1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến giáp (UTTG) là bệnh ác tính thường gặp nhất của hệ nội
tiết, theo Hiệp hội quốc tế phòng chống ung thư (UICC) UTTG chiếm khoảng
90% tổng số các ung thư tuyến nội tiết và khoảng 1% tổng số các ung thư nói
chung [1], [2]. Tỷ lệ này cao hơn ở các nước có bệnh bướu cổ lưu hành địa
phương, bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam, xuất hiện ở mọi lứa tuổi song nhóm
tuổi hay gặp nhất là 7 – 20 tuổi và 40 – 65 tuổi. Trên thế giới tỷ lệ mắc UTTG
biến đổi từ 0,5 – 10/100.000 dân tùy thuộc vào chủng tộc và vùng địa lý [1],
[2]. Ở Việt Nam số liệu thống kê cho thấy tại Hà Nội tỷ lệ mắc bệnh là
1,9/100.000 dân, tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao hơn nam 2,6 lần; tại thành phố Hồ
Chí Minh tỷ lệ mắc bệnh ở nữ là 2,8/100.000 dân, và ở nam là 1,5/100.000
dân. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp như tiền sử tia xạ vùng đầu
cổ, gia đình có người bị ung thư tuyến giáp... [1], [4], [6].
Về mô bệnh học, UTTG được chia thành các loại: UTTG thể biệt hóa (thể
nhú và thể nang), UTTG thể tủy và UTTG thể khơng biệt hóa.... Các thể bệnh có
tiến triển lâm sàng, cách điều trị và tiên lượng khác nhau. Nhìn chung UTTG thể
biệt hóa thường tiến triển âm thầm, ít có biểu hiện lâm sàng ở giai đoạn sớm, tỷ
lệ cao đối với bệnh u giáp thể nhân (đơn nhân hay đa nhân). Ở Mỹ có 4 – 8%
người lớn có u giáp thể nhân và gần 10% bướu thể nhân là ung thư [1], [2].
Về lâm sàng, UTTG thể biệt hóa thường biểu hiện bằng khối u giáp ở
giai đoạn sớm hoặc một ung thư biểu hiện rõ trên lâm sàng với đầy đủ tính
chất ác tính, nhưng cũng có khi chỉ là hạch cổ di căn đơn độc [3], [4]. Vấn đề
di căn hạch là một trong những đặc tính cơ bản của ung thư biểu mô, đặc biệt
trong ung thư biểu mô tuyến giáp, nó là dấu hiệu lâm sàng quan trọng giúp
chẩn đoán và điều trị.
2
Về điều trị, phẫu thuật là phương pháp được lựa chọn đầu tiên đối với
UTTG thể biệt hóa [3], [4]. Theo khuyến cáo của Hiệp hội Ung thư quốc tế
thì các bệnh nhân UTTG thể biệt hóa di căn hạch cần được phẫu thuật cắt
TGTB + vét hạch cổ phối hợp với điều trị bổ xung I 131 sau mổ nhằm xóa bỏ
mơ giáp cịn sót lại, diệt những ổ di căn hạch và di căn xa làm giảm tỷ lệ tái
phát sau điều trị.
Thực tế hiện nay ở nước ta, UTTG thể biệt hóa thường được chẩn đốn
ở giai đoạn muộn, hoặc điều trị lần đầu khơng hồn chỉnh dẫn đến tỷ lệ tái
phát còn khá cao, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và tốn kém cho bệnh
nhân. Những đánh giá sau phẫu thuật cắt giáp ở bệnh nhân UTTG gần đây
cho thấy tỷ lệ tái phát lên tới 20 – 25% [7], [8]. Chẩn đoán đúng giai đoạn
bệnh để có hướng điều trị ngay từ đầu kết hợp với kỹ thuật phẫu thuật tốt sẽ
làm giảm tái phát tại chỗ, cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân.
Ở Việt Nam, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về UTTG nhưng cịn ít
cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ về kết quả điều trị UTTG thể biệt hóa đã
di căn hạch, vì vậy chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhận xét một số đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt
hóa di căn hạch” nhằm 2 mục tiêu:
1.
Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của UTTG thể biệt
hóa di căn hạch.
2.
Đánh giá kết quả điều trị UTTG thể biệt hóa di căn hạch tại Bệnh
viện Nội tiết Trung Ương.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TUYẾN GIÁP
1.1.1. Vài nét về phơi thai học
Tuyến giáp được hình thành từ chồi mơ của túi thừa nằm trong khí
quản, mơ nguyên thủy xuất phát từ dây vị tràng nguyên thuỷ (ống nguyên nội
bì) và được tạo nên bởi ba mầm:
- Mầm giữa: ở ngang mức cung mang thứ 2, trông như một thừng cong
(đường giáp lưỡi). Phần trên tạo nên lỗ tịt (ở người trưởng thành, di tích của nó
là nhú lưỡi ở mũi nhọn của V lưỡi), phần giữa biến mất, phần dưới tồn tại để
tạo nên thuỳ giáp và tháp giáp. Thường đường giáp lưỡi biến mất khi phôi thai
hai tháng tuổi. Phần tạo nên tháp tồn tại, dính vào bờ trên của eo giáp. Có
trường hợp cịn phần trên ở trong nền lưỡi, ở trên hoặc dưới xương móng, có
khi ở trong lồng ngực. Trong các trường hợp này sẽ tạo ra tuyến giáp trạng phụ
mà ta thường gọi là tuyến giáp lạc chỗ [5], [9], [10], [11].
- Hai mầm bên: Được sinh ra từ túi mang thứ 4, các túi mang này sẽ
sinh ra các tuyến cận giáp trên, còn tuyến cận giáp dưới xuất phát từ túi mang
nội bì thứ 3.
1.1.2. Sơ lược giải phẫu tuyến giáp
1.1.2.1. Hình thể ngồi
Tuyến giáp ơm quanh gần hết thanh khí quản, nằm ở giữa phía trước dưới
của cổ. Gồm hai thùy phải và trái được nối với nhau bởi eo tuyến giáp, đơi khi có
tháp giáp tách từ bờ trên của eo giáp. Thùy phải tuyến giáp thường to hơn thùy
trái. Trọng lượng tuyến giáp ở người lớn trung bình từ 25 – 30g [13], [14].
4
* Thùy tuyến: Mỗi thùy bên tuyến giáp có hình nón, đỉnh hướng lên
trên và ra ngồi tới ngang mức đường chếch của sụn giáp, đáy của thùy
xuống tới ngang mức vịng sụn khí quản 4 hoặc 5. Thùy tuyến cao 5cm,
chỗ rộng nhất đo được khoảng 3cm và dày 2cm. Thùy tuyến giáp có ba
mặt, hai bờ và hai cực [14].
+ Các mặt
- Mặt trước ngoài liên quan với cân cơ vùng dưới móng.
- Mặt sau liên quan với mạch, thần kinh và tuyến cận giáp.
- Mặt trong liên quan với thanh quản, khí quản, thực quản, với nhánh ngoài
của thần kinh thanh quản trên và với thần kinh thanh quản quặt ngược.
Do những liên quan này khi bị chèn ép do khối u sẽ gây khó thở, khàn
tiếng, nuốt vướng.
+ Các bờ tuyến giáp
- Bờ trước liên quan với nhánh trước của động mạch giáp trên.
- Bờ sau liên quan với tuyến cận giáp, ở dưới liên quan với động mạch
giáp dưới.
+ Các cực tuyến giáp
- Cực trên liên quan với động mạch giáp trên.
- Cực dưới liên quan với bó mạch giáp dưới, bên trái liên quan đến ống ngực.
* Eo tuyến giáp
Eo tuyến nằm vắt ngang nối hai phần dưới của hai thùy tuyến, từ bờ
trên eo thường tách ra một mẩu tuyến chạy lên trên tới xương móng gọi là
thùy tháp. Eo dính vào vịng sụn khí quản II – IV nên nó di chuyển theo thành
khí quản khi ta nuốt, đây là một đặc điểm giúp ta phân biệt khối u của tuyến
giáp với các khối u khác ở cổ [14].
5
Hình 1.1. Giải phẫu tuyến giáp
(Trích từ Atlas giải phẫu người của Frank H. Nnetter - NXB Y học - 1996)
1.1.2.2. Mạch máu và thần kinh
* Mạch máu
- Động mạch: Cung cấp máu cho tuyến giáp có bốn động mạch chính:
hai động mạch giáp trên và hai động mạch giáp dưới [13], [14].
+ Động mạch giáp trên: Tách từ động mạch cảnh ngoài, đến cực trên
của mỗi thuỳ giáp chia 3 nhánh vào mặt trước ngoài, mặt trong, mặt sau.
Động mạch giáp trên cấp máu chủ yếu cho tuyến giáp.
+ Động mạch giáp dưới: Tách từ động mạch dưới đòn tới thuỳ giáp
chia ra các nhánh cho phần dưới của tuyến giáp và tuyến cận giáp.
+ Đôi khi tuyến giáp còn được cấp máu bởi động mạch giáp dưới cùng
tách từ thân cánh tay đầu hoặc từ cung động mạch chủ.
Đặc điểm bố trí hệ thống động mạch của tuyến giáp là các thân động
mạch nằm trên bề mặt của tuyến.
6
- Tĩnh mạch: Các tĩnh mạch của tuyến giáp tạo nên các đám rối ở trên
mặt tuyến và phía trước khí quản, các đám rối này đổ vào các tĩnh mạch giáp
trên, giáp dưới và giáp giữa. Chỉ có tĩnh mạch giáp trên đi theo động mạch
cùng tên. Tĩnh mạch giáp giữa từ mặt bên của tuyến, gần cực dưới chạy ngang
ra ngồi đổ vào tĩnh mạch cảnh trong. Cịn tĩnh mạch giáp dưới đi xuống ở
trước khí quản và đổ vào các tĩnh mạch cánh tay đầu phải và trái.
Hình 1.2. Mạch máu ni dưỡng tuyến giáp
(Trích từ Atlas giải phẫu người của Frank H. Nnetter - NXB Y học - 1996)
* Thần kinh
Gồm những sợi giao cảm đi từ các hạch giao cảm cổ trên, giữa và dưới.
+ Dây thanh quản trên: Chạy vịng quanh, sau đó bắt chéo mặt trong
của ĐM cảnh trong tới bờ trên xương móng chia làm 2 nhánh trong và ngồi:
- Nhánh trong: Chạy ngang vào màng giáp – móng và tận hết ở thanh quản.
7
- Nhánh ngoài: Là nhánh dưới của dây thanh quản trên, nếu bị tổn
thương dẫn đến khó nói do mất sự điều chỉnh âm thanh.
+ Dây thanh quản dưới phải: Sinh ra từ dây X ở chỗ bắt chéo với phần
đầu tiên của động mạch dưới đòn. Chạy quặt ngược lên ở trong mặt bên của
khí quản, trước thực quản, đi sau dây chằng bên Berry, vào trong thanh quản
ở bờ dưới bó nhẫn – hầu của cơ căng màn hầu dưới. Dây quặt ngược thường
phân chia ở chỗ bắt chéo với nhánh của động mạch giáp dưới. Chỉ có nhánh
vào thanh quản mới là nhánh vận động.
+ Dây thanh quản dưới trái: Tách ra từ dây X ở bờ dưới quai động mạch chủ.
1.1.2.3. Tuyến cận giáp
Hình 1.3. Vị trí của tuyến cận giáp và dây thanh quản
(Trích từ Atlas giải phẫu người của Frank H. Nnetter - NXB Y học - 1996)
Tuyến cận giáp là những tuyến nội tiết nhỏ dẹt, hình bầu dục, màu vàng
nâu, nằm ở bờ sau của thùy tuyến giáp và trong bao tuyến. Kích thước trung
bình của tuyến dài 6mm, rộng 3 – 4mm và dày khoảng 1 – 2mm, nặng khoảng
50mg. Có từ 2 – 6 tuyến, thường là 4 tuyến, mỗi bên có 2 tuyến, một trên và
một dưới. Sự tiếp nối giữa động mạch giáp trên và động mạch giáp dưới nằm
dọc theo bờ sau thùy bên tuyến giáp có liên quan mật thiết với các tuyến cận
giáp và là mốc để tìm tuyến cận giáp [13], [14].
8
1.1.2.4. Hệ thống bạch huyết
Hình 1.4. Các chuỗi hạch chính ở cổ
(Trích từ Atlas giải phẫu người của Frank H. Nnetter - NXB Y học - 1996)
Bắt nguồn từ các mao mạch bạch huyết vây quanh các nang tuyến,
từ đây tân dịch được đổ vào hệ thống bạch huyết dưới vỏ và tạo nên các
ống góp, từ các ống góp bạch huyết được đổ về hai vùng hạch:
- Các hạch trước về bên tĩnh mạch cảnh trong.
- Chuỗi quặt ngược, chặng đầu của hạch trung thất trên và trước.
Vì vậy trong UTTG hay gặp di hạch cảnh.
- Cần chú ý sự nối liền chặt chẽ với nhau của các chuỗi hạch cổ:
Hạch cổ ngang, nhóm hạch gai, nhóm hạch cảnh tạo nên tam giác cổ của
Rouviere [40]. Do sự nối này, UTTG có thể di căn cả hạch nhóm gai.
- Giữa đám rối bạch huyết trong niêm mạc khí quản và của tuyến giáp
có sự thơng thương trực tiếp với nhau. Điều này giải thích những trường hợp
UTTG có di căn sớm vào hạch trước khí quản (tương ứng với eo giáp).
- Động mạch cảnh chung là mốc để phân biệt khoang bạch huyết
trung tâm và khoang bên và đó là những khoang thường được tiến hành nạo
vét hạch trong UTTG [13], [14].
9
1.1.2.5. Vài nét về mô học
* Đại thể
Tuyến giáp được bao bọc xung quanh bởi lớp vỏ xơ nối tiếp với cân cổ.
Mặt trong của vỏ xơ có một lớp mơ liên kết thưa hơn, dính chặt với nhu mơ
tuyến. Từ vỏ bọc ngồi nhu mơ tuyến, mơ liên kết mang theo mạch máu,
mạch bạch huyết, dây thần kinh tiến vào trong tuyến tạo thành một nền liên
kết. Tuyến giáp là một tuyến nội tiết kiểu túi, gồm những túi tuyến (nang
tuyến) có quan hệ mật thiết với các mao mạch máu và mao mạch bạch huyết
nằm trong mô liên kết xen giữa các túi ấy. Lòng túi tuyến chứa một chất dạng
keo gọi là chất keo tuyến giáp do tế bào nang tiết ra [9].
* Cấu tạo vi thể
- Các nang tuyến
Mỗi nang tuyến là một khối hình cầu có đường kính 0,2 – 0,9 mm,
thành túi là biểu mô đơn, cấu tạo bởi hai loại tế bào là tế bào nang (hay tế bào
chính) và tế bào cận nang (tế bào C), lót ngồi biểu mơ là màng đáy.
+ Tế bào nang: những tế bào nang có thể là tế bào dẹt hoặc có hình
khối vng hoặc hình trụ tuỳ thuộc vào trạng thái hoạt động của tế bào. Nhân
nằm ở trung tâm tế bào, hình cầu hay hình trứng, ít chất nhiễm sắc, chứa 1 – 2
hạt nhân. Bào tương ưa base, còn chất keo chứa trong lòng túi tuyến ưa acid.
+ Tế bào cận nang: Những tế bào cận nang lớn gấp 2 – 3 lần tế bào
nang, nằm rải rác xen vào giữa tế bào nang và màng đáy nhưng không tiến
tới mặt trong của thành túi tuyến giáp. Nhân tế bào hình cầu hay hình
trứng, bào tương sáng, nhiều lưới nội bào và có những hạt chế tiết đường
kính 0,1 – 0,4 µm tập trung ở vùng đáy tế bào. Các tế bào cận nang tiết ra
Calcitonin và Somatostatin [9].
10
- Những mao mạch
Những mao mạch máu nằm trong mô liên kết xen giữa các túi tuyến và
có quan hệ mật thiết với các túi tuyến. Chúng được lót ngồi bởi màng đáy và
là mao mạch có lỗ thủng (có cửa sổ). Trong mơ liên kết cịn có nhiều mao
mạch bạch huyết [9].
1. Túi tuyến giáp
2. Mao mạch máu
3. Chất keo
4. Tế bào nang
5. Tế bào cận nang
6. Đám bào tuyến của túi tuyến
giáp đã xẹp xuống do bài tiết
hết chất keo vào máu
7. Vỏ xơ
8. Tế bào chính
9. Tế bào ưa acid
Hình 1.5. Cấu tạo vi thể tuyến giáp (A) và
tuyến cận giáp (B) [9].
1.1.3. Vài nét về sinh lý tuyến giáp
Tuyến giáp là một tuyến nội tiết, trong tuyến có 2 loại tế bào: tế bào
C tiết calcitonine và rất nhiều tế bào tuyến giáp liền nhau tạo thành những
nang đường kính khoảng 100 – 300 micromet. Những tế bào này bắt giữ iod ở
máu và tổng hợp tiền nội tiết tố tích trữ trong các nang. Khi có kích thích bởi
TSH các nang sẽ giải phóng một phần nội tiết tố tuyến giáp đã được tích trữ
dưới dạng tri-iodothyroxine (T3: 20%) và thyroxine (T4: 80%). Hormon này
có các tác dụng:
11
1.1.3.1. Tác dụng lên sự phát triển cơ thể
+ Thúc đẩy sự trưởng thành và phát triển não trong thời kỳ bào thai và
cả những năm đầu sau sinh, nếu không đủ lượng nội tiết tố tuyến giáp trong
giai đoạn này sẽ dẫn đến hậu quả là làm chậm lại sự phát triển và trưởng
thành của não [10], [11], [16].
+ Làm tăng tốc độ phát triển: ở trẻ có quá thừa nội tiết tố tuyến giáp sự
phát triển của xương nhanh hơn nên trẻ cao sớm hơn so với tuổi.
1.1.3.2. Tác dụng chuyển hoá
Nội tiết tố tuyến giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa của hầu hết các
mơ trong cơ thể, tăng tốc độ các phản ứng hóa học, tăng tiêu thụ và thối
hóa thức ăn [10], [11], [16].
1.1.3.3. Tác dụng lên chuyển hóa glucide, lipide và protein
Thyroxin làm tăng hấp thu đường qua ruột và tăng đường huyết nên
cường giáp có thể gây tiểu đường. Thyroxin kích thích tạo cholesterol, tăng
chuyển hóa protein trong cơ thể làm tăng bài tiết N2 vì thế bệnh nhân giảm cân,
tăng bài tiết creatinine trong nước tiểu trong bệnh cường giáp [10], [11], [16].
1.1.3.4. Tác dụng lên hệ tim mạch, hệ thần kinh cơ, cơ quan sinh dục và
các tuyến nội tiết khác
Nếu lượng hormone tuyến giáp tăng cao sẽ làm tăng huyết áp, tăng
nhịp tim. Trên hệ thần kinh, nếu tăng kích tố tuyến giáp sẽ gây cau có, khó
chịu; ngược lại nếu giảm sẽ làm chậm phát triển trí khơn và thể lực…
1.2. ĐẶC ĐIỂM BỆNH HỌC UNG THƯ TUYẾN GIÁP
1.2.1. Dịch tễ học yếu tố nguy cơ
1.2.1.1. Dịch tễ học
Ung thư tuyến giáp chiếm khoảng 1% các loại ung thư, tỷ lệ này cao
hơn ở các nước có bệnh bướu cổ địa phương. Tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở
12
nam là 3/100.000 dân/năm, ở nữ cao hơn từ 2 – 3 lần, tỷ lệ này ít có sự khác
biệt giữa các vùng khác nhau trên thế giới, tuy nhiên ở một vài cộng đồng dân
cư thì tỷ lệ này cao hơn (gồm phụ nữ ở quần đảo Pacific Polynesia, dân ở
Philippin di cư đến Hawaii và Hoa Kỳ) [1].
Ung thư tuyến giáp gặp ở mọi lứa tuổi với hai đỉnh cao là 7 – 20 tuổi và
40 – 65 tuổi, với tỷ lệ nam/nữ là 1/3 [17].
Theo số liệu nghiên cứu từ 1988 đến 1992 của trung tâm Central Valley
(Mỹ) thì tỷ lệ phân bố ung thư tuyến giáp theo giới 2,2 ở nam và 5,9 ở nữ [20].
Ở Mỹ, ước tính có khoảng 18.400 trường hợp mới mắc và 1.200 trường
hợp tử vong trong năm 2000 (Greenlee và CS, 2000) [18].
Ở Việt Nam theo thống kê của bệnh viện K năm 1994 thì tỷ lệ mắc
bệnh ung thư tuyến giáp là 1,8/100.000 dân [17]. Con số ước tính năm 2000,
tỷ lệ mắc ung thư tuyến giáp là 0,9% ở nam và 2,5% ở nữ [1], [11].
1.2.1.2. Yếu tố nguy cơ
Đa số các trường hợp ung thư tuyến giáp khơng tìm được ngun nhân
bệnh sinh, tuy nhiên có một số yếu tố nguy cơ như sau:
- Tiền sử chiếu xạ vùng cổ: ở những bệnh nhân có tiền sử chiếu tia phóng
xạ để điều trị các bệnh vùng đầu cổ, đặc biệt lúc cịn nhỏ sẽ có nguy cơ phát
triển thành u tuyến giáp (khoảng 25% các trường hợp) và 25% trong số này là
ung thư tuyến giáp [2], [17].
- Bệnh nhân sống ở gần biển, nơi có đủ iod trong thực phẩm khi có u đơn
nhân tuyến giáp dễ bị ung thư hơn so với những nơi thiếu iod [17], [21].
- UTTG gặp nhiều ở bệnh nhân có u đơn nhân hay u đa nhân giáp trạng.
- Vùng bướu giáp dịch tễ thường gặp ung thư tuyến giáp thể nang hay thể
khơng biệt hóa. Ung thư tuyến giáp thể nhú hay gặp ở vùng đầy đủ iod [17].
13
- Sau vụ thả bom nguyên tử ở Hiroshima, Nagasaki (Nhật Bản) và sự cố nhà
máy điện nguyên tử Chernobyl (Ukraine) thấy có sự tăng UTTG [17], [18], [21].
- Các yếu tố khác như kích thích TSH kéo dài, tiền sử bệnh Basedow khi
phát triển khối u giáp dễ nghi ngờ ung thư, nhưng ảnh hưởng của các yếu tố
này còn chưa được sáng tỏ [2], [17].
- Vai trò của gen: khoảng 20 – 25% bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp thể
tuỷ có thể là do yếu tố di truyền và do một loại gen bất thường gây ra.
Sự đột biến gen hay gặp nhất ở các loại ung thư là gen p53, còn trong
ung thư tuyến giáp người ta đã thấy sự xuất hiện của gen tiền ung thư RET
nằm trên nhiễm sắc thể số 10 trong ung thư thể nhú và thể tuỷ, gen RAS trong
ung thư thể nang.
Nhưng hiện nay chức năng của các gen này cịn ít được biết, vẫn đang
tiếp tục nghiên cứu. Việc nghiên cứu các bất thường phân tử gây ra ung thư
tuyến giáp có một tầm quan trọng trong lâm sàng vì sự nhận định những yếu
tố tăng trưởng có liên quan đến sự tăng sinh của khối u có thể sử dụng làm
nền tảng cho các biện pháp điều trị mới [2], [17], [22].
1.2.2. Tiến triển của ung thư tuyến giáp thể biệt hóa
Ung thư tuyến giáp thể biệt hóa có tốc độ phát triển rất chậm với thời
gian nhân đôi trên 1 năm, tiến triển tự nhiên trong nhiều năm.
- Sự phát triển tại chỗ, xâm lấn vỏ bao tuyến giáp và các cấu trúc xung quanh
như thực quản, khí quản, thanh quản, xâm nhiễm da phụ thuộc vào phân loại giải
phẫu bệnh và thời gian phát hiện bệnh [17], [23], [24], [25], [26].
- Di căn xa:
+ Ung thư thể nhú thường di căn hạch vùng cổ, có thể di căn sớm ngay cả
khi u còn nhỏ, khoảng 40% có di căn hạch vùng ở thời điểm chẩn đốn. Di căn
xa theo đường máu chiếm khoảng 10% và có từ 1 – 2% di căn xa ở thời điểm
chẩn đoán ban đầu [2], [22], [24].
14
+ Ung thư thể nang ít di căn hạch cổ hơn thể nhú, thường di căn xa theo
đường máu tới phổi, xương. Theo y văn, di căn hạch gặp 5 – 20% và di căn xa
2 – 5% ở thời điểm chẩn đoán [17], [24].
- Tái phát tại chỗ: Nguyên nhân của tái phát tại chỗ là sự hoạt động trở
lại của tế bào u ban đầu do điều trị khơng loại bỏ được hồn tồn tế bào u.
1.2.3. Phân loại mô bệnh học (MBH)
Dựa vào kết quả sinh thiết người ta có thể phân loại mơ bệnh học ung thư
tuyến giáp theo Tổ chức Y tế thế giới (1998) như sau [5]:
U ác tính:
1. Ung thư biểu mơ nhú
Biến thể:
- Vi ung thư nhú
- Bọc trong nang
- Nang
- Tế bào lớn ưa acid
2. Ung thư biểu mô nang
a. Xâm lấn tối thiểu
b. Xâm lấn rộng:
- Biến thể tế bào học:
+ Tế bào lớn ưa acid
+ Tế bào sáng
- Biến thể đảo (ung thư đảo biệt hóa kém)
3. Ung thư biểu mơ tủy
4. Ung thư biểu mơ khơng biệt hóa
5. Loại khác
a. Ung thư biểu mô nhầy
b. Ung thư biểu mơ dạng biểu bì nhầy
c. Ung thư biểu mơ vảy.
Trên thực tế UTTG được phân loại thành nhiều thể khác nhau nhưng chúng
đều xuất phát từ hai loại tế bào nang, cận nang và tổ chức liên kết, tế bào miễn dịch.
Với mỗi loại cấu trúc mô học, tỷ lệ tiến triển bệnh khác nhau [2], [17], [27].
- Ung thư thể nhú: Chiếm khoảng 80%, thường là đa ổ (khoảng 60 –
85% ở hai thuỳ).
- Ung thư thể nang: Chiếm khoảng 14%.
15
- Ung thư thể tuỷ: Chiếm khoảng 4% (1 – 5%).
- Ung thư thể khơng biệt hố: khoảng 2%.
- Ung thư thể nhú - nang được xếp vào loại ung thư thể nhú và ung thư
tế bào Hurthle xếp vào ung thư thể nang vì chúng có diễn biến bệnh, tiên
lượng giống nhau.
- Các loại ung thư khác như ung thư tổ chức liên kết (sarcom), lympho,
ung thư do di căn từ cơ quan khác tới chiếm tỷ lệ thấp.
Hiện nay phân loại mơ bệnh học gồm bốn loại chính được hầu hết các
tác giả và đặc biệt là UICC và AJCC sử dụng trong thực hành lâm sàng và
nghiên cứu gồm: [2], [28]
- Ung thư thể nhú và nhú nang.
- Ung thư thể nang.
- Ung thư thể tuỷ.
- Ung thư thể khơng biệt hố.
1.2.4. Các yếu tố tiên lượng
Bên cạnh phân loại mô bệnh học, phân loại TNM và giai đoạn bệnh nhiều
tác giả đã đề cập đến các yếu tố liên quan đến tiên lượng của bệnh nhân ung thư
tuyến giáp [17], [18], [27]. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh bao gồm:
- Đặc điểm của khối u: Kích thước u, mức độ xâm lấn của khối u, tình
trạng di căn hạch, di căn xa…
- Mơ bệnh học: Ung thư thể nhú, thể nang có tiên lượng tốt, theo
Hundahl (1998) tỷ lệ sống thêm 10 năm là 93% với ung thư thể nhú, 85% với
ung thư thể nang.
- Các đặc điểm về tuổi, giới tính, tiền sử gia đình, sự hồn thiện của
phẫu thuật và điều trị bổ sung sau phẫu thuật có liên quan tới tỷ lệ tái phát hơn
là tỷ lệ sống.
1.2.5. Các phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến giáp
16
1.2.5.1. Chẩn đoán lâm sàng
* Triệu chứng cơ năng
- Giai đoạn đầu: triệu chứng cơ năng thường nghèo nàn, ít có giá trị. Đa
số bệnh nhân đến khám vì xuất hiện khối u vùng cổ. Điều quan trọng cần ghi
nhận là: hoàn cảnh, thời gian phát hiện, sự thay đổi mật độ và thể tích u.
+ U lớn nhanh gợi ý ung thư (đặc biệt u gần đáy tuyến) nhưng lưu ý
những u tuyến và nang cũng có thể to nhanh.
+ Ở thể giả viêm của UTTG: Tuyến giáp to toàn bộ, đau, sốt.
- Giai đoạn muộn hoặc khối u lớn xâm lấn thường có biểu hiện nuốt
vướng, khó thở, khàn tiếng [3], [4], [25].
- Một số bệnh nhân đến vì một di căn xa, qua thăm khám mới phát hiện
được u giáp. Các di căn xa thường gặp là ở phổi, xương, trung thất, não ...
* Triệu chứng thực thể
- Khối u giáp [3], [4]:
+ U có thể biểu hiện một hay nhiều nhân với đặc điểm u cứng, bờ rõ, bề
mặt nhẵn hay gồ ghề, di động theo nhịp nuốt.
+ U có thể ở một thuỳ, eo hoặc cả hai thuỳ.
+ Khi u lớn thường có biểu hiện: Khối u cứng, cố định, đỏ da, sùi loét
hoặc chảy máu.
- Hạch cổ [3], [4]:
+ Đa số hạch cùng bên (có thể hạch cổ đối bên hoặc hai bên).
+ Hạch dãy cảnh, thượng đòn, dưới hàm, dưới cằm, hạch gai. Với đặc
điểm hạch rắn, di động, không đau .
+ Một số trường hợp có hạch trước khi tìm thấy u nguyên phát. Ở
người trẻ, hạch cổ xuất hiện gợi ý ung thư tuyến giáp ngay cả khi không sờ
thấy u tuyến giáp, nhưng thực ra bệnh có thể đã có nhiều năm.
17
- Các biểu hiện của di căn xa như phổi, xương, gan và các di căn khác.
1.2.5.2. Chẩn đoán cận lâm sàng
* Chụp X quang
- Chụp X quang cổ thẳng, nghiêng: Đánh giá khối u có chèn vào khí
quản hay khơng, thực quản có bị đẩy hoặc xâm lấn khơng [25], [26].
- Chụp X quang phổi, xương: Có giá trị đối với những bướu giáp nằm
sau xương ức, tìm tổn thương di căn ở phổi, xương [25], [26].
- Chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ: Có thể đánh giá chính xác hơn
vị trí của u nguyên phát cũng như mức độ xâm lấn của u nhưng khơng có khả
năng phân biệt u lành hay u ác.
* Siêu âm
Siêu âm tuyến giáp là phương tiện chẩn đốn hình ảnh quan trọng trong
khảo sát các bệnh lý của tuyến giáp. Phương tiện này có ưu điểm là an tồn,
khơng độc hại, rẻ tiền và rất hiệu quả để phát hiện bản chất u là đặc, nang hay
hỗn hợp. Siêu âm đánh giá chính xác kích thước, vị trí u tuyến giáp, kể cả
những nhân không sờ thấy trên lâm sàng, phát hiện hạch vùng cổ mà lâm sàng
không thăm khám được. Siêu âm có khả năng phát hiện một số dấu hiệu nghi
ngờ ác tính: giới hạn khơng rõ, có chồi sùi trong nang, mạch máu tăng sinh,
vơi hố…Siêu âm ngày càng được sử dụng nhiều để hướng dẫn làm chọc hút
tế bào bằng kim nhỏ [2], [29], [30].
Thể đặc
Thể nang
Giảm âm
Thể hỗn hợp
Hình 1.6. Một số hình ảnh của siêu âm tuyến giáp
(Trích từ “La Thyroide” - NXB L’Expansion scientiphique Francaise – 1992)
18
* Xạ hình tuyến giáp và xạ hình toàn thân: thường dùng I131
- Phần lớn ung thư tuyến giáp không bắt I 131 và biểu hiện bằng nhân
lạnh. Tuy nhiên phần lớn nhân lạnh là u lành nang tuyến vì thế xét nghiệm
này có ít giá trị chẩn đốn và hay bỏ sót những u nhỏ.
- Xạ hình tồn thân với I131 rất có ích trong việc phát hiện di căn xa
nhưng xét nghiệm này chỉ có giá trị sau phẫu thuật cắt tuyến giáp toàn bộ.
* Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA)
Tại Việt Nam, Nguyễn Vượng (1972) là người đầu tiên sử dụng phương
pháp chọc hút bằng kim nhỏ chẩn đoán một số bệnh thường gặp sau đó được
áp dụng rộng rãi trong chẩn đốn ung thư nói chung trong đó có ung thư
tuyến giáp. Kỹ thuật này có thể thực hiện nhanh chóng, chính xác, rẻ tiền và
dễ áp dụng. Thường áp dụng kỹ thuật chọc hút bằng kim nhỏ tại u và hạch,
sau đó phết lên phiến kính sạch, được cố định và nhuộm Giemsa, có thể làm
nhiều lần khi nghi ngờ. Nếu tìm thấy tế bào tuyến giáp ở hạch thì chắc chắn là
ung thư tuyến giáp. Hiện nay chọc hút tế bào tuyến giáp dưới hướng dẫn của
siêu âm làm tăng hiệu quả của phương pháp chẩn đoán này [5], [17].
* Sinh thiết tức thì
Sinh thiết tức thì là phương pháp chẩn đốn mơ học có ngay trong lúc
mổ trên các tiêu bản cắt lạnh bằng máy cắt lạnh (Cryostat). Kết quả mô học
có sau khoảng 30 phút từ khi gửi bệnh phẩm đi cắt lạnh. Là chẩn đốn mơ
bệnh học có giá trị quyết định nhưng phải sinh thiết đúng và đủ bệnh phẩm
tại u tuyến giáp hoặc các hạch nghi ngờ do di căn ...
* Sinh thiết khối u, hạch sau mổ
Là tiêu chuẩn vàng để chẩn đốn chính xác mơ bệnh học của khối u.
Đặc điểm mô bệnh học của ung thư tuyến giáp [5]:
- Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú:
19
+ Đại thể: U là một khối không đau, đôi khi nhận rõ. Trong một số
trường hợp u phát triển thầm lặng và dấu hiệu đầu tiên là hạch cổ to do di căn.
+ Vi thể: U bao giờ cũng có cấu trú nhú, hình ảnh chiếm ưu thế là các
nhú gồm lưới mô liên kết mao mạch nâng đỡ, nhân tế bào biểu mơ có xu
hướng tự che phủ, nhạt màu gọi là “nhân thủy tinh mờ”. Bào tương tế bào
sáng hay ưa acid. Hầu như bao giờ cũng gặp các cấu trúc túi tuyến, đơi khi
cịn chiếm ưu thế. Những ổ nhỏ calci, hình cầu hay gặp trong ung thư biểu mô
nhú nhưng hiếm gặp trong các tổn thương khác.
+ Biến thể cấu trúc: Ung thư biểu mô nhú xơ cứng không vỏ bọc (thầm
lặng) là một loại cấu trúc của ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú. Đường
kính thường dưới 1 cm và tiềm ẩn về lâm sàng, chỉ phát hiện được sau khi có
di căn hạch cổ. Loại u này xâm nhiễm nhu mô giáp kế cận và có một trung
tâm xơ đơi khi chứa cầu canxi.
- Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nang:
+ Đại thể: Có hai hình thái: cục nhỏ có vỏ bọc rất giống u tuyến nang,
hoặc khối u xâm lẫn rõ tồn bộ một thùy mà tuyến to khơng đều. Chất u xám
trắng, có thể lan qua vỏ để dính hay xâm lấn khí quản, cơ, da và cách mạch
máu lớn vùng cổ.
+ Vi thể: cấu trúc và tế bào u giống như tuyến giáp đang hình thành hay
thành thục, không thấy bất kỳ cấu trúc nhú nào. U cấu tạo bởi những nang có
đường kính thay đổi hoặc kết hợp những túi nang, nhân đặc và tăng sắc. Bào
tương thường giống bào tương bào nang bình thường.
* Chẩn đốn sinh hóa
Định lượng Thyroglobulin: có giá trị cao trong theo dõi sau phẫu
thuật cắt TGTB và điều trị I 131 để tìm tái phát và di căn.
Định lượng T3, fT4, TSH để chẩn đoán phân biệt Basedow.
1.2.6. Điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa
20
Điều trị ung thư tuyến giáp bao gồm các biện pháp: Phẫu thuật, điều
trị ức chế TSH, điều trị bằng I131, tia xạ, hóa chất [27]. Chiến thuật điều trị
phụ thuộc vào thể bệnh và giai đoạn bệnh... Để có hiệu quả tốt cần sự phối
hợp chặt chẽ giữa các bác sỹ chuyên ngành ung thư, các phẫu thuật viên và
các bác sỹ y học hạt nhân.
1.2.6.1. Điều trị phẫu thuật
* Chỉ định phẫu thuật
- Ung thư thể nhú:
+ Cắt toàn bộ thuỳ giáp cùng bên đối với u < 1 cm, bệnh nhân thuộc
nhóm có nguy cơ thấp, khối u không vượt quá vỏ bao tuyến giáp, không thâm
nhiễm mạch máu và di căn [3], [17], [21], [27], [32].
+ Cắt tuyến giáp toàn bộ (TGTB) hiện nay được nhiều phẫu thuật viên
(PTV) ủng hộ. Chỉ định: ung thư tuyến giáp thể nhú ở cả 2 thùy, khối u vượt
quá vỏ bao tuyến giáp, xâm lấn tại chỗ hay đã có di căn. Phương pháp phẫu
thuật này cịn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều trị bổ trợ bằng I 131 sau mổ,
theo dõi sau điều trị bằng định lượng Thyroglobulin [5], [10], [39].
- UT thể nang và UT tế bào Hurthlre: đa số các khối u thể nang và tế
bào Hurthlre có biểu hiện là những nhân giáp đơn độc, tương đối mềm và có
kích thước khá lớn (2 đến 5cm). Chẩn đoán tế bào học bằng kim nhỏ thường
cho kết quả “không xác định” hay nghi ngờ ác tính. Nhiều khi, ngay cả tại
thời điểm tiến hành phẫu thuật, người ta không thể phân biệt được adenoma
với carcinoma. Vì vậy, nhiều PTV khuyến cáo nên tiến hành cắt toàn bộ một
thùy giáp và eo tuyến. Sau phẫu thuật nếu kết quả giải phẫu bệnh lý là u lành
tính hoặc khối u ác tính nhỏ và chỉ xâm lấn tối thiểu thì bệnh nhân khơng phải
điều trị gì thêm. Nếu tổn thương được xác định là ác tính, có thâm nhiễm, di
căn hạch ... thì bệnh nhân được chỉ định cắt TGTB và điều trị I131 sau mổ.
* Phương pháp phẫu thuật đối với UTTG thể biệt hóa di căn hạch
21
- Theo khuyến cáo của Hiệp hội Nội tiết học lâm sàng Hoa Kỳ (2001)
thì phẫu thuật cắt tuyến giáp toàn bộ + vét hạch cổ trong điều trị UTTG thể
biệt hóa di căn hạch là tối ưu nhất. Nó là phẫu thuật lý tưởng về ung thư học,
làm giảm tái phát tại chỗ và nâng cao chất lượng sống của bệnh nhân, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sử dụng I131 điều trị hủy mơ giáp cịn sót lại sau phẫu
thuật [3], [6], [33].
- Chỉ định vét hạch cổ ở bệnh nhân UTTG dựa theo hướng dẫn của Hội
tuyến giáp Hoa Kỳ (2006) như sau:
+ Vét hạch nhóm VI thường quy đối với ung thư thể nhú và tế bào Hurthle.
+ Vét hạch nhóm II, III, IV, V được áp dụng cho hầu hết các loại ung
thư thể nhú và tế bào Hurthle khi phát hiện có hạch trước phẫu thuật hoặc
trong quá trình phẫu thuật.
+ Các phương pháp vét hạch:
• Vét hạch triệt căn cổ điển.
• Vét hạch triệt căn mở rộng.
• Vét hạch triệt căn cải biên.
• Vét hạch chọn lọc.
- UTTG thường có nhiều ổ, các nghiên cứu GPB sau phẫu thuật cho
thấy 32% số bệnh nhân có các ổ ung thư ở cả 2 thùy, 50% có nhiều ổ nhỏ
trong một thùy nên phẫu thuật cắt TGTB là chỉ định được lựa chọn ở các
trung tâm chuyên khoa về tuyến giáp. Tuy nhiên, ngay cả đối với các PTV
có kinh nghiệm về phẫu thuật cắt TGTB, vẫn có tới 80% các trường hợp
bệnh nhân có mơ giáp sót sau phẫu thuật. Trong nhiều trường hợp, tổ chức
khối u xâm lấn vào mạch máu, thần kinh, đường thở... cũng không cho phép
PTV cắt triệt để nhu mô tuyến giáp. Hơn nữa điều trị bằng phẫu thuật cắt
giáp đơn thuần không giải quyết được các trường hợp UTTG đã có di căn xa
22
vào phổi, xương, não cho nên việc điều trị bằng I 131 sau phẫu thuật là yêu
cầu cần thiết và hết sức quan trọng.
1.2.6.2. Điều trị I131
I131 chỉ có tác dụng với những trường hợp UTTG thể biệt hoá: là loại tế
bào ung thư có khả năng hấp thu I131. Phương pháp này đã được sử dụng ở Mỹ
và trên thế giới hơn 60 năm và có hiệu quả điều trị cao.
Cơ chế tác dụng
I131 là một đồng vị phóng xạ có thời gian bán rã vật lý 8,02 ngày, phát ra
bức xạ bêta với mức năng lượng 606 keV và bức xạ gamma với mức năng
lượng chủ yếu 364 keV. I131 được đưa vào cơ thể dưới dạng muối NaI 131 qua
đường uống, dạng dung dịch, hoặc viên nang. Tác dụng điều trị của I131 chủ
yếu là do tia bêta. Bức xạ bêta đi đến mô giáp, đâm xuyên gây tổn thương các
liên kết hóa học, phá hủy phân tử ADN, rối loạn sinh tổng hợp protein ... dẫn
tới các rối loạn chức năng và hậu quả cuối cùng là gây chết tế bào. Tia bêta
của I131 có khả năng đi trong tổ chức khoảng 1 mm. Vì vậy, I 131 ít ảnh hưởng
đến các mơ xung quanh, có thể dùng liều lớn để điều trị bệnh [4], [27], [34],
[35], [36].
Mục đích sử dụng I131
- Loại bỏ phần tổ chức tuyến giáp cịn sót sau phẫu thuật bao gồm cả mơ
giáp lành tính và cả những ổ ung thư rất nhỏ (micro – metastase).
- Tạo điều kiện theo dõi sự tiến triển của bệnh bằng định lượng nồng độ
Thyroglobulin (Tg) – một protein chỉ có nguồn gốc từ mơ giáp. Vì vậy, khi
tuyến giáp đã được loại bỏ hồn toàn Tg được coi là chất chỉ điểm đáng tin
cậy trong theo dõi tiến triển của bệnh.
- Điều trị những ổ di căn ung thư tại các tổ chức hạch, phổi, xương...
- Hầu hết các tác giả đồng ý không nên điều trị I 131 một cách thường quy
sau mổ mà chỉ dành cho các loại ung thư thể biệt hoá (nhú, nang), tuổi cao, nhiều
23
ổ, có xâm lấn tại chỗ, và đặc biệt có di căn xa. Dùng I131 làm giảm tỷ lệ tái phát
tại chỗ nhưng không kéo dài thời gian sống thêm. Đối với ung thư tuyến giáp có
di căn xa (xương, phổi) đáp ứng tốt với điều trị này, đặc biệt là loại có bắt iod
phóng xạ. Theo Maxon (1990), Sisson (1996): Tỷ lệ sống thêm 5 năm với di căn
xa có bắt iod là 60% so với 30% khối di căn không bắt iod.
- Liều điều trị từ 100 – 200 mCi cho các trường hợp tái phát, di căn xa và
có thể lặp lại nhiều lần. Nếu liều quá 800 mCi có thể gây ra các tai biến như suy
tủy, bệnh bạch cầu. Kết quả nghiên cứu của Tubiana và cộng sự (1985) so sánh
giữa 2 phương pháp có sử dụng I131 và không sử dụng I131 thấy tỷ lệ sống thêm
không bệnh tương ứng là 80% và 73% sau 5 năm [4], [27], [34], [35], [36].
1.2.6.3. Điều trị nội tiết
Sử dụng hormon tuyến giáp hay liệu pháp ức chế TSH nhằm ức chế
TSH huyết thanh. Levothyroxine được sử dụng với liều cao hơn nhu cầu sinh
lý bình thường để ức chế sự sản xuất TSH của tuyến yên.
Levothyroxine được dùng cho bệnh nhân UTTG sau phẫu thuật cắt
TGTB vào khoảng thời gian giữa các đợt điều trị I 131 và khi bệnh nhân đã xóa
sạch mơ giáp sót. Mục đích của liệu pháp hormon là thay thế hoạt động của
tuyến giáp đã cắt bỏ và ức chế TSH, hạn chế sự phát triển của các tế bào ung
thư có nguồn gốc từ tế bào nang tuyến, tác dụng giảm tỷ lệ tái phát và tăng thời
gian sống thêm. Vấn đề đặt ra là nên sử dụng liều levothyroxine bao nhiêu để
duy trì nồng độ TSH vừa đủ để có hiệu quả ức chế sự phát triển của tế bào ung
thư đồng thời hạn chế được tác dụng phụ của liệu pháp dùng hormon tuyến
giáp liều cao. Nhiều chuyên gia duy trì liệu pháp ức chế TSH hồn tồn (complete
TSH suppression) với liều levothyroxine đưa nồng độ TSH huyết thanh trong
khoảng < 0,01 – 0,1UI/ml ở các bệnh nhân có nguy cơ cao, đặc biệt là những bệnh
nhân có nguy cơ tái diễn cao và tử vong, bệnh nhân không thể hủy sạch tổ chức
ung thư. Với mức TSH này bệnh nhân sẽ ở trong tình trạng cường giáp dưới lâm
24
sàng hoặc cường giáp nhẹ. Trái lại, ở nhóm nguy cơ thấp, liều levothyroxine nên
duy trì TSH huyết thanh ở mức 0,1 – 0,4 UI/ml [21], [37], [38].
1.2.6.4. Xạ trị ngoài
- Xạ trị ngoài trong UTTG là một vấn đề còn nhiều tranh luận, nhất là
với ung thư thể biệt hố. Phương pháp này ít được sử dụng ở đa số các trung
tâm điều trị ung thư ở Mỹ. Viện Goustave Roussy (Pháp) là một trong những
trung tâm lớn có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này. Theo nghiên cứu của
Tubiana và Schlumberger (1985) cho thấy có hiệu quả trong việc kiểm soát tại
vùng với UTTG thể biệt hoá. Tỷ lệ tái phát là 43% sau phẫu thuật không triệt
để đơn thuần so với 16% phẫu thuật không triệt để có xạ trị và 19% sau phẫu
thuật triệt để đơn thuần so với 9% kết hợp với xạ trị ngoài.
- Xạ trị ngồi là chỉ định khơng thể thiếu trong di căn xương nhưng
không phẫu thuật được, hoặc di căn cột sống, hoặc nền sọ mà khơng bắt iod
phóng xạ. Chỉ định cho các trường hợp phẫu thuật không lấy hết được tổ chức
ung thư, có nguy cơ tái phát, ung thư thể khơng biệt hố hoặc phối hợp với
I131 để tăng hiệu quả của iod phóng xạ vì các u lớn khó kiểm sốt đơn thuần
bằng I131, hoặc khơng thể phẫu thuật được. Liều tia thường từ 50 – 60 Gy bao
gồm vùng tuyến giáp, hạch cổ và trung thất [36], [37], [38].
1.2.6.5. Điều trị hố chất
Hố chất ít được áp dụng trong điều trị ung thư tuyến giáp vì hiệu quả
kém, nhất là loại biệt hố. Thường dùng hố chất kết hợp với xạ trị ngồi
trong điều trị ung thư thể khơng biệt hố. Loại hố chất hay được sử dụng là
Doxorubicin đơn thuần hoặc phối hợp với Cisplatin [2], [3], [21].
1.2.6.6. Điều trị UTTG có di căn xa hoặc tái phát
Có di căn xa nhưng có thể cắt bỏ được nên tiến hành cắt tuyến giáp toàn
bộ kết hợp với điều trị hormon và I131. Hoá chất khơng có hiệu quả nhiều, chỉ áp
25
dụng khi mô di căn không bắt xạ. Xạ trị ngoài thường áp dụng cho di căn xương.
Trường hợp di căn đơn độc, có thể phẫu thuật cắt bỏ khối u di căn.
1.2.7. Tình hình nghiên cứu về ung thư tuyến giáp
1.2.7.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
UTTG thể biệt hóa đã được nghiên cứu từ rất sớm với số lượng lớn
bệnh nhân, trên các khía cạnh khác nhau trong thời gian dài. D.H.Shah,
A.M.Samuel, R.S.Rao đã nghiên cứu 1904 bệnh nhân trong đó thể nhú – nhú
nang chiếm 55,1%, thể nang chiếm 43,9%; tuổi trung bình 38,4 ± 13,9; tỷ lệ
nữ/nam là 1,3/1; tỷ lệ tái phát 13,9% [38].
Sherman SI (2003) cho thấy khi phẫu thuật cắt TGTB đơn thuần tỷ lệ
tái phát là 51% so với phẫu thuật cắt TGTB kết hợp với vét hạch trung tâm và
hạch cổ bên tỷ lệ tái phát chỉ còn 18% [39].
Simon Grodski và cộng sự (2007) khi nghiên cứu phẫu thuật vét hạch
nhóm VI thường quy cho tất cả các bệnh nhân UTTG thể biệt hóa nhận thấy
giảm tỷ lệ tái phát và giảm nồng độ Tg [40].
Nghiên cứu của Mazzaferri và cộng sự trên 1528 bệnh nhân đã thấy tỷ
lệ sống sau 10 năm với UTTG thể nhú và thể nang được điều trị bằng I 131 sau
phẫu thuật cắt TGTB lần lượt là 94% và 84% [41].
1.2.7.2. Nghiên cứu trong nước về ung thư tuyến giáp
Các con số thống kê về UTTG ở nước ta cho thấy tỷ lệ của bệnh
tương đối cao. Theo số liệu của Phạm Hoàng Anh ghi nhận ung thư Hà Nội
năm 1991 – 1995, UTTG chiếm ở nam là 0,9% và nữ là 3% trong tổng số
các loại ung thư [1].
Về mặt chẩn đoán và điều trị, Nguyễn Quốc Bảo (1999) cho thấy phần
lớn u có kích thước lớn hơn 3cm, nhiều nhân, tỷ lệ di căn hạch cao. Xạ hình
đồ tuyến giáp sau mổ thấy 41,9% cịn rải rác mơ giáp sót lại ở vùng tuyến
giáp, 65% còn tổ chức tuyến giáp [6].