Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.88 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LIÊN

TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LIÊN

TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN

Hà Nội, năm 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, có sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ Người hướng dẫn là PGS. TS. Dương Tuyết Miên. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây. Những nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đã được trích dẫn và thể
hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Liên


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CVLN

:

Cho vay lãi nặng

BLHS:

:

Bộ luật hình sự

TAND

:


Tòa án nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

01

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

01

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

02

3.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

05

4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

05

5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

06

6.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

06

7.

Kết cấu của luận văn

07

PHẦN NỘI DUNG


08

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

08

VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN
SỰ
Một số vấn đề lý luận về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

08

1.1.1

Khái niệm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

08

1.1.2

Đặc điểm của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

14

1.2.

Quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong

15


1.1

pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1

Quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong

15

pháp luật hình sự giai đoạn trước BLHS năm 2015
1.2.2

Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cho vay lãi nặng

21

trong giao dịch dân sự
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

33

Chương 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CHO VAY LÃI

34

NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH


Khái quát chung về tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh


34

2.1.1

Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh

34

2.1.2

Khái quát tình hình xét xử tội phạm nói chung và tội cho vay lãi

36

2.1

nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong 05
năm gần đây
2.2

Một số bất cập về pháp luật áp dụng đối với tội cho vay lãi nặng

40

trong giao dịch dân sự
2.3.

Đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội cho


44

vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.3.1

Đánh giá thực tiễn định tội danh đối với tội cho vay lãi nặng trong

44

giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.3.2

Đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt tội cho vay lãi nặng trong

47

giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.3.3

Một số hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân trong định tội danh và

50

quyết định hình phạt đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

54

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG


55

CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CHO
VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ TRÊN ĐỊA
TỈNH BẮC NINH
3.1

Phương hướng nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với tội cho

55

vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
3.2

Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý hình sự tội cho vay lãi nặng

60

trong giao dịch dân sự
3.2.1

Giải pháp hồn thiện Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn

60

thi hành
3.2.2.

Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với


66


tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
3.2.2.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công

66

chức của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
3.2.2.2 Giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp xử lý của các cơ quan nhà

69

nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
3.2.3.3 Giải pháp nâng cao ý thức của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc

72

Ninh khi tham gia quan hệ tín dụng
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

74

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


77


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong q trình tiến hành cơng cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta
ln nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển
một cách tồn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những giải
pháp đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã đạt được những kết quả khả quan,
trong đó có những biện pháp quy định về lãi suất. Việc điều chỉnh lãi suất hợp lí
sẽ giúp thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, nếu khơng kiểm sốt tốt
vấn đề cho vay trong quan hệ dân sự, để cho tội phạm “thao túng” quan hệ này
nhằm thu lời bất chính thì sẽ dẫn đến hậu quả xã hội khơn lường, người đi vay
thì đời sống khốn đốn, trật tự xã hội bị ảnh hưởng. Nạn tín dụng đen thời gian
vừa qua đã ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an xã hội, gây lo lắng, bất an cho
toàn xã hội.
Trước đây, BLHS năm 1999 quy định về tội cho vay lãi nặng tại Điều 163
nhưng cịn có nhiều hạn chế khi không xác định phạm vi và đối tượng cho vay
cũng như xác định cụ thể mức lãi được coi là lãi nặng. Do đó, BLHS năm 2015
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) đã sửa đổi tên điều luật và cấu thành về tội
danh này tại Điều 201 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Với quy
định mới này, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xử lý được các hành vi phạm tội
cho vay lãi nặng, đặc biệt là các đối tượng hoạt động dưới dạng tín dụng xã hội
đen. Tuy nhiên, trong những năm gần đây công tác xử lý các hành vi cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự cũng cịn có những khó khăn, làm ảnh hưởng đến
niềm tin của quần chúng nhân dân và sự phát triển kinh tế của đất nước. Điều
này có một phần nguyên nhân do quy định của pháp luật hình sự chưa thực sự rõ
ràng và thực trạng cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự ngày càng biến tướng
theo chiều hướng tinh vi, mở rộng quy mơ. Do đó việc xử lý, ngăn chặn tệ nạn
1



cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách cần
phải được giải quyết ngay, góp phần thúc đẩy cơng cuộc phịng chống tội phạm
kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước, bài trừ tệ nạn xã hội, đảm bảo
an ninh kinh tế cho đất nước.
Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế thuộc loại nhanh nhất cả
nước trong những năm qua, đây cũng là tỉnh có tốc độ đơ thị hố, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ nhanh của cả nước. Khu
công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh với mật độ dầy, hạ tầng giao thông được xây dựng
đồng bộ, nhiều nhà máy quy mô lớn được xây dựng là điều kiện thuận lợi thu hút
lực lượng lao động đông đảo đến sinh sống và làm việc tại tỉnh. Tuy nhiên cùng
với sự gia tăng về dân số, sự phát triển nhanh chóng về kinh tế thì về trật tự, an
tồn xã hội và tình hình tội phạm của tỉnh Bắc Ninh có diễn biến khá phức tạp.
Trong đó điển hình là nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội
phạm về trật tự an toàn xã hội nhất là tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Chính vì điều đó, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý,
trách nhiệm hình sự, lịch sử hình thành và phát triển của qui định về tội danh này
cũng như thực tiễn xử lý đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội danh này là một yêu cầu cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là lý do mà tác giả quyết định chọn đề
tài “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”
làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội cho vay lãi nặng theo BLHS năm ít được các tác giả nghiên cứu đến.
Điều này chỉ thay đổi khi BLHS năm 2015 sửa đổi tội danh này thành tội cho
2



vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và đặc biệt là hiện tượng tín dụng dạng xã
hội đen đang có xu hướng gia tăng trong đời sống dẫn đến yêu cầu phải xử lý
nghiêm minh đối với các hành vi này. Do đó, trong giai đoạn vừa qua cũng có
một số cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố về vấn đề này, cụ thể như:
* Nhóm các cơng trình là giáo trình, sách, bình luận khoa học
Nghiên cứu chung về các tội phạm trong luật hình sự trong đó có tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có thể kể đến các cơng trình như: 1) Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam tập 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, năm 2019; 2) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm) của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb. Cơng an nhân dân, năm 2019;
3) sách “Bình luận khoa học BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017” của
tác giả Nguyễn Đức Mai (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2018; 4) sách
“Bình luận khoa học BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017” của GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Nxb. Tư pháp, năm 2018; 5) sách “Bình luận khoa
học BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm)” của tác
giả Đinh Thế Hưng – tác giả Trần Văn Biên (chủ biên), Nxb. Hồng Đức, năm
2019...
Các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu là nghiên cứu về các tội phạm cụ
thể trong đó đề cập đến tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên,
do dung lượng lớn vì phải nghiên cứu tất cả các tội danh trong phần các tội phạm
của BLHS nên khi nghiên cứu về tội danh cụ thể này, các cơng trình trên chỉ
dừng lại ở việc phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản, hình phạt qui định cho tội
danh.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu là luận văn, khố luận tốt nghiệp
Đã có một số ít cơng trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ, khoá luận
tốt nghiệp đại học liên quan đến đề tài trên. Có thể kể đến như: 1) Khoá luận tốt
3



nghiệp “Tội cho vay lãi nặng trong BLHS Việt Nam” của tác giả Trần Vũ Ngo,
Trường Đại học Cần Thơ, năm 2015;
2) Luận văn thạc sĩ “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo
pháp luật hình sự Việt Nam – Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” Tác giả
Nguyễn Hữu Trung, Học Viện khoa học xã hội, năm 2020.
Cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu đề tài này ở cấp độ Luận
án tiến sỹ.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu là bài viết khoa học đăng trên Tạp
chí
+ Bài viết “Tội cho vay lãi nặng - những bất cập của Bộ luật Hình sự và
giải pháp khắc phục” của tác giả Nguyễn Văn Hương, Tạp chí TAND số 19 năm
2004;
+ Bài viết “Về tội làm tiền giả, tội tàng trữ tiền giả, tội phá hủy tiền tệ, tội
cho vay nặng lãi” của tác giả Phạm Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 132 năm 1999;
+ Bài viết “Bất cập trong quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)” của tác giả Lê Thị
Minh Thư, Tạp chí cơng thương số 4/2020;
+ Bài viết “Bàn về một số vướng mắc về tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự”, tác giả Nguyễn Thành Chung, Tạp chí Kiểm sát Online;
+ Bài viết “Về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định
tại Điều 201 BLHS năm 2015”, tác giả Trần Hoàng Anh đăng tải trên website:
vksquangngai.vn..
Những cơng trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến
tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào
nghiên cứu về tội phạm trên một cách tổng thể mà có liên hệ với thực tiễn tỉnh
4


Bắc Ninh, chính vì lẽ đó, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài “Tội cho vay lãi

nặng trong giao dịch dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ
của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm những vấn đề lý luận, quy
định của BLHS Việt Nam năm 2015 về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự, thực tiễn xét xử tội phạm này tại tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài được thực hiện dưới góc độ luật hình sự, tập trung vào qui
định của BLHS năm 2015 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Do đây là đề tài chỉ nghiên cứu ở mức độ luận văn thạc sỹ, do vậy, trong
các hoạt động thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về
thực tiễn xét xử đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn
tỉnh.
Về mặt không gian và thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử đối
với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong
giai đoạn 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua nghiên cứu những vấn đề
lý luận, qui định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và thực tiễn xét
xử tại tỉnh Bắc Ninh, tác giả đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật hình sự và nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội danh này trong thời gian tới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

5


Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận và qui định của BLHS năm
2015 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như khái niệm, đặc điểm, các
dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này.
Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn xét xử đối với tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh để từ đó đánh giá được những kết
quả đạt được và xác định được những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân.
Thứ ba, đưa ra các luận điểm và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và giải pháp khác nâng
cao hiệu quả xét xử đối với tội danh này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu nhưng trong đó chú trọng các phương pháp nghiên cứu
sau: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, tồn diện về tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự. Trong đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

6


làm sáng tỏ thêm về những vấn đề lý luận về tội phạm này như khái niệm, đặc
điểm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với tội danh.
Luận văn cũng đưa ra được một số giải pháp về mặt lý luận nhằm hồn

thiện hơn pháp luật hình sự hiện hành về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử đối với tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó luận
văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử trong thực tiễn về tội danh
này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự đấu tranh phịng, chống tội phạm mà cụ thể là đấu tranh phòng,
chống tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy
và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 03 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và qui định của Bộ luật hình sự năm
2015 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý hình
sự đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân

sự
1.1.1. Khái niệm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự thì cần phải xác định được các khái niệm có liên quan đến khái niệm này.
Trước hết cần xác định được khái niệm cho vay.
Ngày nay, để phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất của người
dân thì việc đầu tư nguồn vốn để phát triển kinh tế đồng thời tìm kiếm nguồn
vốn, tài chính để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày là gần như bắt buộc.
Với nguồn tài chính dồi dào nhằm để hổ trợ giúp đỡ cho người khác và tăng
nguồn thu nhập cho bản thân, nhiều cá nhân, tổ chức đã tận dụng nguồn vốn của
mình cho các chủ thể khác vay, mượn để sinh hoạt và sản xuất. Để hiểu rõ thuật
ngữ cho vay, người viết đưa ra một số khái niệm được chấp nhận rộng rãi tại
Việt Nam về cho vay như sau:
BLDS năm 2015 định nghĩa như sau về hợp đồng vay tài sản: “Hợp đồng
vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng
loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định” (Điều 463) [36].
Cịn đối với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm
2017 thì cho vay: “là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam
8


kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong
một thời gian nhất định theo sự thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và
lãi” (khoản 16 Điều 4) [34].
Ngoài ra, theo Từ điển luật học thì cho vay được hiểu là: “Bên cho vay
giao cho bên vay một khoản tiền hoặc vật cùng loại để làm sở hữu trong thời
hạn hoặc các bên đã thỏa thuận. Cho vay có thể có lãi hoặc khơng có lãi, người
vay chỉ phải trả lãi nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” [9,

tr.334].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì cho vay là: “đưa tiền cho vay trong một thời
hạn nhất định rồi trả cả vốn lẫn tỷ suất lại” [59, tr.371]. Theo Từ điển Tưởng
giải và liên tưởng thì khái niệm cho vay là “tạm cho người khác sử dụng một
khoản tiền hoặc vật dụng và sẽ được hoàn lại theo thỏa thuận” [25, tr.194].
Từ các khái niệm pháp lý và khái niệm trong từ điển Việt Nam, tác giả
đưa ra khái niệm về cho vay như sau: cho vay là việc một người (người cho vay)
cho người khác (người vay) sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình trong một
thời gian xác định, sau đó người vay phải hồn trả tài sản đó cho bên người cho
vay với một khoản lãi suất theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Về khái niệm giao dịch dân sự, theo Điều 116 BLDS: "Giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [36]. Từ khái niệm giao dịch dân sự được quy định
tại điều luật này có thể xác định: Hậu quả của việc xác lập giao dịch dân sự là
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp
lí đơn phương hoặc đa phương - một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả
pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục
9


đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể
tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người
mà nội dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của
bản thân họ. Ý chí phải được thể hiện ra bên ngồi dưới một hình thức nhất định
để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham
gia vào một giao dịch dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống

nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể
bị tun bố là vơ hiệu hoặc sẽ vơ hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà
đúng với cả pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự
các chủ thể này đều thông qua người đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích của giao dịch chính là hậu quả pháp lí
sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch.
Nói cách khác, mục đích ở đây ln mang tính pháp lí (mục đích pháp lí). Mục
đích pháp lí (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như các bên trong giao
dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Ví dụ:
Trong hợp đồng mua bán thì mục đích pháp lí của bên mua là sẽ trở thành chủ sở
hữu tài sản mua bán, bên bán sẽ nhận tiền và chuyển quyền sở hữu tài sản cho
bên mua. Mục đích pháp lí đó sẽ trở thành hiện thực khi hợp đồng mua bán tuân
thủ mọi quy định của pháp luật và bên bán thực hiện xong nghĩa vụ bàn giao tài
sản mua bán, khi đó, hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch trùng với mong muốn
ban đầu của các bên (tức là với mục đích pháp lí).

10


Cũng có những trường hợp hậu quả pháp lí phát sinh không phù hợp với
mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lí). Điều đó có thể xảy ra do một trong
hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là khi giao dịch đó là bất hợp
pháp. Ví dụ: Khi người mua đã mua phải đồ trộm cắp thì khơng được xác lập
quyền sở hữu mà có nghĩa vụ phải hồn trả lại cho chủ sở hữu tài sản đó (người
bán khơng phải là chủ sở hữu tài sản thì khơng thể chuyển giao quyền sở hữu tài
sản đó cho người mua). Nguyên nhân thứ hai là do chính các bên không tuân thủ
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch có hiệu lực. Ví dụ: Sau khi xác lập giao dịch, bên
bán không thực hiện nghĩa vụ bàn giao vật cho nên họ phải chịu trách nhiệm dân

sự.
Mục đích pháp lí của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động
cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch.
Động cơ của giao dịch khơng mang tính pháp lí. Khi xác lập giao dịch, nếu như
động cơ không đạt được thì điều đó cũng khơng làm ảnh hưởng đến hiệu lực của
giao dịch. Mục đích ln ln được xác định cịn động cơ có thể được xác định
hoặc khơng. Ví dụ: Mua bán nhà ở - mục đích của người mua là quyền sở hữu
nhà, cịn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể bán lại... Tuy nhiên,
động cơ của giao dịch có thể được các bên thoả thuận và mang ý nghĩa pháp lí.
Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ
phận cấu thành của giao dịch đó (như cho vay tiền để sản xuất - mục đích của
người vay là quyền sở hữu số tiền nhưng họ chỉ được dựng tiền đó để sản xuất
mà không được sử dụng vào hoạt động khác).
Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí
quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung
ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên
11


trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao
dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các
nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.
Cuối cùng chúng ta cùng xác định khái niệm tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự trong BLHS.
Tội phạm Theo khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 qui định: "Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS, do người có năng lực chịu
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hay
vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vện lãnh thổ của Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an

ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
đến quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm đến
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN" [35]. Những hành vi tuy có
dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì
khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm tội phạm đã trải qua nhiều năm lập
pháp nhưng nội hàm của khái niệm này vẫn khơng có những thay đổi, về bản
chất nó vẫn được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và chỉ bị xử lý khi
hành vi đó được quy định cụ thể trong luật hình sự.
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là một loại tội phạm được quy
định trong BLHS.
Với nhu cầu vay vốn để tiến hành hoạt động sản xuất cũng như tiêu dùng,
sinh hoạt ngày càng tăng cao, một số đối tượng, tổ chức đã lợi dụng vào các
hồn cảnh khó khăn, cấp thiết hoặc sự thiếu kiến thức về quan hệ cho vay/cấp tín
dụng của người khác để tiến hành cho vay và đặt ra mức lãi suất rất cao làm cho
người vay gặp nhiều khó khăn, khó có thể trả xong khoản tiền đã vay.
12


Hành vi CVLN trong giao dịch dân sự được ghi nhận với tư cách là tội
phạm lần đầu tiên tại Điều 171 BLHS năm 1985, sau đó tiếp tục được ghi nhận
tại Điều 163 BLHS năm 1999. Tuy có sự thay đổi về nội hàm nhằm khắc phục
khó khăn trong công tác xử lý hành vi này nhưng do quy định của các điều luật
nói trên chưa thật rõ ràng nên đã làm cho việc xác định hành vi đó có phải tội
phạm hay khơng gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế có rất ít trường hợp bị xử lý
hình sự mặc dù tình trạng CVLN trong giao dịch dân sự diễn ra khá phổ biến và
phức tạp, với tính chất nguy hiểm rất cao cho xã hội. Thấy được sự bất hợp lý
này nên tại BLHS năm 2015, hành vi CVLN trong giao dịch dân sự được sửa
đổi, bổ sung cụ thể, dễ dàng áp dụng hơn so với các quy định trước đó.
So với quy định tại Điều 163 BLHS năm 1999 thì tội CVLN trong giao

dịch dân sự được quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 đã cụ thể hơn, phù hợp
hơn với thực tiễn. Nếu Điều 163 BLHS năm 1999 quy định đối với hành vi cho
CVLN trong giao dịch dân sự là “cho vay với mức lãi suất cao hơn lãi suất cao
nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chun bóc lột” thì Điều
201 BLHS năm 2015 quy định rõ ràng cụ thể hơn là “Người nào trong giao dịch
dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong
BLDS, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng” [32].
Như vậy BLHS 2015 đã thay thế quy định về mức lãi suất làm căn cứ xác
định có hay không hành vi CVLN trong giao dịch dân sự từ “lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định” thành “lãi suất cao nhất quy định trong BLDS”. Việc thay
đổi này thu hẹp đáng kể phạm vi các quy định cần đối chiếu với mức lãi suất
thực tế mà người cho vay áp đặt lên người vay, từ phạm vi toàn bộ hệ thống
pháp luật thành BLDS. Thay đổi quan trọng khác là yếu tố “có tính chun bóc
lột” – vốn rất khó chứng minh trên thực tế - đã được thay thế bằng “thu lợi bất

13


chính” với quy định rõ ràng về định lượng. Việc này góp phần khơng nhỏ trong
việc đưa những đối tượng CVLN trong giao dịch dân sự ra xử lý trước pháp luật.
Từ những phân tích trên và quy định của BLHS năm 2015 học viên đưa ra
khái niệm về tội CVLN trong giao dịch dân sự như sau: Tội CVLN trong giao
dịch dân sự là hành vi do cá nhân có NLTNHS thực hiện, cho chủ thể khác vay
một số tiền với lãi suất gấp từ 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất được quy định
trong BLDS, và sau khi trừ đi khoản lãi suất được pháp luật cho phép thì người
đó thu được số tiền từ 30.000.000 đồng trở lên được coi là tội phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Tội CVLN trong giao dịch dân sự được quy định tại Điều 201 thuộc
chương XVIII các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015

cũng giống như những tội phạm khác đều có các đặc điểm riêng biệt để phân biệt
với các tội phạm khác.
Tội CVLN trong giao dịch dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự mang tính nguy
hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhiều
nạn nhân sau khi trở thành con nợ đã trở nên túng quẫn, bị dồn vào bước đường
cùng, cuộc sống bị đảo lộn do bị người phạm tội đe doạ, cưỡng ép trả nợ…
Thứ hai, người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, biết rõ việc cho
vay với mức lãi suất cao vượt mức phá luật cho phép là nguy hiểm cho xã hội,
nhưng vẫn thực hiện. Bên cạnh đó, người phạm tội thường lợi dụng hồn cảnh
khó khăn, cấp bách hoặc sự thiếu kiến thức của người vay để ép người vay phải
trả lãi suất cao vượt mức pháp luật qui định nhằm thu hồi vốn nhanh và thu lợi
bất chính rất lớn từ việc cho vay đó.

14


Thứ ba, đây là tội phạm thể hiện rõ người phạm tội có tính hám lợi. Các
hành vi CVLN trong giao dịch dân sự đều nhằm vào lợi ích vật chất là số tiền lãi
mà họ nhận được trong việc cho vay lấy lãi. Và các đối tượng cho vay với lãi
suất rất cao, lãi suất cho vay gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong
BLDS (tại thời điểm nghiên cứu là 20%/năm của khoản vay) [35].
Thứ tư, hành vi cho vay lấy lãi rất cao của các đối tượng cho vay được
thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, tinh vi khó phát hiện, bởi việc cho vay
này không thông qua sự quản lý của cơ quan chức năng, hầu như là các thỏa
thuận ngầm. Hiện nay đã ghi nhận ngồi hình thức vay bằng giao kết hợp đồng
bằng văn bản như truyền thống, đã xuất hiện biến tướng của loại hình tội phạm
này là thơng qua các ứng dụng trên di động – vốn rất dễ tiếp cận với đa số người
dân và đánh đúng vào tâm lý thích nhanh gọn của người vay.
Thứ năm, người CVLN trong giao dịch dân sự thường là các đối tượng sẵn

sàng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, với mọi thủ đoạn phạm pháp để đòi
được nợ vì vậy khi cho vay chỉ cần tờ ghi nợ hoặc chỉ là lời nói. Với những đối
tượng này, vì lợi ích vật chất đem lại, họ sẵn sàng ép người đi vay vào đường
cùng, mặc cho hành vi của họ có vi phạm pháp luật hay khơng. Đối tượng CVLN
trong giao dịch dân sự thường khơng có đăng ký kinh doanh, cũng như khơng có
giấy phép kinh doanh nhưng họ vẫn cố ý thực hiện hành vi cho vay trái pháp luật
đó.
1.2. Quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong
pháp luật hình sự giai đoạn trước BLHS năm 2015
1.2.1.1. Quy định từ năm 1945 đến trước năm 1985

15


Ngay sau Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có các quy
định coi những hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế của
nhân dân, xâm phạm chế độ kinh tế, tài chính của đất nước nguy hiểm ngang
với hành vi chống đối chính quyền Cách mạng và cần nghiêm trị. Các văn bản
quan trọng trong thời kỳ này có thể kể đến như: Sắc lệnh số 07/SL ngày
05/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hồ về việc
để sự bn bán và chun chở thóc gạo được tự do trong tồn hạt Bắc bộ. Trong
Sắc lệnh này, các hành vi tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ, xét ra có phương hại
đến nền kinh tế bị coi là đặc biệt nguy hiểm và phải xử lý nghiêm khắc. Ví dụ:
khoản thứ tư Sắc lệnh nêu rõ: “Kẻ nào tích trữ thóc gạo mưu sự đầu cơ, xét ra
có phương hại đến nền kinh tế sẽ bị nghiêm phạt theo quân luật và gia sản sẽ bị
tịch thu” [41, tr.155]. Sắc lệnh số 202/SL ngày 15/10/1946 của Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam Dân chủ cộng hồ quy định về việc bn bán vàng bạc, trong đó

nêu có hành vi bn bán vàng trái phép sẽ bị coi là tội phạm và phải chịu hình
phạt tiền hoạt hình phạt tù đến 5 năm [41, tr.176]. Sắc lệnh số 180/SL ngày
20/12/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa ấn định hình phạt
đối với những hành vi phá hoại nền tài chính quốc gia, làm thiệt hại đến giá trị
hay làm khó dễ cho sự lưu hành giấy bạc Việt Nam sẽ bị truy tố trước Tòa án
quân sự.
Như vậy, những quy định đầu tiên về các TPKT nói chung, các tội
XPTTQLKT nói riêng đã được hình thành nay sau cách mạng tháng Tám đã khẳng
định rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là nghiêm trị các hành vi gây
phương hại cho nền kinh tế, tài chính của đất nước góp phần bảo vệ nền độc lập non
trẻ của đất nước.

16


Sau năm 1954, mở ra và đánh dấu một giai đoạn hoàn toàn mới của Cách
mạng Việt Nam với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu
tranh giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước vì thế nhiệm vụ xây
dựng, phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu. Hiến pháp năm 1959 dành
chương II (từ Điều 9 đến Điều 21) để quy định về chế độ kinh tế của Việt Nam,
với các nội dung như: khẳng định nền kinh tế của chúng ta là “nền kinh tế
XHCN” (Điều 9), với “kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu tồn dân giữ
vai trị lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo phát
triển ưu tiên” [41, tr.211]. Các quy định này đã xác lập tương đối rõ tính chất
của quan hệ xã hội là khách thể của các tội phạm về kinh tế. Để bảo vệ chế độ
kinh tế đã đề ra, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng làm
cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm về kinh tế. Trong
các văn bản này, nhiều hành vi phạm tội về kinh tế được xác định là có mức độ
nguy hiểm cho xã hội cao và cần bị nghiêm trị như: Hành vi đầu cơ về kinh tế
(quy định trong Sắc luật số 001/SLt ngày 19/4/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam

Dân chủ cộng hịa); Các hành vi bn bán, tích trữ, vận chuyển trái phép vật tư,
hàng hóa do Nhà nước thống nhất quản lý (quy định trong Chỉ thị số 146-TTg
ngày 05/6/1974 của Thủ tướng Chính phủ); Các hành vi chống thuế nông nghiệp
(quy định trong Thông tư 3887-VNH/HS ngày 02/11/1957 của Bộ Tư pháp);
Hành vi nấu rượu trái phép (quy định trong Pháp lệnh ngày 13/10/1966 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội); Các hành vi đầu cơ, bn lậu kim khí q, đá q,
ngọc trai (quy định trong Nghị định số 355-TTg ngày 16/7/1958 của Thủ tướng
Chính phủ)... [41, tr.119].
Nghiên cứu các quy định nêu trên cho thấy, so với các văn bản pháp luật
thời kỳ trước thì các văn bản này đã có bước phát triển đáng kể, cả về loại hình
văn bản, kỹ thuật lập pháp và nội dung quy định. Trong các văn bản này, các nhà
17


làm luật cũng chú ý xác định cụ thể các hành vi gây phương hại đến nền kinh tế
bị coi là tội phạm và đường lối xử lý đối với các tội phạm này. Tuy nhiên, các
quy định về TPKT thời kỳ này có thể nhận thấy vẫn cịn nhiều hạn chế như:
chưa có quy định khái quát thế nào là các tội phạm về kinh tế và đường lối xử lý
các tội phạm này; các quy định vẫn thiên về các hành vi phạm tội riêng lẻ và
việc xử lý là nhằm đáp ứng nhiệm vụ tức thời chứ chưa có tính hệ thống và tồn
diện.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dù phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, song pháp luật về quản lý kinh tế nói chung và quy định về các tội phạm
về kinh tế nói riêng vẫn được Nhà nước ta chú trọng hồn thiện. Trong thời kỳ
này, các văn bản có vai trị quan trọng thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước
ta đối với các tội phạm về kinh tế có thể được kể đến như: Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21/10/1970 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh
năm 1970) và Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972.
Pháp lệnh năm 1970 quy định về các tội phạm và hình phạt, trong đó một
số hành vi XPTTQLKT cũng được quy định khá cụ thể [43, tr.18]. Ví dụ: Điều

12 quy định về tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế,
tài chính gây thiệt hại đến tài sản XHCN; Điều 13 quy định về tội vi phạm chế
độ tem phiếu dùng vào việc phân phối tài sản XHCN. Thông qua các quy định
của Pháp lệnh năm 1970 cho thấy: Pháp lệnh đã xây dựng CTTP cơ bản và
CTTP tăng nặng với các tình tiết định khung tăng nặng và các khung hình phạt
riêng có ý nghĩa phân hóa TNHS đối với các tội phạm cụ thể. Văn bản này cũng
thể hiện kỹ thuật lập pháp tiến bộ, với các quy định mang tính logic và chặt chẽ.
Như vậy, trước năm 1985 quy định về tội cho vay lãi nặng chưa được cụ
thể, chưa được hình thành trong một tội danh của pháp luật hình sự. Điều này
18


×