MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ................... 8
1.1
Khái niệm hình phạt................................................................................. 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm căn cứ quyết định hình phạt ..................................... 9
1. 3 Vai trò của căn cứ quyết định hình phạt .................................................. 11
1.4 Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về căn cứ quyết định hình phạt ........ 11
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN THAN UYÊN ........................................................................ 39
2.1. Kết quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về căn cứ quyết định hình
phạt tại Tịa án nhân dân huyện Than Uyên và bài học kinh nghiệm ............. 39
2.2 Đánh giá việc áp dụng quy định Bộ luật hình sự về căn cứ quyết định hình
phạt tại Tịa án nhân dân huyện Than Uyên.................................................... 42
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CĂN CỨ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT
62
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự 2015....… .…60
3.2
Ban
hành
văn
bản
quy phạm hướng
dẫn
áp dụng
pháp
luật…………………………………………………………………………...64
3.3 Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử …………………………………..65
3.4 Nâng cao khả năng năng lực của người tiến hành tố tụng……………..66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
QĐHP Quyết định hình phạt
TAND Tịa án nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng số người bị kết án tại Tòa án nhân dân cấp huyện Than Uyên
......................................................................................................................... 40
từ 2015 - 2020 ................................................................................................. 40
Bảng2.2 Tổng hợp các hình phạt được áp dụng trên địa bàn huyện............... 41
Than Uyên từ 2015-2020 ............................................................................... 41
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp nhân thân người phạm tội qua việc xét xử ............ 43
của TAND huyện Than Uyên từ 2015- 2020 .................................................. 43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt là hoạt động rất quan trọng trong hoạt động xét xử
của Tịa án, việc quyết định hình phạt đúng tạo tiền đề quan trong cho việc đạt
mục đích và nâng cao hiệu quả của hình phạt bảo đảm cơng lý có ý nghĩa chính
trị xã hội quan trọng. Khi quyết định hình phạt Tịa án phải tn thủ những
ngun tắc cơ bản do Bộ luật hình sự quy định đó chính là căn cứ quyết định
hình phạt.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự thời gian qua cho thấy cịn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc cân nhắc xem xét đánh giá các căn cứ quyết
định hình phạt. Để đảm bảo giải quyết đúng đắn một vụ án hình sự vừa bảo vệ
các quyền tự do của công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay. Ý thức được tầm quan trọng đó, Tịa án nhân dân huyện Than Uyên tỉnh
Lai Châu đã nỗ lực phấn đấu nhằm nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các
loại vụ án, phấn đấu khơng có án oan, không bỏ lọt tội phạm, tỷ lệ các bản án
quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan cảu Thẩm phán hàng năm đều giảm đảm
bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật , đầy đủ, rõ ràng thuyết phục và
tính có khả thi. Tuy nhiên, do sự biến động và phát triển nhanh chóng của các
loại tội phạm với tính chất, mức độ, thủ đoạn ngày càng đa dạng và tinh vi cùng
với tính phức tạp của việc áp dụng chính xác các quy định của pháp luật hình sự
đối với căn cứ quyết định hình phạt đã khiến cho Tịa án gặp nhiều khó khăn dẫn
đến sai sót trong áp dụng căn cứ quyết định hình phạt. Do đó việc nghiên cứu
một cách thống nhất và toàn diện để làm sâu sắc các vấn đề lí luận về các căn cứ
quyết định hình phạt gắn với thực tiễn hoạt động của Tòa án để làm cơ sở cho
việc hoàn thiện cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự là hết sức
cần thiết. Tại TAND qua thực tiễn xét xử thấy rằng khi áp dụng quy định của
BLHS về căn cứ QĐHP trong các vụ án hình sự vẫn cịn một số trường hợp để
xảy ra sai sót, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị
hại... làm ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật, phải kể đến một số các
nguyên nhân mà TAND huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu cần quan tâm như:
1
Việc áp dụng pháp luật trong cùng một cấp tòa vẫn cịn thiếu thống nhất, việc
đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội việc áp dụng tình tiết tăng nặng việc
cùng một hành vi phạm tội có tính chất mức độ như nhau nhưng quyết định hình
phạt quá khác biệt chưa đánh giá chính tồn diện được khách thể bị xâm hại cụ
thể như thế nào việc áp dụng khơng đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS, xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi thực hiện với hậu quả xảy
ra so với tính chất là một căn cứ QĐHP độc lập...)
Từ lí do nêu trên tác giả chọn đề tài “Căn cứ quyết định hình phạt từ
thực tiễn huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu” là đề tài nghiên cứu luận văn thạc
sĩ tốt nghiệp ngành luật học của mình. Đề tài luận văn nghiên cứu một cách tồn
diện và có hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các
quy định của BLHS 2015 về căn cứ QĐHP trong quá trình xét xử sơ thẩm
tạiTAND huyện Than Uyên nhằm khắc phục những hạn chế, sai lầm trong việc áp
dụng quy định của BLHS về căn cứ QĐHP của Tòa án, đưa ra các giải pháp bảo
đảm QĐHP đúng đối với người phạm tội là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả, nhiều cơng trình nghiên cứu về căn cứ quyết định
hình phạt bởi vì đây là một chế định hết sức quan trọng và không thể thiếu nhằm
đánh giá hiệu quả của hoạt động quyết định hình phạt. Trong hệ thống pháp luật
hình sự Việt Nam, căn cứ QĐHP được quy định tại BLHS năm 1985 (Điều 37),
BLHS năm 1999 (Điều 45), BLHS năm 2015 (Điều 50) là cơ sở pháp lý bắt buộc
Tòa án phải áp dụng đúng và đầy đủ khi thực hiện hoạt động QĐHP, trong thời gian
gần đây có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề căn cứ quyết định
hình phạt từ thực tiễn một địa phương đơn vị nhất định nhưng chủ yếu dừng lại ở cấp
tỉnh, nhưng ở cấp huyện thì có nhưng rất ít :
Vấn đề chủ yếu được đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định
hình phạt mà thơi, trong đó phải kể đến các cơng trình ở những cấp độ khác nhau
dưới đây:
* Giáo trình, sách tham khảo và các đề tài đã nghiên cứu trong nước:
1) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo
2
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; 3) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội
danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2005; 4) PGS.TS. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết
định hình phạt, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007; 5) ThS. Đinh Văn Quế,
6);Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật hình sự Việt nam (phần
chung), Nxb Cơng an nhân dân, Hà nội, 2016; 7) PGS.TS Nguyễn Duy
Phương- TS. Đinh Thế Hưng Bình luận khoa học Bộ luật hình sự(phần chung)
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà nội, 2020;
* Ở cấp độ luận án luận văn thạc sĩ luật học trong nước: 1) Dương Tuyết
Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Phan Thị Thu Lê Các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam, Luận án tiến sỹ luật học,
Học viện khoa học xã hội, 2019; 3) Hoàng Tiến Dũng (2016), Các căn cứ quyết
định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, học
viện khoa học xã hội;
4) Tác giả Phạm Đình Dũng (2006), Căn cứ quyết định hình phạt, những
vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội đã phân tích và làm rõ hơn các lý luận về căn cứ QĐHP kết hợp với
những ví dụ thực tiễn điển hình để minh họa cho các lý luận được phân tích
5)Phan Thu Hồi (2019), Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật
Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai Châu, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
Khoa học - xã hội Việt Nam.
* Các bài viết:
1) PGS. TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002;
2) Th. S. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 6/2007; 3) PGS.TS Nguyễn Hịa
Bình; Nội dung sửa đổi lớn của BLHS 2015 và những sửa đổi lớn trong phần
chung của BLHS 2015 Tạp chí Tòa án , số 24/2017
3
3)PGS.TS Dương Tuyết Miên - Một số ý kiến về Quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo điều 54 BLHS năm 2015
Tạp chí Tịa án, số 16/2020; Tác giả Hồng Quảng Lực – Tính nặng,nhẹ của hệ
thống hình phạt chính đối với người phạm tội trong BLHS năm 2015 và những
vướng mắc tháo gỡ, Tạp chí Tịa án số 8/2019;
4) TS. Nguyễn Mai Bộ- THS.NCS. Hồng Ngọc Anh-Chính sách hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS 2015, Tạp chí Tịa án
số 19/2020; Tạp chí Tịa án nhân dân, số 3/2016; Một số điểm mới về quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS năm 2015;
5)GS.TSKH Lê cảm(2021) Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình
sự Việt nam tạp chí dân Tịa án (Tập I), số 1(2021)
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung, mà
chưa có cơng trình nghiên cứu nào mang tính chun sâu và có hệ thống nào về
vấn đề lý luận cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật hình sự
2015 về căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng quy định đó trên một
địa bàn cụ thể là đặc biệt ở TAND cấp huyện để làm cơ sở cho việc đề xuất giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu quả quyết định hình
phạt. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc áp
dụng căn cứ quyết định hình phạt địi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một
cách tồn diện và chun sâu hơn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động QĐHP,
qua đó đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơng tác xét xử các vụ án
hình sự theo tinh thần của Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những kết quả nghiên cứu về lý luận quy định BLHS 1999, BLHS
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về căn cứ QĐHP và đánh giá thực tiễn việc quyết
định hình phạt tại TAND huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, tác giả đưa ra những ý
4
kiến đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến Quyết định
hình phạt
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Phân tích căn cứ quyết định hình phạt
và làm rõ thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về căn cứ QĐHP trong
quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND huyện Than Uyên tỉnh
Lai Châu để tìm ra những tồn tại, hạn chế và xác định nguyên nhân sau đó đề
xuất các giải pháp để việc quyết định hình phạt của Tịa án đảm bảo mục đích áp
dụng quy định của BLHS về căn cứ QĐHP đúng trong xét xử các vụ án hình sự
trên địa bàn huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học của khoa học Luật hình sự các quy
định của BLHS năm 2015 thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt tại TAND
huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu(2015- 2020) làm đối tượng nghiên cứu của đề
tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung; Nghiên cứu lý luận, các quy định của BLHS hiện
hành về căn cứ QĐHP tại Điều 50 BLHS năm 2015 và so sánh với các BLHS
trước đó; Quy định của PLHS Việt Nam hiện hành về căn cứ QĐHP và về thực
tiễn áp dụng quy định của BLHS 2015 về căn cứ QĐHP đối với các loại tội
phạm trên địa bàn huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu trong quá trình quyết định
hình phạt
Phạm vi về thời gian: Chủ yếu nghiên cứu thực tiễn quyết định hình phạt
thơng qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Thơng qua cơng thực tiễn công
tác xét xử, các kết luận đã được chỉ ra những hạn chế, bất cập, sai lầm và nguyên
nhân của những hạn chế trên, đề xuất ý kiến hoàn thiện quy định của BLHS
2015 về căn cứ QĐHP nhằm tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động QĐHP của Toà
5
án đảm bảo tính đúng đắn, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của chiến lược cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay trên địa bàn huyện Than Uyên đến năm 2025
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu và phân tích dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - LêNin và Nhà
nước pháp quyền; Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về phòng, chống tội phạm, xử lý các loại tội phạm; Chính sách hình
sự các ngun tắc của pháp luật Hình sự Việt Nam hiện hành;
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử, phương
pháp, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp tổng hợp, phân tích, phương
pháp so sánh, đánh giá, phương pháp khảo sát thực tiễn các vụ án hình sự giai
đoạn 2015-2020 tại TAND huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ hoạt động nghiên cứu quy định lý luận về căn cứ quyết định hình phạt
và hoạt động thực tiễn đã quyết định hình phạt giúp tác giả hoàn thiện và nhận
thức đúng các quy định quyết định hình phạt
Luận văn là tài liệu tham khảo để khảo sát tổng hợp thực tiễn quyết định
hình phạt tại TAND huyện miền núi góp phần hồn thiện để xây dựng văn bản
giải thích áp dụng đúng và thống nhất pháp luật chỉ ra những hạn chế, sai lầm
trong việc áp dụng quy định của BLHS về căn cứ quyết định hình phạt cũng như
chỉ ra nguyên nhân của việc áp dụng chưa đúng quy định của BLHS 2015 về căn
cứ QĐHP.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đây là nghiên cứu thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng với tác giả là người
trực tiếp tham gia vào hoạt động quyết định hình phạt địi hỏi phải có sự nhận
thức đúng đắn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phục vụ cho hoạt động
quyết định hình phạt đặc biệt luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để tổng kết
6
thực tiễn 05 thi hành BLHS 2015 (2015-2020) là tài liệu để cán bộ giữ chức
danh Tư pháp tham khảo là tài liệu để giảng viên tham khảo khi nghiên cứu
giảng dậy.
7. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu sau khi nêu được tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài, tình
hình nghiên cứu có liên quan, mục đích ý nghĩa … phầndanh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận được tác giả chia làm ba phần tương ứng với ba chương.
Chương thứ nhất : Những vẫn đề lý luận và quy định của BLHS về căn cứ
QĐHP
Chương thứ hai : Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về căn cứ QĐHP
trên địa bàn huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu
Chương thứ ba :Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS
2015 về căn cứ QĐHP
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
1.1 Khái niệm hình phạt
Hình phạt là một phạm trù pháp lý – xã hội rất phức tạp, mang tính khách quan,
gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật vì thế nó được nghiên cứu
trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như triết học, tâm lý học, thần học,
tôi phạm học….
Việc làm sáng tỏ nắm bắt sâu sắc cũng như lập luận mang tính khoa học
khái niệm hình phạt là một vấn đề quan trọng có nhiều nhà khoa học trên thế
giới cũng như ở Viêt Nam đưa ra khái niệm khác nhau về hình phạt, nhìn
chung các quan điểm đó có thể phân thành hai loại, loại thứ nhất coi hình phạt
là cơng cụ trừng trị, trả thù người phạm tội; cịn lại coi hình phạt là công cụ
pháp lý cần thiết để đấu tranh phòng , chống tội phạm, cải tạo, giáo dục người
phạm tội [ 6, tr. 18]. Một số học giả luôn đi theo tư tưởng tiến bộ nhân đạo về
hình phạt khi đưa ra các quan điểm về hình phạt thường theo hướng chung thể
hiện mục đích nhân đạo của hình phạt, được thể hiện trong một số khái niệm
về hình phạt của các nhà khoa học
GS.TS Võ Khánh Vinh quan niệm: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất do luật quy định được Tòa án nhân dân nhân danh NHà nước
quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật
quy định đối với người bị kết án” [ 32, tr. 211].
GS.TSKH. Lê Cảm thì coi: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tịa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo
các quy định của pháp luật hình sự” [ 7 tr. 3].
8
Cơ sở pháp lý hình sự: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm
tội. Hình phạt có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước dành
cho người phạm tội – đặc điểm này thể hiện sự khác biệt cơ bản so với các biện
pháp cưỡng chế của các vi phạm pháp luật khác và là thước đo của tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
+ Hình phạt được quy định trong BLHS- đặc điểm này là cơ sở pháp lý
quan trọng đảm bảo tính thống nhất trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể
hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Hình phạt do Tịa án áp dụng và quyết định đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội – đây là bước cuối cùng của quy trình tố tụng, việc
quy định quyết định hình phạt do Tòa án quyết định là để đảm bảo sự thận trọng,
khách quan, tồn diện tránh oan sai, tịa án quyết định hình phạt phải đảm bảo
nguyên tắc pháp chế.
Việc quy định hình phạt phải quy định trong BLHS và chỉ do Tịa án mới
có quyền quyết định hình phạt nhằm tránh trường hợp áp dụng tùy tiện không
thống nhất và tránh xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội.
1.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt
1.2.1. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt
Theo PGS.TS Luật học Võ Khánh Vinh: “Các căn cứ quyết định hình
phạt là những địi hỏi cơ bản có tính ngun tắc do luật hình sự quy định hoặc
do giải thích pháp luật mà có, buộc Tồ án phải tn theo khi Quyết định hình
phạt đối với người thực hiện tội phạm” [32, tr.409].
Đó là những yêu cầu cơ bản có tính bắt buộc Tịa án phải tn theo khi
quyết định hình phạt đối với tội phạm, thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt ”
khơng được dùng trong các văn bản pháp luật hình sự mà nó chỉ được dùng
trong các bài viết, các cơng trình khoa học của các tác giả hoặc các luật gia; các
9
giáo trình trong các trường đại học, cao đẳng; các thơng tư, chỉ thị…. Bộ luật
hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt” để nêu các
nội dung mà các nội dung đó chính là căn cứ quyết định hình phạt nhận rõ tính
thiếu chính xác nên BLHS năm 1999 và BLHS 2015 đã dùng thuật ngữ “căn cứ
quyết định hình phạt” (Điều 45 BLHS 1999) thay cho thuật ngữ “nguyên tắc
quyết định hình phạt” (Điều 37 BLHS 1985).[ 27tr16].
Điều 50 BLHS 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ
vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách hiệm hình sự; Khi quyết định hình phạt tiền ngồi căn cứ
quy định tại khoản 1 Điều này Tịa án căn cứ vào tình hình tài sản,khả năng thi
hành án của người phạm tội” [27 tr.35].
Như vậy căn cứ Quyết định hình phạt chính là những biểu hiện cụ thể là
tiền đề để đạt được mục đích của hình phạt
1.2.2 Đặc điểm của căn cứ quyết định hình phạt
Thứ nhất, căn cứ QĐHP được quy định một cách rõ ràng, đầy đủ bao quát
tất cả các loại tội phạm được quy định. Bao gồm các quy định của Bộ luật hình
sự về hình phạt chính, hình phạt bổ sung; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết tăng nặng giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự [27 tr.18].
Căn cứ quyết định hình phạt là chuẩn mực chung cho việc quyết định hình
phạt đối với mọi trường hợp phạm tội là yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình
trạng áp dụng một cách tuỳ tiện và nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự của người phạm tội.
Thứ hai, căn cứ quyết định hình phạt mang tính bắt buộc đối với Tịa án,
Tồ án phải dựa vào các địi hỏi đó của pháp luật hình sự để lựa chọn loại và ấn
định mức hình phạt cụ thể.[27 tr.19].
Thứ ba, các căn cứ quyết định hình phạt là những địi hỏi có tính ngun
tắc vì đó là những biểu hiện, đòi hỏi của các nguyên tắc quyết định hình phạt.
Tính có ngun tắc của các căn cứ quyết định hình phạt thể hiện tính thống nhất,
10
mối quan hệ chặt chẽ của các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ
quyết định hình phạt. [32 tr.20].
Theo GS.TS Luật học Võ Khánh Vinh: Khi quyết định hình phạt, Tịa án
một mặt phải tn theo các tư tưởng chỉ đạo (nguyên tắc) nhất định và mặt khác,
phải dựa vào những đòi hỏi (căn cứ) nhất định mới có đủ điều kiện để quyết
định ở mức độ lớn nhất, một hình phạt có khả năng đạt được các mục đích của
hình phạt [41 tr219].
Thứ tư, Khi thực thi pháp luật Tòa án phải tuân thủ nghiêm khắc căn cứ
quyết định hình phạt đây là điều kiện quan trọng khơng thể thiếu để quyết định
hình phạt đúng đắn đạt được mục đích đề ra của hình phạt [27 tr.19]. Điều đó
cho thấy việc quyết định hình phạt khơng phải được thực hiện một cách ngẫu
nhiên cũng có thể đạt được các mục đích của hình phạt mà nó phải được dựa
trên các căn cứ quyết định hình phạt đã được Bộ luật hình sự quy định.
1.3 Vai trị của căn cứ quyết định hình phạt
Một là, căn cứ QĐHP là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án QĐHP tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các loại
tội phạm. [16 tr.20].Để hình phạt đạt được mục đích.
Hai là, căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện cần thiết và quan trọng để
khắc phục tình trạng chưa chuyên nghiệp, tùy tiện, thiếu thống nhất khi thực
hiện quyết định hình phạt, đồng thời bảo đảm tính khách quan, hợp pháp và có
căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt [27 tr.20].
Ba là, việc tuân thủ đúng căn cứ QĐHP là điều kiện tiên quyết để đạt mục
đích của hình phạt. Như vậy, để bảo đảm những yêu cầu và nguyên tắc pháp chế
XHCN, hoạt động quyết định hình phạt phải được thực hiện dựa trên căn cứ luật
định của BLHS.
1.4 Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về căn cứ quyết định hình phạt
Tồ án nhân danh Nhà nước, căn cứ vào quy định của BLHS tuyên bố quyết
định hình phạt đối với người phạm tội mà hành vi phạm tội đó được quy định
trong BLHS. Khi quyết định hình phạt nếu hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý
không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn đến thái độ oán hận,
11
khơng tin tưởng pháp luật cịn nếu hình phạt q nhẹ sẽ không đủ sức giáo dục
thuyết phục ý thức tuân theo pháp luật của người phạm tội sẽ không đạt được
mục đích của hình phạt hướng tới. Tại Điều 50- BLHS 2015 quy định về căn cứ
quyết định hình phạt gồm:Căn cứ vào quy định BLHS; Căn cứ vào tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ vào nhân thân người
phạm tội; Căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự và khoản
2 quy định Khi quyết định hình phạt tiền ngồi căn cứ quy định tại khoản 1 Điều
này Tịa án cịn phải căn cứ vào tình hình tài sản,khả năng thi hành án của người
phạm tội để quyết định hình phạt cho phù hợp [1 tr.35].
Mỗi căn cứ quyết định hình phạt nêu trên đều là yếu tố khách quan, có nội
dung yêu cầu cụ thể có tính độc lập tương đối để Tịa án dựa vào khi quyết định
hình phạt, điều đó cũng khơng có nghĩa là khi quyết định hình phạt Tịa án dựa
vào từng căn cứ hay đánh đồng chúng mà phải thấy được mối liên hệ tương
quan bổ sung hỗ trợ cho nhau giữa các căn cứ đồng thời là cơ sở để vận dụng
đúng các căn cứ quyết định hình phạt đảm bảo tính khách quan cơng bằng của
hoạt động quyết định hình phạt.
1.4.1 Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự 2015
- Căn cứ vào quy định ở phần chung : Theo khoản 1, 2 Điều 2 BLHS
2015 thì cơ sở để buộc một người phải chịu TNHS là chỉ người nào phạm tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu TNHS. Căn cứ vào quy định phần chung
BLHS liên quan tới hình phạt và quyết định hình phạt, ví dụ như quy định tại
Điều 38 là quy định về mức phạt tù tối thiểu là 3 tháng tối đa là 20 năm đối với
tù có thời hạn; quy định về án treo tại Điều 65 BLHS và quy định về đồng phạm
Điều 58 BLHS; quy định về nguyên tắc xử lý; các quy định về quyết định hình
phạt tại chương VIII BLHS. Cụ thể các quy định:
Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo phạt tiền; cải tạo khơng giam giữ;
Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình, hệ thống hình phạt được xắp
xếp theo nguyên tắc từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng và có sự cân đối giữa
02 loại hình phạt là các hình phạt tước tự do và các hình phạt khơng tước tự do
của người bị kết án. Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng độc lập cho tất
12
cả các các tội phạm được quy định trong BLHS, khi Tịa án tun hình phạt, bắt
buộc phải tun hình phạt chính và chỉ được tun duy nhất một hình phạt chính
[5, tr 216
Hình phạt bổ sung khơng được sắp xếp theo hệ thống như hình phạt
chính; hình phạt bổ sung không được tuyên độc lập mà phải tuyên kèm với hình
phạt chính và khi tun Tịa án phải tun kèm với hình phạt chính, và khi tun
Tịa án có thể tuyên một hoặc một số hình phạt bổ sung đối với một tội phạm cụ
thể. Trong hệ thống hình phạt, hình phạt bổ sung khơng tước đi quyền tự do thân
thể của người bị kết án. Sự khác nhau khi áp dụng hình phạt chính và hình phạt
bổ sung đối với người phạm tội theo đó đối với mỗi tội phạm, người phạm tội
chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình
phạt bổ sung. Hình phạt chính là hình phạt bị cưỡng chế rất nghiêm khắc, do đó
khi tuyên án Tịa án chỉ được lựa chọn tun một hình phạt chính duy nhất cịn
hình phạt bổ sung là hình phạt mang tính bồ trợ cho hình phạt chính tun kèm
nhằm mục đich phát huy hiệu quả của hình phạt chính cũng như góp phần đấu
tranh phịng ngừa tội phạm nên Tịa án có thể tun một hoặc một số hình phạt
bổ sung theo quy định của điều luật và xét thấy cần thiết áp dụng đối với người
phạm tội. [5, tr 216]
- Những quy định về các tội phạm cụ thể
Căn cứ vào các quy định Phần các Tội phạm của BLHS là tiền đề quan trọng
để Tòa án quyết định những hình phạt cơng bằng, hợp lý đối với những tội phạm đã
thực hiện. [32, tr 25].
Khi quyết định hình phạt Tịa án phải căn cứ vào tất cả các quy định của
phần chung, trước hết là các quy định của Bộ luật hình sự, đây là căn cứ cơ bản
nhất của việc quyết định hình phạt. Áp dụng đúng đắn các căn cứ luật định là đảm
bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự việc xem xét khách quan chặt
chẽ các quy định của BLHS sẽ tránh được sự tùy tiện khi quyết định hình phạt, hạn
chế việc vi phạm quyền con người, quyền công dân đảm bảo bản án đã tuyên đúng
pháp luật, được đơng đảo dư luận đồng tình ủng hộ. [5, tr 260]
13
Ngồi căn cứ nêu trên địi hỏi Tịa án phải dựa vào các căn cứ tiếp theo đó là
1.4.2 Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội
Có thể nói , tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội cũng là căn cứ quan trọng khi quyết định hình phạt. Bởi lẽ mặc dù các chế
tài quy định đối với từng tội phạm cụ thể được xây dựng trong phần các tội
phạm cụ thể đã dựa vào tính chất mức độ và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
loại tội phạm nhưng mỗi hành vi phạm tội trong từng trường hợp lại có những
hồn cảnh, đặc điểm riêng. Ví dụ như A và B cùng thực hiện hành vi hiếp dâm
theo quy định điều 141 BLHS 2015, nhưng B phạm tội có tính chất loạn ln,
cịn với A khơng có tình tiết này, nên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội do B thực hiện nguy hiểm hơn hành vi của A. Do vậy căn
cứ này đòi hỏi Thẩm phán phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể đó để đánh
giá tích chất và mức độ nguy hiểm của mỗi hành vi phạm tội để đưa ra được
mức hình phạt tương xứng đối với người phạm tội, tránh tâm lý bất mãn hoặc
coi thường pháp luật nếu áp dụng chế tài quá nghiêm khắc hoặc quá nhẹ. Vì thế,
khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội Tòa án cần xem xét các yếu tố
như. [5, tr 260]
Căn cứ quyết định hình phạt thứ hai này là căn cứ có ý nghĩa pháp lý- xã
hội đặc biệt quan trọng vì nó giúp cho Hội đồng xét xử có đủ cơ sở vững chắc
lựa chọn và quyết định hình phạt với mức độ cụ thể tương ứng với hành vi phạm
tội đáp ứng được yêu cầu của ngun tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định
hình phạt. Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 buộc Tịa án khi quyết định hình phạt
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự,
nhưng tiêu chí nào để làm cơ sở cho việc cân nhắc thì Luật chưa quy định, vậy
Tịa án dựa vào cái gì để cân nhắc đánh giá đúng tính chất mức độ của hành vi
phạm tội, trong hoạt động xét xử thực tiễn thì việc cân nhắc tồn tại trong ý thức
và kinh nghiệm của những người trực tiếp làm công tác xét xử các vụ án hình
sự,
14
Qua thực tiễn làm Thẩm phán làm công tác xét xử và qua nghiên cứu các
quan điểm khá phổ biến thấy rằng việc cân nhắc tính chất,mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội trong thực tiễn được thực hiện dựa trên cơ sở
những tiêu chí sau:
Tính chất, tầm quan trọng của khách thể bị tội phạm bị xâm hại, tính
chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn, công cụ, thời gian, địa điểm thực
hiện tội phạm; hình thức thực hiện tội phạm riêng lẻ hay đồng phạm, mức độ
thực hiện, hình thức lỗi, tính chất động cơ nguyên nhân và điều kiện phạm
tội, những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội. Những tiêu chí liệt kê trên có thể là những
tiêu chí cơ bản để Thẩm phán, Hội đồng xét xử đánh giá tính chất mức độ của
hành vi phạm tội vẫn là hạn chế lớn mà Bộ luật hình sự năm 2015 về quyết
định hình phạt, hạn chế này đã làm cho việc đánh giá tính chất mức độ của
hành vi phạm tội cả trong lý luận cũng như hoạt động thực tiễn xét xử gặp
khơng ít khó khăn và khơng tránh khỏi tình trạng tùy tiện làm ảnh hưởng đến
chất lượng quyết định hình phạt, do chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá tính
chất mức độ của hành vi phạm tội nên nhiều trường hợp Tòa án đã tun
những hình phạt khơng tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội,từ đó địi hỏi Bộ luật hình sự cần quy định cụ thể,
chi tiết các tiêu chí chuẩn có giá trị phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật
Mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm đó cũng là thuộc tính khách quan của tội phạm.[ 32] Do vậy khi
quyết định hình phạt Tịa án phải cân nhắc cả tính chất và mức độ nguy hiểm
của tội phạm đã thực hiện, lựa chọn loại và mức hình phạt trong phạm vi khung
chế tài cho phép. Mức độ đó phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Tính chất của hành vi phạm tội. Tội phạm trước hết đó là hành vi (hành
động hay khơng hành động) được thể hiện ra bên ngồi của người phạm tội. Để
phân biệt tội phạm hay không phải là tội phạm trước hết phải dựa vào tính chất
của hành vi. Tức là hành vi đó có nguy hiểm cho xã hội hay không. Nếu hành vi
15
khơng được coi là nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm, tội phạm
phải được thể hiện bằng hành vi. Nếu chưa được thể hiện bằng hành vi và mới ở
suy nghĩ, tư tưởng,... của con người thì vẫn chưa được coi là tội phạm vì hành vi
ln thể hiện dưới hai hình thức hành động và khơng hành động. Hành vi đó
phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, muốn xác định hành vi nào là hành vi
nguy hiểm cho xã hội chúng ta phải dựa vào tính chất của quan hệ xã hội bị xâm
hại. Quan hệ xã hội đó càng quan trọng bao nhiêu thì mức độ nguy hiểm của
hành vi càng cao bấy nhiêu. Tính chất của hành vi phạm tội là phương pháp thực
hiện hành vi phạm tội thường được thể hiện ở các biện pháp, phương pháp, thủ
đoạn, phương tiện,...
Công cụ phương tiện phạm tội là những đối được sử dụng để thực hiện
hành vi phạm tội như: vũ khí, gậy gộc, thuốc độc. Còn phương pháp thủ đoạn
phạm tội là cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách thức sử dụng công cụ,
phương tiện trong một số tội phạm thì dấu hiệu này là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm cơ bản hoặc cấu thành tăng nặng.
Nếu mức độ thực hiện tội phạm, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay
tội phạm đã hoàn thành
Để xác định chính xác mức độ thực hiện tội phạm để làm cơ sở cho việc
xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt. Những hành vi
này là nguy hiểm đáng kể cho xã hội được thực hiện bằng lỗi cố ý, nên người
thực hiện các hành vi ấy phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo nguyên
tắc hành vi thì mức độ thực hiện ý định phạm tội của mỗi người phạm tội trong
từng giai đoạn cũng khác nhau và do tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi cũng khác nhau.
Khi quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt hay tội phạm đã hoàn thành phải căn cứ vào mức độ thực hiện tội phạm
tức là phải làm sáng tỏ tội phạm được thực hiện ở giai đoạn nào, thực tế khách
thể đã bị tổn hại chưa, mức độ thiệt hại ra sao, hành vi chưa đạt ở dạng nào;
phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, hay phạm tội chưa đạt đã hồn thành và
xem xét tính chất của các hậu quả sắp xảy ra. Người phạm tội tiến càng gần mục
16
đích, đến kết quả phạm tội, mong muốn thì mức độ thực hiện ý định phạm tội
càng cao. Vì vậy, hình phạt tịa án áp dụng đối với người phạm tội càng nghiêm
khắc.
Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra
Hậu quả do tội phạm gây ra ảnh hưởng lớn đến việc quyết định hình phạt.
[42 tr] Dấu hiệu hậu quả nằm trong mặt khách quan của tội phạm, nó khơng phải
là dấu hiệu bắt buộc cho tất cả các tội phạm trong cấu thành tội phạm cơ bản của
luật hình sự, mà chỉ là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm khi có cấu thành tội phạm
vật chất mà được quy định trong từng tội nhất định của luật hình sự. Hậu quả do
tội phạm gây ra bao gồm cả những thiệt hại về vật chất lẫn những thiệt hại về
mặt khác. Mức độ nghiêm trọng của hậu quả do tội phạm gây ra ảnh hưởng đến
mức độ nghiêm khắc của hình phạt được quyết định. [42 tr] Như vậy hậu quả
của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những thiệt hại về vật
chất, thể chất và tinh thần. Dấu hiệu hậu quả giúp cho tòa án xác định hậu quả
và định tội trong cấu thành tội phạm vật chất, cấu thành tội phạm tăng nặng để
được khung hình phạt, nhằm đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội
phạm.
Tính chất và mức độ lỗi
Luật hình sự Việt Nam chỉ xem xét trách nhiệm hình sự của một người
khi người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của
mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được khả năng, hành vi đó
sẽ gây ra hậu quả và mong muốn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, hoặc
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể khơng thấy trước được hậu
quả sẽ xảy ra nhưng phải thấy trước hành vi của mình là hành vi nguy hiểm cho
xã hội.
Vì thái độ tâm lý của một người được biểu hiện ở năng lực nhận thức khách
quan và năng lực điều khiển hành vi ở từng hành vi từng loại lỗi nhất định. Tức là,
mỗi hình thức lỗi là sự phản ánh các yếu tố lý trí và yếu tố ý chí có những đặc điểm
nhất định phù hợp với quy luật hoạt động khách quan hành vi và trạng thái tâm lý
17
của một người. Luật hình sự chỉ ra hai loại lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý được
chia ra hai hình thức: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp; lỗi vô ý cũng được chia
ra làm: lỗi vô ý do tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Thời gian, địa điểm, hồn cảnh phạm tội
Là thời gian, khơng gian nơi xảy ra tội phạm, đây cũng là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản, có ý nghĩa quan trong đối với việc cá thể
hóa hình phạt. Thời gian thực hiện tội phạm có thể là ban ngày, ban đêm, buổi
sáng hay buổi chiều; địa điểm phạm tội có thể là đường phố, khu tập thể,... Khi
quyết định hình phạt, tịa án cần cân nhắc các tình tiết này để quyết định hình
phạt.Có nhiều loại tình tiết, dấu hiệu ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện.
1.4.3 Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Yếu tố thứ ba để quyết định hình phạt hình là Tịa án phải cân nhắc "Nhân
thân người phạm tội". Theo Các Mác: "Bản chất của con người khơng phải là một
cái trìu tượng cỗ hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hịa những quan hệ xã hội" [3, tr.257]. Xuất phát từ luận điểm
của C.Mác về bản chất con người, khái niệm nhân thân người phạm tội trong khoa
học pháp lý hình sự có thể được hiểu là tổng hợp các đặc điểm mang tính chất xã
hội của người phạm tội, mà những đặc điểm này có ảnh hưởng đối với việc cá thể
hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, dưới góc độ luật hình sự nhân thân người
phạm tội được hiểu theo khái niệm như sau: ‚“Nhân thân người phạm tội là một
phạm trù lịch sử, bao gồm tổng hợp các đặc điểm về xã hội, tâm lý, đạo đức sinh
học nói lên tính cách con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị quy
định trong Bộ luật hình sự là tội phạm“. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng để
giải quyết trách nhiệm hình sự của người phạm tội một cách cơng minh có căn cứ
và đúng quy định của pháp luật.
Khi đánh giá xem xét về nhân thân người phạm tội là một căn cứ để quyết
định hình phạt, người áp dụng pháp luật(Tịa án) ln phải hiểu hình phạt do hành
vi phạm tội chứ không phải là do nhân thân của người phạm tội vì vậy khi xem xét
nhân thân người phạm tội khơng có nghĩa là Tịa án xem xét nhân thân nói chung,
18
mà chỉ xem xét những đặc điểm nhất định có liên quan đến mục đích của hình phạt.
Nhân thân có đặc điểm xấu, tốt những thuận lợi khó khăn trong quá trình hình
thành nhân cách của người phạm tội để góp phần hồn thành nhân cách qua đó
đánh giá chính xác tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội.Với vị trí là
căn cứ có tính độc lập việc cân nhắc nhân thân người phạm tội khi quyết định hình
phạt phải xác định các nguyên tắc sau:
Đối với những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội mà theo quy
định của BLHS đã xác định là tình tiết định khung, định tội hoặc xác định là tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thì khơng được sử dụng để đánh giá về nhân
thân người phạm tội khi quyết định hình phạt; chỉ những đặc điểm có liên quan
trực tiếp đến tội phạm, có thể thấy những đặc điểm thuộc về nhân thân người
phạm tội sau đây sẽ được cân nhắc khi quyết định hình phạt:
Đặc điểm về nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm, nhân thân người phạm
tội càng xấu thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thường là
nguy hiểm hơn và khả năng giáo dục cải tạo khó hơn so với trường hợp bình
thường, có thể chỉ ra những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh
hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như người có án
tích, phạm tội có tổ chức, có tích chất cơn đồ, có tình thực hiện tội phạm đến
cùng, phạm tội có tính chất chun nghiệp, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng,
dùng thủ đoạn xảo quyệt hoặc có khả năng gây hại cho nhiều người
Những đặc điểm nhân phản ánh khả năng giáo dục và cải tạo của họ.
Bản chất của hình phạt là sự trừng trị khơng có nghĩa là Nhà nước lấy hình
phạt để trả thù hoặc làm thước đo để đền bù ngang giá cho thiệt hại mà người phạm
tội đã gây ra, mục đích chính của hình phạt là để giáo dục cải tạo “Hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tơn trọng pháp luật, phịng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm” [27;10]
Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh của họ
19
đòi hỏi Tòa án phải xem xét khi quyết định hình phạt để đảm bảo hình phạt đã
tun có tính thực tế, phù hợp với các nguyên tắc của luật hình sự cũng như đáp
ứng mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo.
Việc cân nhắc tính đúng đắn, hợp tình hợp lý và có sức thuyết phục các
đặc điểm nhân thân người phạm tội sẽ đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng người vì
nó là cơ sở để quyết định hình phạt cơng minh, tương xứng với tính chất mà
mức độ nguy hiểm của nhân thân bị cáo góp phần đạt được mục đích cải tạo và
giáo dục của hình phạt
1.4.4 Căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trong bất kỳ vụ án hình sự nào cũng bao gồm các tình tiết có giá trị và ý
nghĩa pháp lý khác nhau, đó là tình tiết định tội, định khung, định khung tăng
nặng, giảm nhẹ, tình tiết giảm nhẹ TNHS và các tình tiết tăng nặng TNHS. Thực
tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy nếu khơng hiểu đúng bản chất pháp lý của
tình tiết giảm nhẹ là một căn cứ độc lập của việc quyết định hình phạt việc quy
định tại điều 50 BLHS 2015.
Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS 2015 được sắp
xếp như sau:
* Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm
Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định cho người phạm tội đang trong
quá trình thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng
người phạm tội đã ý thức được hành vi của mình gây hậu quả như thế nào và tự
mình ngăn chặn không cho thiệt hại xảy ra hoặc là làm giảm bớt tác hại của tội
phạm. Như vậy ta có thể hiểu người tội phạm là sau khi đã được thực hiện
nhưng thiệt hại, tác hại chưa xảy ra thì người phạm tội mong muốn hoặc do có
sự tác động khách quan nên đã tự mình thực hiện hành động ngăn chặn làm cho
thiệt hại, tác hại của tội phạm không xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, là sau khi tội phạm đã được thực hiện và thiệt hại, tác hại của tội
phạm đang xảy ra thì người phạm tội mong muốn hoặc có sự tác động khách
quan nên đã tự mình thực hiện hành động hạn chế làm cho tác hại của tội phạm
được giảm bớt trên thực tế. Ở tình tiết này đã được sửa đổi dùng từ “hoặc” thay
20
cho dấu phẩy so với quy định trong BLHS năm 1999 thể hiện việc quy định rõ
ràng là một tình tiết giảm nhẹ tránh cho việc áp dụng trên thực tế hiểu là hai tình
tiết giảm nhẹ.
* Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại khắc phục
hậu quả điểm b khoản 1 Điều 51- BLHS 2015
Tình tiết này hiểu là người phạm tội đã gây ra thiệt hại, có thiệt hại thực tế
đã xảy ra đối với người bị hại nhưng đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường những
thiệt hại do mình gây ra cho bên bị thiệt hại. Người phạm tội bồi thường thiệt
hại phải tự nguyện. Việc tự nguyện bồi thường thiệt hại xảy ra trước khi xét xử
và thuộc ở cấp nào thì cấp đó coi là tình tiết giảm nhẹ. Điều luật khơng quy định
mức độ sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là bao nhiêu, toàn bộ hay một phần.
Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này hồn toàn phụ thuộc vào
mức bồi thường tự nguyện của người phạm tội đối với thiệt hại mà họ gây ra
trong từng vụ việc.
* Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng –
điểm c khoản 1 Điều 51- BLHS 2015
Là người phạm tội đã chống trả lại người đang có hành vi xâm phạm đến
các lợi ích của nhà nước, của tập thể, lợi ích chính đáng của mình hoặc của
người khác một cách rõ ràng là quá đáng. Nếu hành vi chống trả là tương xứng
với hành vi xâm phạm. Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
* Tình tiết phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người khác gây ra điểm e khoản 1 Điều 51 – BLHS 2015
Trong trường hợp phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc
đối với người thân thích của người đó, người phạm tội trong trường hợp này chỉ
cần xác định là họ bị kích động. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ
thuộc vào sự kích động vào hành vi trái pháp luật của nạn nhân.
* Tình tiết phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng do mình
gây ra quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51- BLHS 2015
Hồn cảnh khó khăn ở đây có thể hiểu là thiên tai, địch họa, do dịch bệnh
21