V
Ũ
T
HỊ
M
AI
T
R
A
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ MAI TRANG
L
U
Ậ
T
HÌ
N
H
S
Ự
V
À
T
Ố
T
Ụ
N
G
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
K
H
Ĩ
A
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ MAI TRANG
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN
LỜI CAM ĐOAN
“Tôi xin cam đoan luận văn về đề tài “Tội mua bán trái phép chất ma
túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là cơng trình nghiên cứu cá nhân của tôi
trong thời gian qua. Mọi số liệu sử dụng phân tích trong luận văn và kết quả
nghiên cứu là do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách khách quan, trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và chưa được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm nếu có sự khơng trung thực trong thơng tin sử
dụng trong cơng trình nghiên cứu này.
Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Thị Mai Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA
BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY................................................................. 7
1.1.
Khái niệm về chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma tuý theo pháp
luật hình sự Việt Nam........................................................................................7
1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy..........................................9
1.1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma
túy
10
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy................... 16
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỘI PHẠM
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI
DƯƠNG.......................................................................................................... 24
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử tội mua bán
trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương......................................... 24
2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương........................................................ 26
2.3. Những hạn chế về hoạt động xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy
trên địa bàn tỉnh Hải Dương............................................................................38
2.4. Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động xét xử tội mua bán trái phép
chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.........................................................46
Chương 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY............................49
3.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma
túy 49
3.1.1. Hoàn thiện qui định pháp luật về khái niệm tội phạm ma túy...............49
3.1.2. Hoàn thiện qui định pháp luật về định tội danh đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy..............................................................................................49
Hoàn thiện qui định về giám định hàm lượng, tính khối lượng các chất
3.1.3.
ma túy ..............................................................................................................51
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tội mua bán trái phép chất ma
túy 53
3.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự.........................53
3.2.2. Hồn thiện cơng tác tổ chức.................................................................. 54
3.2.3. Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống Tòa án
nhân dân.......................................................................................................... 55
3.2.4. Nâng cao năng lực chuyên môn của Thẩm phán.................................. 56
3.2.5. Nâng cao chất lượng hội thẩm nhân dân...............................................58
3.2.6. Nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng....................60
3.3. Các giải pháp khác.................................................................................. 61
KẾT LUẬN..................................................................................................... 63
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
MBTP:
Mua bán trái phép
TAND:
Tịa án nhân dân
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm ma túy với tình hình tội
phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm
26
2016-2020
Bảng 2.2: So sánh tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma
túy với tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương
27
giai đoạn từ năm 2016-2020
Bảng 2.3: Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội
28
mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn 2016-2020
Bảng 2.4. Đặc điểm nhân thân của các bị cáo phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy
30
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây, thế giới đang phải đối phó với nhiều vấn đề
nhức nhối mang tính tồn cầu trong đó có tệ nạn và tội phạm ma túy. Trong 5
thập kỷ qua, ước tính sản lượng ma túy hàng năm tại khu vực “Tam giác
vàng” đạt 650 tấn thuốc phiện, số lượng này có thể sản xuất ra 60 tấn heroin,
1 tỉ viên ma túy tổng hợp và 20 tấn ma túy đá. Tệ nạn và tội phạm về ma túy
đã trở thành hiểm họa chung của nhân loại, gây hậu quả và tác hại nghiêm
trọng về nhiều mặt cả về chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức, sức khỏe,… của
con người. Đây là nguồn phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, nhiều loại tội phạm
nguy hiểm và là cầu nối lan truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Ở nước ta tình
hình tệ nạn và tội phạm về ma túy ngày càng tăng nhanh. Theo số liệu từ Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (Bộ Công an), năm 2018, toàn quốc phát
hiện, bắt giữ gần 13.000 vụ, hơn 20.000 người, thu giữ hơn 156 kg heroin, gần
19 kg thuốc phiện, hơn 44.000 viên ma túy tổng hợp. Đến năm 2019 có gần
23.000 vụ (tăng 77%) bị phát hiện, hơn 35.000 người bị bắt giữ (tăng 73%),
thu giữ gần 1.500 kg heroin (tăng 857%) và gần 1 triệu viên ma túy tổng
hợp… và trong 6 tháng đầu năm 2020 đã phát hiện 11.215 vụ, bắt giữ 15.775
đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 235 kg heroin, gần 1,6 tấn và 850.000
viên ma túy tổng hợp, 113kg cần sa.
Tỉnh Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, mặc dù
không phải địa bàn trọng điểm phức tạp về ma túy nhưng có đặc điểm là giao
thơng thuận lợi (nhiều quốc lộ như quốc lộ 5, quốc lộ 18) và giáp với nhiều
tỉnh, thành phố lớn là Hải Phịng, Bắc Ninh, Quảng Ninh. Chính những đặc
điểm đó đã tạo điều kiện phát sinh nhiều tệ nạn xã hội trong đó có tội phạm về
ma túy mà điển hình là mua bán trái phép chất ma túy. Thời gian gần đây số
8
vụ, số đối tượng liên quan đến mua bán trái phép chất ma túy ngày càng gia
tăng, đặc biệt số ma túy bị bắt giữ ở từng vụ có số lượng lớn đã khiến cho dư
luận quan tâm lo lắng. Đứng trước thực trạng đó, các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự tỉnh Hải Dương đã có nhiều biện pháp xử lý hành chính, hình sự
nhằm tun truyền, giáo dục nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối
tượng có biểu hiện vi phạm.
Qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy tỉnh Hải
Dương trong đó có cơng tác xét xử loại tội phạm này, có thể nhận thấy những
hạn chế, vướng mắc cần được hoàn thiện về nhiều mặt, cả mặt pháp luật cũng
như việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử tội mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Do vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy
từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” để làm luận văn thạc sỹ luật học là có cơ sở
thực tiễn và lý luận.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Dưới góc độ lý luận, đã có nhiều tác giả đề cập đến loại tội phạm này,
điển hình như:
+ Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo pháp luật mới nhất,
Trần Công Phàn, NXB Công an nhân dân, 2019;
+ Người có thẩm quyền xử lý vi phạm, tội phạm về ma túy cần phải
biết, Nguyễn Thị Mai Nga, NXB Tư pháp, 2018;
+ Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét
xử (tài liệu tham khảo dùng cho Thẩm phán, Thư kí Tịa án), Phạm Minh
Tun, nxb Hồng Đức, 2013;
+ Luận án tiến sĩ của TS. Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự
đối với các tội phạm về ma túy trong Luật hình sự Việt Nam”, năm 2006;
+ Luận án tiến sĩ của Đỗ Thành Trường: “Các tội phạm về ma túy trên
địa bàn tỉnh Điện Biên: Tình hình, ngun nhân và giải pháp phịng ngừa”,
năm 2017;
+ Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Thảo: "Các tội phạm về ma
túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2000-2010", năm 2014;
+ Luận văn thạc sĩ của Mai Ngọc Chính: “Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La”, năm 2017;
+ Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Duyệt: “Áp dụng pháp luật
hình sự về các tội phạm về ma túy từ thực tiễn trên địa bàn quận 8, thành phố
Hồ Chí Minh”, năm 2018;
+ Luận văn thạc sĩ của Trần Vũ Danh: “Tình hình tội phạm về ma túy
tại tỉnh Quảng Nam”, năm 2019;
+ Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang: “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm ngăn ngừa,
hạn chế tệ nạn và tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” do
Nguyễn Việt Hùng - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
làm Chủ nhiệm đề tài, hoàn thành tháng 6/2007.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh:
“Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” do Tiến sỹ Nguyễn Minh Tun
- Phó Chánh tịa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, nghiệm thu năm 2009;
+ Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao công
tác phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Lai Châu” do do Thiếu
tướng, Tiến sỹ Bùi Xuân Phong – Phó Cục trưởng Cục An ninh điều tra làm
chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2020.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp
luật trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án đối với tội phạm
ma túy nói riêng. Đây đều là những tài liệu tham khảo bổ ích và cần thiết cho
tác giả trong q trình viết luận văn. Tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đi sâu về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự
2015 từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Vì vậy đây là đề tài đầu tiên đi sâu nghiên
cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy dựa trên số liệu, vụ án thực tế tại
tỉnh Hải Dương. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được cũng như hạn chế,
nguyên nhân đồng thời kiến nghị hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan
đến tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Hải Dương. Trên cơ sở đó xác định những tồn tại, hạn chế trong quy định của
Bộ luật hình sự và đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật liên quan đến tội
mua bán trái phép chất ma túy, nâng cao chất lượng xét xử tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Do vậy luận văn đã đặt ra
những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội MBTP chất ma túy theo pháp
luật hình sự Việt Nam;
Nêu lên những đặc điểm, phân tích, đánh giá quy định hiện hành và
thực tiễn xét xử tội MBTP chất ma túy theo BLHS trên địa bàn tỉnh Hải
Dương giai đoạn từ năm 2016 - 2020.
Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng
xét xử tội MBTP chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành
luật Hình sự và tố tụng hình sự, luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề lý
luận và thực tiễn xét xử tội MBTP chất ma túy theo BLHS giai đoạn 20162020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành luật
Hình sự và Tố tụng hình sự.
Về địa bàn: Đề tài được thực hiện trong phạm vi tỉnh Hải Dương.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm
2016 đến năm 2020, gồm số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương.
Về tội danh: Luận văn nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma
túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) và pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như
thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lê
Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nội dung,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng chống tội
phạm, văn bản pháp luật của Nhà nước về các vấn đề tội phạm và hình phạt.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn dịch, nghiên
cứu tài liệu, nghiên cứu bản án,… và các phương pháp nghiên cứu của khoa
học hình sự để hồn thiện pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Về mặt lý luận, luận văn được thực hiện có ý nghĩa góp phần làm cụ
thể hơn những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Về mặt thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến
hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong việc giải quyết những vụ án hình sự về
tội mua bán trái phép chất ma túy. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy, nghiên cứu và học tập liên quan đến chuyên ngành luật hình sự trên
cả nước.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy
theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội phạm mua bán trái phép chất ma túy
trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Các giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự và nâng cao
hiệu quả xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma tuý
theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm chất ma túy
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ma túy” ban đầu được định nghĩa là thuốc
phiện, cây cần sa và cây coca. Một số ý kiến cho rằng, gọi là “ma túy” bởi vì
các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái, có thể chữa một số bệnh và
tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, làm cho con người mê mẩn, ngây ngất.
Ngày nay, ngoài các sản phẩm của cây cần sa, cây thuốc phiện, cây coca…
còn có các chất được tổng hợp trong phịng thí nghiệm. Nên khái niệm ma túy
được mở rộng hơn, ở các nước khác nhau thì quan điểm về khái niệm ma túy
cũng khác nhau nhưng điểm chung của Luật về kiểm soát ma túy của các
nước là đều đề cập đến ma túy gồm các chất gây nghiện và các chất hướng
thần.
Theo từ điển Tiếng Việt thì ma túy là tên gọi chung các chất có tác
dụng gây trạng thái đờ đẫn, ngây ngất, nếu dùng quen sẽ thành nghiện. Theo
khái niệm khoa học: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên (morphin...);
bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng hợp
(amphetamine) có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương gây cảm giác như
giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì sẽ
phải sử dụng lại, nếu khơng sẽ rất khó chịu.
Theo Liên hiệp quốc thì “Ma túy là chất hóa học có nguồn gốc tự
nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm
thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc
vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng”.
Theo Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2008) quy định:
“Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong danh mục do Chính phủ ban hành.Chất gây nghiện là chất kích thích
hoặc chất ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện với người sử dụng.Chất
hướng thần là chất kích thích ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng
nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng.” [30]
Theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ
ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, thì các chất ma túy gồm 227
chất, chia làm 03 danh mục và 22 hóa chất khơng thể thiếu được trong q
trình điều chế chất ma túy cần kiểm soát, gồm:
Danh mục 1: Các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng, việc sử
dụng chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và điều tra
tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (gồm 47 chất
trong đó có một số chất thường gặp như cocain, morphin, ecstasy, cần sa và
nhựa cần sa…).
Danh mục 2: Các chất ma túy độc hại được dùng hạn chế trong phân
tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh
vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 112 chất trong đó có một số chất
thường gặp như côcain, thuốc phiện, nhựa coca…)
Danh mục 3: Các chất ma túy độc dược dùng trong phân tích, kiểm
nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo
yêu cầu điều trị (bao gồm 68 chất trong đó có một số chất thường gặp như
diazepam, delorazepam…).
Danh mục 4: Các hóa chất khơng thể thiếu trong quá trình điều chế ma
túy (22 chất trong đó có một số chất thường gặp như acetone, acetic
anhydride…).
Từ những quy định trên, có thể hiểu: Ma túy là các chất có nguồn gốc
tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng
làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó, nếu lạm dụng ma túy,
con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử
dụng và cộng động.
1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Theo PGS.TS. Phạm Minh Tuyên Tội phạm ma túy được hiểu “ là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến chế độ
quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà nước, từ đó gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của xã hội và của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội.”
[16; tr.233].
Tội phạm ma túy là tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội, nó
mang đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bởi không những gây mất trật tự trị
an xã hội mà còn gây ra thiệt hại cho nhà nước, xã hội, công dân, ảnh hưởng
đến sức khỏe, đạo đức của con người.
Theo Ths. Đinh Văn Quế, mua bán trái phép chất ma túy bao gồm
những hành vi: “bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho
người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán
lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để
đổi lấy ma túy”.[19, tr. 92].
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 2) của trường Đại học luật
Hà Nội thì “hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái
phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào”.[35, tr. 204].
Có thể thấy nhìn chung các nhà làm luật, nhà khoa học đều có chung
quan điểm về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo đó MBTP chất ma túy
là hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn
gốc ma túy do đâu mà có) hoặc trao đổi ma túy như một loại hàng hóa có giá
trị. Cụ thể gồm một trong những hành vi sau: bán trái phép; sản xuất, mua,
tàng trữ, xin, vận chuyển để bán; dùng hàng hóa để trao đổi lấy ma túy hoặc
ngược lại. Ngoài ra, hành vi đồng phạm với bán ma túy cũng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Từ phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm về tội MBTP chất ma túy
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ tuổi chịu và có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi và xâm phạm đến chế độ quản lý,
sử dụng các chất ma túy của Nhà nước gồm: Bán trái phép chất ma túy cho
người khác; Mua, xin, vận chuyển, sản xuất tàng trữ chất ma túy nhằm bán
trái phép cho người khác; Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái
phép; Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán…lấy chất ma
túy nhằm bán lại trái phép cho người khác và các hành vi đồng phạm.
1.1.3.
Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội mua bán trái phép
chất ma túy.
•
Giai đoạn trước năm 1945:
Vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) trước tình hình trồng cây thuốc phiện
và nghiện hút sử dụng thuốc phiện phổ biến, Nhà nước phong kiến Việt Nam
đã có những quy định “Cấm trồng cây thuốc phiện”. Vào đầu thế kỉ XIX, tình
trạng nghiện hút ở nước ta tăng mạnh do ảnh hưởng của cuộc “Chiến tranh
nha phiến” giữa Trung Quốc và Anh. Trước tình tình đó, năm Minh Mạng
ngun niên (1820), luật pháp đã quy định phá bỏ các khu vực trồng cây
thuốc phiện, người nào mua bán thuốc phiện sẽ bị phạt 60 trượng và xử tù 01
năm, tịch thu toàn bộ vật chứng dùng trong bn bán thuốc phiện. Lái bn
nước ngồi buôn bán thuốc phiện bị đánh 100 trượng và tịch thu vật chứng.
Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp đưa hạm đội vào Đà Nẵng, mở đầu
thời kì gần một thế kỉ cai trị nước ta và ban hành hệ thống pháp luật trên toàn
cõi Đông Dương. Pháp công khai phát triển cây thuốc phiện ở nước ta, vua
Tự Đức đã bỏ lệ cấm hút thuốc phiện do vua Minh Mạng đã ban hành trước
đây mà cho đầu thầu, đánh thuế để tăng nguồn thu.
Đến tháng 6/1873, trước tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn bán thuốc
phiện ngày càng tăng, triều đình ban hành trở lại lệnh “Cấm thuốc nha phiến”.
•
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985:
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập,
Nhà nước ta đã nhận thức được sự nguy hại của ma túy. Ngày 10/10/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại một số luật cũ
quy định về các tội phạm ma túy khơng trái với nội dung chính thể Cộng hịa.
Ngày 05/3/1952, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 150/TTg quy
định về việc xử lý những hành vi vi phạm thể chế quản lý thuốc phiện và
Nghị định số 255/TTg ngày 22/12/1952 quy định những người có hành vi vi
phạm thể chế quản lý thuốc phiện sẽ bị xử lý. Ngày 15/9/1955, Thủ tướng
chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 580/TTg bổ khuyết nghị định
150/TTg quy định những trường hợp có thể bị Tịa án xét xử khi buôn lậu
thuốc phiện với mức phạt từ 03 tháng đến 05 năm tù, tịch thu tang vật và phạt
tiền từ một đến năm lần giá trị thuốc phiện buôn lậu. Sau một thời gian, Bộ Tư
Pháp đã ban hành thông tư số 635/VHH-HS ngày 29/3/1958 và thông tư số
33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất đường lối xét xử đối với những vụ
án buôn lậu thuốc phiện.
Theo quy định của Thông tư 635/VHH-HS và thông tư 33/VHH-HS
của Bộ tư pháp: Trường hợp buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở
việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể xử phạt trên 05
năm tù. Đối với người cầm đầu những tổ chức buôn lậu ma túy thì có thể bị
phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ 03 đến 05
năm tù. Bọn cơ hội phạm tội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm phạt từ 01
đến 03 năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có thể bị phạt
01 năm tù hoặc cho hưởng án treo...
Từ năm 1954, sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ đất nước chia cắt làm hai
miền Nam, Bắc nên chính sách pháp luật ở 2 miền lại khác nhau. Tại miền
Nam, tình hình bn bán ma túy, nghiện hút phát triển nhanh và hết sức phức
tạp hơn miền Bắc. Tính đến năm 1975 (sau giải phóng) cả nước có khoảng
150.0
đến 300.000 người nghiện ma túy. Ngày 2/7/1976 Quốc hội ban hành
nghị quyết về thống nhất pháp luật và xây dựng pháp luật mới và ngày
25/3/1977, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về chống buôn
lậu thuốc phiện.
Đến năm 1982, trước tình hình hàng giả, ma túy tăng mạnh, Hội đồng
nhà nước đã ban hành pháp lệnh trừng trị các tội buôn lậu, đầu cơ, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép (trong đó có ma túy được coi là đối tượng của bn
lậu), mức hình phạt đối với những loại tội này rất nặng và có thể lên đến tử
hình. Tuy nhiên tình hình tội phạm về ma túy vẫn có chiều hướng diễn biến
tăng nhanh, phức tạp. Do vậy Đảng và Nhà nước ta đã có thái độ kiên quyết
hơn trong đấu tranh phịng chống ma túy
• Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 2015:
Trong những năm 1980, tệ nạn ma túy có xu hướng gia tăng, đặc biệt
là nạn buôn bán ma túy. Trước tình hình này, BLHS đầu tiên được Nhà nước
ta thông qua ngày 27/6/1985 đã quy định TNHS đối với các hành vi phạm tội
liên quan đến ma túy tại các điều luật là Điều 97: “Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”; Điều 166: “Tội buôn bán
hàng cấm” và điều 203: “Tội tổ chức dùng chất ma túy”. Theo đó chỉ có hành
vi tổ chức dùng chất ma túy được quy định riêng tại điều 203 còn các hành vi
khác về ma túy chưa được quy định thành tội riêng mà những hành vi mua
bán, vận chuyển trái phép chất ma túy được quy định tại các điều 97 (qua biên
giới) và điều 166 (ở trong nước).
Ngày 28/12/1989 Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS, trong đó tách tội phạm ma
túy thành một điều riêng nằm ở Mục B thuộc chương “Các tội phạm xâm
phạm an ninh quốc gia”. Như vậy, đến thời điểm này tội phạm về ma túy
được quy định thành hai tội là: “Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép các chất ma túy” (Điều 96a BLHS) với ba khung hình phạt rất
nghiêm khắc, hình phạt cao nhất lên đến tử hình đối với các trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng và “Tội tổ chức dùng chất ma túy” (Điều 203), với mức
hình phạt cao nhất là mười năm tù.
Tiếp đó, ngày 10/5/1997 tại kì họp thứ 11, Khóa IX, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS năm 1985. Lần này các tội
phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng là chương VII : “Các
tội phạm về ma túy” trong phần các tội phạm của BLHS gồm 14 điều từ điều
185a đến Điều 185o quy định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép
chất ma túy” được quy định tại Điều 185đ của Bộ luật này.
Lần sửa đổi này, các nhà làm luật đã đề cập đến nhiều loại ma túy hơn
ngoài thuốc phiện như: Cây coca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa
chất ma túy và đặc biệt còn tách các hành vi phạm tội thành các tội độc lập.
Mặt khác điều luật đã có quy định về định lượng các chất ma túy để làm căn
cứ truy cứu TNHS. Mức hình phạt đối với loại tội này cũng vô cùng nghiêm
khắc được quy định cụ thể tại 04 khung hình phạt (Điều 96a chỉ có 3 khung
hình phạt). Ngồi ra bổ sung thêm trong điều luật các tình tiết định khung mới
như “phạm tội nhiều lần” và bỏ hình phạt bổ sung là quản chế hoặc cấm cư
trú đối với những người phạm các tội này.
Có thể thấy qua nhiều lần sửa đổi bổ sung BLHS năm 1985 đã hoàn
thiện hơn trong kĩ năng lập pháp hình sự, cụ thể là các tội phạm về ma túy đã
được quy định tại một chương riêng, thể hiện chính sách hình sự của Nhà
nước ta là xử lý nghiêm khắc tội phạm ma túy. Tuy nhiên trong q trình thực
tiễn áp dụng pháp luật vẫn cịn một số điều chưa hợp lý vì vậy BLHS năm
1999 ra đời.
Ngày 21/12/1999, BLHS năm 1999 được Quốc hội nước ta thơng qua.
Theo đó tội MBTP chất ma túy quy định tại Điều 194 với tên gọi là Tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy.
Khác với BLHS 1985 thì BLHS năm 1999 đã gộp 4 tội danh độc lập
tại 04 điều luật khác nhau của BLHS năm 1985 là: Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy (Điều 185 c); tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185 d); tội
mua bán trái phép chất ma túy (Điều 185 đ) và tội chiếm đoạt chất ma túy
(Điều 185 e) thành một tội danh chung. Việc nhập 04 tội danh thành 01 tội có
ý nghĩa làm cho BLHS chặt chẽ hơn về mặt khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng và
đặc biệt là đã giảm được 03 tội có mức án tử hình quy định trong BLHS, đảm
bảo được tính nhân đạo.
Tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa X đã thơng qua Luật phịng, chống
ma túy, có hiệu lực ngày 01/06/2001,đây là đạo luật đầu tiên quy định về
phòng chống ma túy và làm cơ sở pháp lý để đấu tranh với tệ nạn ma túy.
Tiếp đó, ngày 24/12/2007, liên ngành Bộ cơng an – Viện kiểm sát
nhân dân tối cao- Tòa án nhân dân tối cao – Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC quy định hướng dẫn
cụ thể việc áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma
túy” của BLHS 1999 (Thông tư 17), và ngày 14/11/2015 ban hành Thông tư
liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa đổi bổ sung một
số điểm của thông tư 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định
hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các điều 194 nói riêng và Chương XVIII “Các
tội phạm về ma túy” nói chung của BLHS 1999 (Thơng tư 08) . Đây là những
văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định về tội phạm ma túy, góp phần tháo gỡ
nhiều vướng mắc trong quá trình giải quyết những vụ án ma túy.
• Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay.
Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã biểu
quyết thơng qua Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy do sơ suất về mặt kỹ thuật và
những lỗi nghiêm trọng dẫn đến không thể thi hành BLHS năm 2015. Trong
những Điều luật của BLHS năm 2015 có sai sót thì tội MBTP chất ma túy
được quy định tại Điều 251 cũng là Điều luật có nhiều sai sót nghiêm trọng
nhất. Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2018.
Tại Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
về tội MBTP chất ma túy có nhiều điểm mới quan trọng so với Điều 194
BLHS năm 1999. Cụ thể là:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã tách 04 hành vi tại Điều 194 BLHS
năm 1999 thành 04 tội riêng biệt là: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều
249); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép
chất ma túy (Điều 251); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252). Nâng tổng số
điều luật trong chương XX BLHS năm 2015 lên 13 Điều.
Trong q trình áp dụng pháp luật, có thể thấy tội MBTP chất ma túy
có hành vi nguy hiểm cho xã hội hơn tội tàng trữ hay chiếm đoạt chất ma túy,
trong khi đó Điều 194 lại qui định về định lượng, mức hình phạt đối với các
hành vi này giống nhau nên thực tế gặp nhiều khó khăn trong định tội danh và
hình phạt. Vì vậy để định tội danh và áp dụng mức hình phạt một cách phù
hợp giữa các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy, BLHS năm 2015 đã tách những hành vi
trên thành từng điều luật cụ thể.
Thứ hai, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã qui định
rõ ràng từ mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để có căn
cứ truy cứu trách nhiệm hình sự trong từng điều luật cụ thể.
Thứ ba: BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã qui định
thêm một số chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy đã được Chính
phủ quy định vào Điều luật cụ thể như chất ma túy Methamphetamine,
Amphetamine, MDMA, XLR-11 và bổ sung cụm từ “hoặc thể tích” vào từng
khoản, điềm quy định đối với 02 chất ma túy trở lên để đảm bảo quy định đầy
đủ chất ma túy ở thể lỏng.
Thứ tư, tương tự như các tội phạm về ma túy khác, trong Tội MBTP
chất ma túy, thuật ngữ “trọng lượng” cũng được thay đổi thành “khối lượng”
cho phù hợp.
Thứ năm, BLHS 2015 đã bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng
là “c) Đối với 02 người trở lên;”được quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Có thể thấy BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được ban
hành đã tháo gỡ được những khó khăn trong cơng tác xét xử về tội phạm về
ma túy nói chung và tội MBTP chất ma túy nói riêng.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy.
• Khách thể của tội phạm:
Tội mua bán trái phép chất ma túy có khách thể trực tiếp là chế độ độc
quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các
chất ma túy. Những hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bao gồm:
“Nghiên cứu, sản xuất, vận chuyển,tàng trữ, mua bán, bảo quản, phân phối,
trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam chất ma túy,
tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”[30]. Từ đó có thể thấy, chỉ
những cá nhân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình trong hoạt động liên quan đến ma túy mới được coi là
hợp pháp; những trường hợp khác đều là bất hợp pháp và bị xử lý theo quy
định của pháp luật.
• Mặt khách quan của tội phạm:
Về hành vi:
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy gồm những hành vi sau:
a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy
cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh tốn trái phép (khơng phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất
ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện
một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ
điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 Thơng tư 17 đều bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.”[1]
Những hành vi này được quy định cụ thể tại tiểu mục 3.3, Mục 3 phần
II Thơng tư liên tịch số17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP. Theo
đó hành vi khách quan của tội Mua bán trái phép chất ma t có 03 nhóm
chính, đó là:
-
Nhóm hành vi “Bán” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm a, b, c,
e, g mục 3.3, phần II, Thông tư 17): Người phạm tội bằng bất kể hành vi nào
để có được ma túy nhưng nhằm mục đích bán thì đã cấu thành tội này kể cả
hành vi bán hộ ma t thì cũng thuộc nhóm hành vi “bán”trái phép chất ma
tuý.
-
Nhóm hành vi “Trao đổi” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm d, đ
mục 3.3): Việc trao đổi chất ma tuý này có thể là đổi ma tuý để lấy tài sản của
người nhận ma tuý (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc khơng ngang giá)
hoặc có thể là dùng ma t để thanh tốn nợ, trừ nợ. Cũng như nhóm hành vi
“bán” thì trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý.
-
Nhóm hành vi “Hỗ trợ” việc bán, trao đổi trái phép chất ma tuý
(phần cuối mục 3.3). Đây là các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành
vi bán, trao đổi chất ma tuý và có thể gọi chung là trường hợp đồng phạm với
hành vi bán, trao đổi ma tuý. Điểm cần lưu ý trong dấu hiệu khách quan của
tội Mua bán trái phépchất ma túy là: Tất cả các hành vi bán, trao đổi chất ma
túy phải có tính “trái phép”.
Đây cũng là điểm khác giữa tội MBTPCMT với Tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”; Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định
tại Điều 250; Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” được quy định tại Điều 252.
Về mục đích:
Người phạm tội kiếm lợi bất chính dựa trên hoạt động mua bán trái
phép chất ma túy. Đối với loại tội này mục đích phạm tội tuy không phải là
dấu hiệu bắt buộc nhưng là dấu hiệu quyết định cho việc định tội danh. Ví dụ:
Cùng một hành vi mua ma túy, nhưng nếu mục đích là để sử dụng thì đối
tượng sẽ bị khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (nếu đủ khối lượng
quy định); Cịn nếu mục đích là để bán thì sẽ bị khởi tố về tội Mua bán trái
phép chất ma túy.