà trình bày mối quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du
miền núi. Tác giả cho rằng các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị
suy thoái nhanh. Sự bền vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc
gia tăng về diện tích dưới bất cứ các dạng che phủ thực vật nào [35].
ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học nêu rõ
rằng: "Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải
bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều
nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia
vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học" [39].
Theo Peluso (1986) tại Indonesia đà công bố một bản tóm tắt các kết
quả của việc nghiên cứu về LNXH tại 12 điểm dự án ở Java và Sulawesi. Các
ảnh hưởng qua lại giữa đất và rừng của nhà nước như: Rừng sản xuất, rừng
trồng, rừng tự nhiên đều đà được nghiên cứu. Sản phẩm là những mặt hàng
sinh lời được và khó quản lý đối với các cơ quan lâm nghiệp nhưng có giá trị
to lớn đối với nhân dân địa phương. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở
Indonesia cũng ghi nhận rằng: "Việc tăng cường sự tham gia của công chúng,
đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính
đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều
kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch [35], [39].
Bink Man W.1988 trong tài liệu giới thiệu nghiên cứu định hình chi tiết
về làng Ban Pong tỉnh S. Risaket Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải
phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi
đun và hoa quả trong rừng. Tuy nhiên đây là một minh hoạ rất cần thiết của
người dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự ¸n ph¸t
triÓn [35].



8

Colfer. C.J.P 1980 trong tác phẩm Thay đổi và NLKH bản địa tại
Đông Kalimamtan. Qua mô tả việc đi thu hái lâm sản phụ, tác giả đà nhận
định rằng những sản vật đó được coi như là những mặt hàng không phải trả
tiền, ai cũng có thể thu lượm được. Thế nhưng những quyền đó không được
quy định cụ thể, nó đà trở thành một thông lệ, trong đó có cả việc dùng gỗ làm
nhà, có lúc dùng để biện hộ cho việc thu hoạch gỗ và bán [35].
Năm 1980, Conklin, H.C. trong tập ATLAT, cung cấp một mô tả chi tiết
về các mối tương quan giữa rừng, lương thực và nước, giữa những người xây
dựng ruộng bậc thang làm lúa nước và những người canh tác nương rẫy [35].
Năm 1986, trong tác phẩm LNXH và hành động của cộng đồng các
tác giả Dorji, D.C. Chavada, B. Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ
yếu là nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn
thả và chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu
cầu về thức ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ đất và nước trên vùng đất dốc [35].
Theo Gadgil và VP. Vartok năm 1976 trong tác phẩm: Những lùm cây
thiêng miền Tây dÃy Ghats ở ấn Độ cho rằng: Người dân địa phương ở ấn
Độ đà bảo vệ được các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây
thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng
đó được hình thành từ các xà hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra
bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những
lùm cây đó đà trở thành những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đà trở
nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng,
gỗ khôViệc khai thác gỗ đà bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai
thác gỗ trộm [35].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đà trở
thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những

năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi
trường và Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro, vấn đề này đà chính thức được
công nhận [11].


9

Các nghiên cứu trên thế giới mới chỉ có những phân tích định tính về sự
phụ thuộc của các cộng động dân cư vào tài nguyên và khẳng định cần thiết
phải có sự tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên,
chưa có các nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng
vào TNR và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó vào TNR.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Trải qua thời gian, diễn biến TNR ở các khu rừng đặc dụng nước ta đÃ
có nhiều thay đổi do sức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu về gỗ, LSNG ngày
một gia tăng ®èi víi céng ®ång d©n c­ sinh sèng trong KBT. Việc đầu tư quản
lý bảo vệ và phát triển các khu rừng đặc dụng còn hạn hẹp. Việc triển khai,
thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước đối với hệ thống này chưa
đồng bộ, kịp thời. Vì thế, dẫn đến có nhiều vi phạm nghiêm trọng vào các khu
rừng đặc dụng.
So với nhiều nước trên thế giới và khu vực thì lịch sử thành lập các khu
rừng đặc dụng ở Việt Nam tương đối sớm. Tháng 7/1962, Quyết định số
72/TTg của thủ tướng chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng
25.000 ha, sau này trở thành VQG đầu tiên của nước ta. Bên cạnh đó, Chính
phủ còn ra các quyết định thành lập các khu rừng cấm Nam BÃi Cát Tiên
(1978); VQG Cát Bà (1986); KBTTN Mom Rây Ngọc Vin (1982); VQG Côn
Đảo (1984); VQG YokDon (1991); KBTTN đất ngập nước Xuân Thuỷ (1994);
KBTTN Tràm Chim Tam Nông (1994) Ngoài ra, các nhà khoa học trong và
ngoài nước đà phát hiện nhiều khu rừng có giá trị cao về đa dạng sinh học
không những đối với Việt Nam mà còn cả trong khu vực và thế giới như:

KBTTN Vũ Quang (Hà Tĩnh); Pù Mát (Nghệ An); Phong Nha (Quảng Bình);
Xuân Liên Phù Luông (Thanh Hoá) Từ ®ã ®Õn nay, ViƯt Nam ®· cã 128
khu rõng ®Ỉc dụng được thành lập [37], [39].
Quan niệm về công tác bảo tồn trước hết phải xuất phát từ các quy định
mang tính pháp lý. Đó là các điều khoản được ghi trong Luật bảo vệ và phát


10

triển rừng ban hành ngày 12/08/1991, Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi
ban hành ngày 03/12/2004. Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg ban hành ngày
11/01/2001 đà đề cập đến việc Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các
quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong
các KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 186/2006/QĐ TTg ban hành ngày 14/08/2006 về quy chế quản lý rừng, thay thế Quyết định số
08/2001/QĐ - TTg. Trong đó, quản lý rừng đặc dụng được quy định rất cụ thể:
[23], [32], [34].
- Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan, khu
rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.
- Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau:
+ Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự
nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ
để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái.
Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng,
tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn.
+ Phân khu phục hồi sinh thái: là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để
khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm
sinh cần thiết.
+ Phân khu dịch vụ - hành chính: là khu vực để xây dựng các công trình làm

việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ
du lịch, vui chơi giải trí.
Trong nhiều năm qua, đà có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc
nâng cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát
triển. Đó là làm sao dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
và phát triển kinh tế - xà hội của người dân địa phương.


11

Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lª Träng Cóc, Trần Đức Viên
(1997), đà đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa
phương vào rừng. Tác giả đà chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía
Bắc Việt Nam đà giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm
sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dà và được xem như
là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [5].
Trần Ngọc Lân (1999) và các cộng sự, đà kết luận rằng: Các nông hộ
trong vùng đệm Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ
khai thác lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong tổng
thu nhập của mỗi nông hộ. Hiện nay, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về
sinh kế, song míi chØ cã rÊt Ýt ë c¸c hé cã hiểu biết và có vốn đầu tư [11].
Đỗ Anh Tuân (2001) đà thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBT Pù Mát
cho đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng
địa phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá
sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự hưởng lợi của KBT và mức
độ chấp nhận của cộng đồng qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và
tài nguyên rừng. Nghiên cứu xác định các tỷ trọng thu nhập từ tài nguyên rừng
trong tổng thu nhập chung của thôn nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng
nhóm kinh tế hộ. Tác giả cho rằng hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử
dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, 34% tổng thu

nhập hàng năm của một HGĐ trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một
HGĐ trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm
1997) đà làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng
của người dân địa phương. Mặc dù đà có một vài chương trình hỗ trợ được thực
hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập
KBTTN [40], [47].
Như vậy, các nghiên cứu đà thực hiện chủ yếu là phân tích, đánh giá sự
phụ thuộc của cộng đồng địa phương vào rừng và ®Êt rõng. Nh­ng vÊn ®Ị nh×n


12

nhận từ góc độ cộng đồng địa phương đối với tài nguyên rừng còn chưa được
nghiên cứu sâu sắc. Một số nghiên cứu trong những năm gần đây đà đề cập
đến vấn đề tác động của cộng đồng địa phương tới tài nguyên rừng nhưng chỉ
giới hạn ở tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến các VQG hoặc
KBTTN.
Nguyễn Thị Phương (2003) khi: Nghiên cứu tác động của cộng đồng
địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây, đà vận dụng
phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và
các nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng
nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì
vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên
rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai
thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc.trong đó hình thức
sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá cho tỷ träng thu nhËp cao nhÊt trong c¬
cÊu thu nhËp cđa cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được
mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau
[21].
Theo Quách Đại Ninh (2003), đánh giá tác động của chính sách giao

đất Lâm nghiệp đến quá trình phát triển kinh tế HGĐ. Qua nghiên cứu một số
HGĐ có đất lâm nhiệp và không có đất lâm nghiệp trong địa bàn xà Bắc An,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, tác giả kết luận rằng chính sách giao, khoán
đất lâm nghiệp đà làm thay đổi nhận thức của người dân vào rừng. Sau khi
nhận đất, các HGĐ yên tâm sản xuất và sử dụng đất một cách hợp lý nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống, Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra được một số mô
hình sản xuất mà người dân ưa thích đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiênkinh tế xà hội của vùng nghiên cứu để các HGĐ tham khảo và phát triển sản
xuất [17].


13

Theo Hoàng Quốc Xạ (2005) khi Nghiên cứu tác động của cộng đồng
địa phương đến tài nguyên rừng vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ, đÃ
có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định lượng trong việc tổ chức các
hình thức tác động và nguyên nhân tác động, tạo cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi đến tài nguyên rừng và hỗ trợ phát triển
kinh tế xà hội của địa phương [43].
Vấn đề giảm đất đai canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là
một thực tế diễn ra ở nhiều nơi. Đỗ Thị Hà cho rằng sau khi thành lập VQG
Tam Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm nghiệp tập
trung vào một số chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong HGĐ
[7].
Đề tài: Đánh giá vai trò kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở 2 thôn người
Dao tại xà Ba Vì của Trần Ngọc Hải và cộng sự. Tác giả cho rằng: Lâm sản
ngoài gỗ, đặc biệt là nhóm tre hương và cây dược liệu đóng vài trò rất quan
trọng trong kinh tế HGĐ [8].
Như vậy, các nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và TNR cả
trên thế giới và ở ViƯt Nam trong thêi gian qua, ®· ®Ị cËp ®Õn nhiều khía cạnh
khác nhau. Một số công trình nghiên cứu đà phân tích phương pháp lý luận và

thực tiễn để nghiên cứu mối quan hệ giữa rừng và TNR. Tuy nhiên, chỉ tập
trung ở vùng đệm của các VQG hoặc KBT mà chưa chú ý mở rộng ở các địa
phương khác nhau. Mặt khác, các nghiên cứu chưa xây dựng được hệ thống
các chỉ tiêu, chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau,
loại hộ khác nhau nên các giải pháp còn chung chung, tản mạn, không tập
trung vào giải quyết những khó khăn thực tế của người dân. Vì vậy, vấn đề này
cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện.


14

Chương 2

Mục tiêu - đối tượng - giới hạn - nội dung phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận giải quyết mối quan hệ giữa các cộng
đồng sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng tại các khu rừng đặc dụng ở Việt
Nam, đồng thời giúp địa phương và KBTTN Na Hang có những luận cứ khoa
học và thực tiễn đề ra các giải pháp quản lý bảo vệ, phát triển bền vững TNR
dựa trên cơ sở cộng đồng.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau:
(1) Xác định được các hình thức và mức độ tác động của các HGĐ đồng bào
dân tộc Tày, Dao, Kinh, H'mông vào TNR của KBTTN Na Hang tỉnh
Tuyên Quang.
(2) Tìm ra các nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi tới TNR.
(3) Đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân
tham gia vào quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR của KBTTN Na
Hang tỉnh Tuyên Quang.

2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tác động bất lợi của các HGĐ
đồng bào dân tộc Tày, Dao, Kinh, H'mông vào TNR cđa KBTTN Na Hang
tØnh Tuyªn Quang.


15

2.3. Giới hạn nghiên cứu
2.3.1. Về phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
về những tác động bất lợi của người dân địa phương sống trong KBTTN.
Khoảng cách giữa các cộng đồng thôn xóm tới rừng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng mạnh tới những tác động của cộng đồng vào TNR. Những tác động này
ở những cộng đồng gần rừng rõ rệt hơn ở những cộng đồng có khoảng cách xa
rừng.
2.3.2. Về nội dung nghiên cứu
Tác động của người dân địa phương đến TNR bao gồm những tác động
có lợi và tác động bất lợi. Tuy nhiên, những tác động có lợi đà không ngăn cản
được sự suy giảm TNR do những tác động bất lợi của cộng đồng gây ra. Vì
vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu những tác động bất lợi tới TNR, phân tích
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi của người
dân địa phương tới TNR.
Những tác động bất lợi của người dân
địa phương tới TNR

Yếu tố kinh tế

Yếu tố xà hội


Yếu tố công
nghệ

Hình 2.1: Những yếu tố chi phối tác động bất lợi của người dân
địa phương tới TNR
Tất cả những yếu tố về kinh tế, xà hội và công nghệ đều chi phối tới
những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Do thời gian và
kinh phí hạn chế nên trong đề tài này chỉ nghiên cứu những yếu tố về kinh tÕ


16

và xà hội, đây là những yếu tố quyết định tới những hình thức tác động bất lợi
của người dân địa phương tới TNR. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu các
nguyên nhân và giải pháp về mặt kinh tÕ - x· héi t¹i KBTTN Na Hang chi phèi
tíi những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
(1) Phân tích và đánh giá tác động của các HGĐ đồng bào dân tộc vào TNR
của KBTTN Na Hang tỉnh Tuyên Quang.
(2) Phân tích các nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi tới TNR.
(3) Đề xuất các giải pháp làm giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người
dân tham gia vào quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR của KBTTN
Na Hang tỉnh Tuyên Quang.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiƯn dùa trªn lý ln vỊ lý thut hƯ thèng, quan
điểm sinh thái - nhân văn, quan điểm bảo tồn - phát triển và tiếp cận có sự
tham gia.
2.5.1.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống.

Hệ thống được hiểu là một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao
gồm nhiều bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự,
tồn tại và vận động theo nh÷ng quy lt thèng nhÊt [10]. Mét hƯ thèng luôn
bao gồm những hệ thống thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ.
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong
hệ thống lớn hơn.
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ
thống kinh tế xà hội và tác động tới hệ thống tự nhiên.
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ
thống kinh tế, bởi vì mức độ tác động của người dân địa phương gắn liền víi


17

các hoạt động kinh tế của con người như sử dụng đất rừng canh tác, khai thác
lâm sản, chăn thả gia súcSự tác động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức
sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận trước mắt và hiệu quả
kinh tế thường quyết định tới hình thức sử dụng TNR của người dân địa
phương. Ngược lại, mức độ giàu có và đa dạng của TNR cũng tác động mạnh
mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính vì mối quan hệ chặt chẽ
giữa những tác động của người dân địa phương đến TNR với các yếu tố kinh tế
nên có thể làm giảm thiểu tác động bất lợi tới TNR bằng cách tác động vào
những yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên cứu các nguyên nhân kinh tế
dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR và nghiên
cứu đề xuất giải pháp kinh tế để giảm thiểu sự tác động bất lợi này.
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xà hội vì
các hoạt động này là của con người. Sự tác động này bị chi phối bởi nhiỊu u
tè x· héi nh­ nhËn thøc cđa ng­êi d©n về tầm quan trọng của TNR, ý thức về
luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, những thói quen sử dụng TNR Sự tác
động của người dân địa phương đến TNR còn phụ thuộc vào những vấn đề về

thể chế và chính sách như chính sách đối với người dân trong KBTTN, hƯ
thèng qu¶n lý TNR, viƯc thùc thi lt BVPTR. Các tổ chức cộng đồng và
những quy định của cộng đồng cũng có ảnh hưởng tới những tác động của
người dân địa phương vào TNR. Sự hiện diện của chúng sẽ hỗ trợ Nhà nước
trong việc tuyên truyền các chính sách, gắn kết người dân thành cộng đồng
thống nhất trong việc thực thi quản lý bảo vệ TNR. Những tác động của người
dân địa phương đến TNR liên quan chặt chẽ với các yếu tố xà hội, vì vậy đề tài
tiến hành nghiên cứu các nguyên nhân xà hội chi phối sự tác động của người
dân địa phương đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp xà hội nhằm làm
giảm thiểu những tác động bất lợi này.


18

TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ
tương tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng dẫn
đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại
khách quan và vận động theo những quy luật tự nhiên. Vì vậy, để bảo tồn
TNR, những tác động của con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên và
giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó.
2.5.1.2. Quan điểm sinh thái nhân văn.
Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế xà hội trong cộng đồng hay
trong mỗi HGĐ đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái
và mối quan hệ kinh tế - xà hội. Điều này chỉ ra rằng các hoạt động trong cộng
đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò
quan trọng trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại không phải quan
trọng trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu sự tác
động bất lợi của người dân địa phương đến TNR, chúng tôi dựa theo tháp sinh
thái - nhân văn của Park, đề xuất năm 1936.
Theo Teherani Kroenner (1992) và Nguyễn Bá NgÃi (2001), mô hình

sinh thái - nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động
xà hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo
trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô
hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các
hoạt động của cá nhân và sự bền vững (Hình 2.2) [13], [36]. Dựa trên hình
tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động bất lợi của cộng đồng đến
TNR và phát triển kinh tế - xà hội địa phương - bảo tồn TNR là quan hệ có xu
hướng nghịch. Tức là khi kinh tế - xà hội địa phương càng phát triển, điều kiện
sống về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn TNR được thực
hiện tốt thì những tác động bất lợi tới TNR sẽ càng giảm. Sự tác động bất lợi
của người dân địa phương vào TNR đều có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố kinh tế - x· héi.


19

ảnh hưởng

Các nhân tố thích hợp

Phát triển
kinh tế - xÃ
hội địa
phương và
bảo tồn
TNR
Tác động

Bậc đạo đức


bất lợi của
người dân
ĐP tới

Bậc thể chế
TNR

TNR

Bậc kinh tế
Bậc sinh thái

- Các yếu tố văn
hoá
- C¸c u tè thĨ
chÕ, chÝnh s¸ch
- C¸c u tè
kinh tÕ
- Các yếu tố sinh
thái, công nghệ

Hình 2.2: Tháp sinh thái nhân văn nghiên cứu sự tác động của
người dân địa phương đến TNR
Cơ sở sinh thái được được giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học,
được chia làm 2 loại: Những yếu tố không thể kiểm soát được như khí hậu,
thuỷ văn, địa hình...và những yếu tố có thể kiểm soát được hoặc hạn chế được
như xói mòn, lũ lụt, sâu bệnh, lửa rừng, hạn hán.... Những yếu tố kiểm soát
hoặc hạn chế được cần được nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học công
nghệ.
Các yếu tố kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương,

nhu cầu thị trường. Những nhân tố này rất có ý nghĩa đối với sự tác động của
người dân địa phương tới TNR .
Bậc thể chế được giải thích là c¸c u tè vỊ thĨ chÕ, chÝnh s¸ch, tỉ chøc
céng đồng... ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân địa phương
đến TNR.
Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức cao hơn nữa
là văn hoá của các cộng đồng. Mọi tác động của các yếu tố khác đều có thể
làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.


20

Theo tháp sinh thái - nhân văn (hình 2.2) thì bất kỳ một giải pháp nào
nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát triển bền
vững TNR đều phải dựa trên cơ sở sinh thái và đảm bảo được các yếu tố về
kinh tế và xà hội của người dân địa phương.
2.5.1.3. Quan điểm bảo tồn phát triển.
Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và
phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển
địa phương, bao gồm 3 thành phần chính (cách tiếp cận) sau [6]:
- Thứ nhất là nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể
được đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên
sẽ được giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn: Cách tiếp cận các giải pháp
thay thế sinh kế.
- Thứ hai là nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào
quan tâm đến việc bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng sống vẫn
còn chưa được đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tÕ - x·
héi cđa hä ®đ tèt ®Ĩ hä có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên:
Cách tiếp cận phát triển kinh tế.
- Thứ ba là cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài

nguyên thiên nhiên nếu như họ có thể được tham gia một cách tích cực vào
việc quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài
nguyên đó. Theo cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số
nhu cầu cơ bản của người dân địa phương được đáp ứng thông qua việc sử
dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và bền vững: Cách tiếp cận
tham gia quy ho¹ch.
2.5.1.4. TiÕp cËn cã sù tham gia trong nghiên cứu .
Sự tham gia được định nghĩa như là một quá trình, thông qua đó các chủ
thể cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định.
Điều quan trọng là người dân địa phương có khả năng trao đổi các triển vọng


21

của họ về TNR với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lại, các
cơ quan này có thể hiểu và đáp ứng các triển vọng được nêu ra. Năm 1996,
Hosley đưa ra 7 mức độ của sự tham gia từ thấp đến đến cao, đó là: tham gia
có tính chất vận động, tham gia bị động, tham gia qua h×nh thøc t­ vÊn, tham
gia v× mơc tiêu được hưởng các hỗ trợ vật tư từ bên ngoài, tham gia theo chức
năng, tham gia hỗ trợ, tự huy động và tổ chức [36].
Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp
dụng, trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua
hình thức tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông
thôn (RRA) và phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) sẽ
được sử dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp
thu thập được các thông tin và phân tích của chính người dân địa phương, nên
thông tin có thể được sử dụng cho nhiều nhu cầu của địa phương như sự ủng
hộ về quyền sử dụng TNR, các giải pháp giải quyết xung đột.
2.5.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo các bước trong hình 2.3:

2.5.2.1. Thu thập các tài liệu thứ cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu
- Các văn bản, chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
- Các văn bản, chính sách pháp luật của tỉnh Tuyên Quang, huyện Na Hang,
hạt kiểm lâm rừng đặc dụng Na Hang liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Các tài liệu liên quan đến vùng nghiên cứu được thu thập tại KBTTN Na
Hang như: điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế xà hội, các báo cáo về công tác
quản lý bảo vệ rừng, tình hình giao đất giao rừng...
- Các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Các báo cáo nghiên cứu
của dự án PARC, tài liệu hội thảo về phát triển các KBTTN và VQG, các báo
cáo nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng tại Việt NamCác tài liệu này sẽ
cung cấp thông tin về vấn đề nghiên cứu một cách tổng quan và được thu thập
theo phương pháp kế thừa có chọn läc.


22

XĐ vấn đề nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu

Lựa chọn điểm NC
Thu thập TT, số liệu
Phỏng vấn cá nhân

Phỏng vấn HGĐ

Thảo luận nhóm


Phân tích số liệu
Phân tích định tính theo
PRA

Hình thức tác động

Phân tích định lượng bằng
SPSS, Excel

Nguyên nhân tác động

Kinh tế

XÃ hội

Giải pháp kinh tế
xà hội

Kết luận, tồn tại và Khuyến nghị

Hình 2.3: Các bước thực hiện nghiªn cøu


×