Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Ngữ Văn THPT rất hay được giải tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.17 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

Tên đề mục
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ
3.2. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5. Điểm mới của đề tài
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Về khái niệm tình huống truyện trong truyện ngắn
1.2. Phân loại tình huống trong truyện ngắn
1.3. Xác định vai trị, tác dụng của tình huống truyện
1.4. Định hướng cách tiếp cận tình huống truyện
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng học sinh
2.2. Thực trạng giáo viên
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Định hướng cách dạy học một số truyện ngắn trong chương trình
Ngữ văn lớp 12 THPT từ việc khai thác vai trị, tác dụng của tình huống
truyện
3.1.1. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
3.1.1.1. Xác định tình huống truyện
3.1.1.2. Phân tích vai trị, tác dụng của tình huống truyện
3.1.2. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia
đình” của Nguyễn Thi
3.1.2.1. Xác định tình huống truyện
3.1.2.2. Phân tích vai trị, tác dụng của tình huống truyện


3.1.3. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
3.2. Định hướng cụ thể qua văn bản “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
C. KẾT LUẬN
1. Kết quả của việc ứng dụng SKKN
2. Kiến nghị, đề xuất

Trang
2
2
3
4
4
4
4
4
5
5
5
6
7
9
10
10
10
11
11
11
11
11
13

13
13
16
18
19
19
20

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
20


Năm học 2014 - 2015 là năm học ngành giáo dục và tồn xã hội tích cực
triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04
tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo". Năm học 2014 - 2015 là
năm học tiếp tục thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020” của
Chính phủ. Do vậy để nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học theo
yêu cầu chung thì nội dung cũng như phương pháp dạy học cũng phải đổi mới,
nhất là những phương pháp phù hợp với hồn cảnh thực tế của cơng tác dạy học
cũng như đối tượng học sinh từng vùng miền.
Ngữ văn là một mơn học đóng vai trị quan trọng trong công tác giáo dục
học sinh tại các nhà trường, nhất là đối với bậc học THPT. Đặc biệt, môn Ngữ
văn là mơn học địi hỏi vận dụng nhiều loại tri thức về phương pháp tiếp nhận
tác phẩm. Đặc biệt là đối với truyện ngắn càng đòi hỏi những hiểu biết của
người tiếp nhận về tình huống truyện để có thể nắm bắt được những tác động
của nó đối với sự phát triển cốt truyện, sự phát triển tính cách nhân vật và sự
hình thành tư tưởng của nhà văn qua tác phẩm. Việc thực hiện các phương pháp
dạy học làm sao cho hiệu quả, vừa đảm bảo nội dung kiến thức cơ bản, vừa đào

sâu vận dụng để có những hiểu biết sâu sắc về bản chất của bài học cũng như
những giá trị thẩm mĩ sâu xa của tác phẩm được tác giả gửi gắm là vấn đề hết
sức khó khăn đối với cả giáo viên và học sinh.
Trong chương trình Ngữ văn 12 THPT Chương trình Chuẩn, số lượng
truyện ngắn được trích học (cả học chính khóa lẫn đọc thêm) chiếm số lượng
tương đối nhiều, trong khi việc tiếp thu kiến thức đặc trưng thể loại của cả giáo
viên và học sinh lại rất hạn chế. Bản thân truyện ngắn cũng đặt ra nhiều hướng
tiếp cận khác nhau. Vấn đề xử lí cách tiếp cận đã là một khâu tương đối phức
tạp. Do vậy, để có thể tiếp cận truyện ngắn một cách trọn vẹn và có hiệu quả, cần
phải chuẩn bị lượng kiến thức lí thuyết về truyện ngắn để giải mã các vấn đề mà
nhà văn đặt ra trong tác phẩm.
Một lí do nữa trong thực tế dạy học Ngữ văn, nhiều giáo viên khi dạy
truyện ngắn nói riêng, tác phẩm tự sự nói chung hầu như khơng chú ý dạy tình
20


huống truyện. Nếu có chỉ tập trung vào một số tác phẩm nổi bật rõ tình huống,
cịn đa số thì bỏ qua. Đây là một thiếu sót rất lớn bởi trong thi pháp truyện ngắn,
việc xây dựng tình huống truyện là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự
thành cơng của tác phẩm. Khơng ít thiên tài văn chương của nhân loại cũng như
của Việt Nam đã làm rất tốt điều này. Do đó, khi thiết kế bài học về truyện ngắn,
việc khám phá vai trị của tình huống tác động đến sự phát triển cốt truyện, tính
cách nhân vật và tư tưởng của nhà văn là nhiệm vụ vơ cùng quan trọng. Nó giúp
cho giáo viên có thể thiết kế bài học một cách gọn nhẹ, tránh rườm rà mà vẫn
chứa đựng hết nội dung cần thiết của bài học, đồng thời, có thể hướng dẫn học
sinh tiếp thu bài một cách dễ dàng, phù hợp với mọi đối tượng.
Vì những lí do nói trên, căn cứ đặc thù học sinh miền núi nói chung, học
sinh trường THCS&THPT Như Thanh nơi tơi đang cơng tác nói riêng, tơi đã
mạnh dạn ứng dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Dạy học tác phẩm truyện
ngắn cho học sinh khối 12 trường THCS&THPT Như Thanh từ việc khai

thác vai trò, tác dụng của tình huống truyện” với hi vọng sẽ được các đồng
nghiệp cùng trao đổi để vận dụng vào quá trình giảng dạy. Đề tài của tơi có
nhiệm vụ cắt nghĩa và vận dụng những tri thức về tình huống truyện để vận dụng
và trao đổi thêm về cách tiếp cận một số tác phẩm truyện ngắn có trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đổi mới phương pháp dạy học truyện ngắn nói riêng, tác phẩm tự
sự nói chung trong chương trình Ngữ văn 12 THPT, giúp học sinh có được hứng
thú trong học tập, phát triển tư duy và biết vận dụng vào thực tiễn học tập, nhất
là quá trình tự học, tự chiếm lĩnh tri thức.
Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về
tác phẩm tự sự nói chung, thể loại truyện ngắn nói riêng. Thơng qua đó, giúp các
em học tập hiệu quả các tác phẩm truyện ngắn mà không phải lúc nào cũng cần
đến sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.
3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
20


3.1. Nhiệm vụ
- Vận dụng một cách linh hoạt kiến thức về tình huống truyện và các kiến
thức lí thuyết chung về truyện ngắn để cảm thụ sâu sắc hơn nội dung bài học về
các tác phẩm truyện ngắn có trong chương trình Ngữ văn 12 THPT.
- Sau bài học, học sinh vừa có thể giúp mình nắm vững cơ bản về bài
học, vừa có thể giúp bạn học tập hiệu quả hơn, góp phần rèn luyện kĩ năng hoạt
động nhóm trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của các em học sinh. Đồng
thời, các em có thể tự đọc thêm về các truyện ngắn khác để có thêm kiến thức
học tập cũng như vận dụng vào thực tế đời sống.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu có liên quan.
- Phương pháp khai thác và tổng hợp kiến thức tư liệu.

- Phương pháp trao đổi kinh nghiệm, học hỏi các đồng nghiệp.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm và những tác động từ học sinh.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu và ứng dụng vai trị, tác động của tình huống
truyện đối với sự phát triển nội dung các truyện ngắn để thiết kế bài học về các
truyện ngắn có trong chương trình Ngữ văn 12 THPT, đồng thời, vận dụng vào
một tác phầm cụ thể là văn bản “Vợ nhặt” để thiết kế bài học và tác động vào
nhận thức của học sinh khối 12 THPT. Cụ thể là đối tượng học sinh lớp 12B1,
trường THCS&THPT Như Thanh, năm học 2014 - 2015.
5. Điểm mới của đề tài
Đề xuất một phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung
tâm trong việc tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức bài học. Cụ thể là hướng dẫn học
sinh đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn một cách ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nắm bắt từ
việc khai thác vai trò, tác dụng của tình huống truyện.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
20


1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Về khái niệm tình huống truyện trong truyện ngắn
Trong lịch sử nghiên cứu về truyện ngắn, có rất nhiều quan niệm về tình
huống truyện được đưa ra. Dù mỗi ý kiến có thể có cách nói khác nhau nhưng
nhìn chung đều đánh giá cao tầm quan trọng của tình huống trong việc xây dựng
cốt truyện, phát triển tính cách nhân vật cũng như làm bật lên tư tưởng của nhà
văn. Nhà triết học người Đức Hêghen đưa ra quan niệm: “Nói chung tình huống
là một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong
thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được
một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật”.
Tại Việt Nam, các nhà văn, nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều quan

niệm khác nhau về tình huống truyện. Nguyễn Minh Châu trong cuốn sách
“Trang giấy trước đèn” từng quan niệm: “Với truyện ngắn và với một tác giả có
kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế
xảy ra truyện, thế là coi như xong một nửa…” và “… những người cầm bút có
cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dịng đời xi chảy một khoảnh khắc thời
gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một
khoảnh khắc cuộc sống… nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc
lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là
khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại. Nguyên Ngọc cây bút khá thành công về thể loại truyện ngắn cũng đặc biệt chú ý đến vấn đề
tình huống. Ơng quan niệm: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ
thuật của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt… Truyện ngắn điểm huyệt thực
hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu
nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày”.
Thông qua ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên cứu đã nói ở trên, có thể
hiểu tình huống truyện là hồn cảnh, bối cảnh tạo nên câu chuyện, là mối quan
hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác; giữa hồn cảnh, mơi trường
sống đối với nhân vật. Từ đó, nhân vật bộc lộ tình cảm, tính cách hay thân phận
góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác giả. Tình huống giữ vai trị là hạt
nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Vì lẽ đó, tình huống cũng làm cho tác
phẩm thêm hấp dẫn đối với người đọc.
1.2. Phân loại tình huống trong truyện ngắn
20


Việc phân loại tình huống truyện trong truyện ngắn cũng được các nhà
nghiên cứu đưa ra bằng nhiều cách, nhiều dạng khác nhau. Thực tế cho thấy, có
truyện ngắn chỉ xoay quanh một tình huống. Nhưng cũng có truyện chứa đựng
rất nhiều tình huống và truyện liên tục thay đổi tình huống. Người đọc thơng qua
tình huống có thể nhận ra những vẻ đẹp khác nhau của nhân vật cũng như tư
tưởng mà nhà văn muốn phát biểu thông qua các tình huống ấy. Tổng hợp các ý

kiến khác nhau, có thể đưa ra ba loại tình huống cơ bản như sau:
- Tình huống hành động: Đây là một loại sự kiện đặc biệt đẩy nhân vật
vào một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình
huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại
nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi của mình, các bình diện
khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của tồn truyện:
truyện ngắn giàu kịch tính.
- Tình huống tâm trạng: Là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân
vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động tâm lí nào đó. Tình huống
này dẫn tới kiểu nhân vật là: con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được
hiện lên chủ yếu bằng tình cảm, cảm xúc bên trong. Nhà văn tạo dựng nên hình
tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc. Cịn
các khía cạnh khác (như ngoại hình, hành động, lí tính…) ít được quan tâm. Và
vì thế, nó quyết định đến diện mạo của tồn truyện: truyện ngắn trữ tình.
- Tình huống nhận thức: Là dạng truyện ngắn chứa đựng một sự kiện
đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường:
đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ
thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Tình huống nhận thức đưa nhân vật trở thành
dạng nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời
sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống
những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm,… Mà trường hợp đậm
đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng được nhân vật hoá vậy. Diện
mạo của loại truyện ngắn này cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận.
Tất cả sự phân loại như trên là tương đối. Việc nhận diện chỉ dựa vào sự
nổi trội của yếu tố nào đó để xác định tác phẩm truyện ngắn đó có tình huống
hành động, tình huống tâm trạng hay tình huống nhận thức.
1.3. Xác định vai trị, tác dụng của tình huống truyện
20



Có thể nói, khi nghiên cứu thi pháp truyện ngắn, nhiều nhà nghiên cứu đã
có những kiến giải khác nhau, dựa trên những yếu tố nghệ thuật khác nhau để
xác định nội dung tư tưởng tác phẩm. Mỗi yếu tố đều cho thấy vai trị, tác dụng
riêng của nó đối với nội dung truyện ngắn. Tuy nhiên, dựa trên tầm quan trọng
của tình huống truyện, chúng ta có thể thấy tình huống có vai trị, tác dụng đặc
biệt giúp cho nhà văn xây dựng thành công tác phẩm.
Khi nghiên cứu về tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ, tình huống
góp phần làm cho cốt truyện được phát triển tồn diện, hấp dẫn, tính cách nhân
vật được bộc lộ một cách đầy đủ và tư tưởng của tác phẩm được hiện lên rõ nét
thơng qua tình huống. Qua nghiên cứu, chúng ta có thể thấy tình huống truyện
đóng vai trò, tác dụng chủ yếu như sau:
- Đối với sự phát triển cốt truyện, tạo kịch tính truyện: Khi viết truyện
ngắn, nhà văn không chỉ xây dựng một hay một vài chi tiết, sự kiện để tạo nên
cốt truyện. Một truyện ngắn bao giờ cũng chứa đựng một hệ thống sự kiện và
được xây dựng thành các xung đột, mâu thuẫn (kể cả hành động lẫn tâm lí, tính
cách hay nhận thức) giữa các nhân vật với nhau hoặc trong cùng một nhân vật.
Sự xuất hiện liên tiếp các mâu thuẫn, xung đột tạo nên sự hồi hộp, lôi cuốn, làm
cho người đọc bị cuốn hút vào cốt truyện. Đó chính là lúc kịch tính truyện được
tạo ra. Nói cách khác, các mâu thuẫn, xung đột liên tiếp diễn ra đã tạo nên độ
căng thẩm mĩ cần thiết cho tác phẩm, làm cho tác phẩm cuốn hút người đọc
bằng sự liên hoàn xuất hiện các mâu thuẫn, xung đột. Một nhà văn tài năng là
người biết tạo ra những mâu thuẫn, xung đột đúng lúc, đúng chỗ và phải giải
quyết những mâu thuẫn, xung đột ấy cho phù hợp. Tuy nhiên, dù được giải quyết
nhưng các mâu thuẫn, xung đột không được kết thúc mà phải được tiếp tục diễn
ra bằng mâu thuẫn, xung đột khác. Truyện có thể mở ra bằng mâu thuẫn, xung
đột, phát triển bằng những mâu thuẫn xung đột và kết thúc cũng bằng mâu
thuẫn, xung đột. Chính mâu thuẫn xung đột diễn ra liên tiếp như vậy, thậm chí
kết thúc tác phẩm, mâu thuẫn, xung đột chưa hẳn đã được giải quyết đã tạo nên
tính dự báo của tác phẩm văn học. Tác dụng to lớn của văn học đối với sự phát
triển của lịch sử xã hội là như thế. Có như vậy, tác phẩm mới hấp dẫn và lôi

cuốn người đọc.

20


- Đối với sự phát triển tính cách nhân vật: Đây cũng là một nội dung vô
cùng quan trọng giúp người đọc hiểu về vai trị, tác dụng của tình huống truyện.
Trong nghệ thuật viết truyện ngắn, xây dựng nhân vật là một khâu quan trọng.
Một trong những điểm cần lưu ý khi xây dựng nhân vật là nhà văn cần bám vào
tình huống truyện để cho nhân vật bộc lộ đầy đủ nhất tính cách của mình. Đặt
nhân vật trong một tình huống đặc biệt nào đó giúp cho nhân vật có điều kiện
bộc lộ tính cách mỗi lúc một đầy đủ, rõ nét nhất. Từ đó, người đọc có thể nhận
ra những đặc điểm tính cách ẩn sâu bên trong nhân vật. Nắm được điều này sẽ
giúp cho cả giáo viên và học sinh nắm bắt đầy đủ tính cách nhân vật trong q
trình dạy học. Để làm rõ được tính cách nhân vật, khi soạn bài, giáo viên cần chỉ
ra, trước khi tình huống xảy ra, nhân vật được miêu tả như thế nào (về nguồn
gốc, lai lịch, về hoàn cảnh sống, về đặc điểm bên ngoài và bên trong) và sau khi
tình huống truyện xuất hiện đã tác động như thế nào đến sự phát triển tính cách
nhân vật (những nét tính cách nào được bộc lộ sau khi tình huống xảy ra). Làm
được điều đó, giáo viên sẽ rất thuận lợi trong việc phác họa đầy đủ, toàn diện về
nhân vật để học sinh năm rõ bài học.
- Đối với sự hình thành và bộc lộ tư tưởng của nhà văn: Tư tưởng của
nhà văn là một yếu tố đặc biệt mà giáo viên cần hướng dẫn học sinh rút ra sau
khi phân tích tồn bộ tác phẩm văn học. Thiếu điều này, coi như chúng ta chưa
thành cơng. Bởi vì, tác phẩm văn học là “con đẻ tinh thần” của nhà văn. Do đó,
nhà văn thường gửi gắm một tư tưởng nào đó qua tác phẩm. Vì vậy, sau khi khai
thác tất cả các yếu tố từ tác động của tình huống truyện, giáo viên bao giờ cũng
phải hướng dẫn học sinh nhận diện tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua tác phẩm.
Việc tập trung chú ý đến tình huống truyện mà nhà văn đưa ra sẽ giúp giáo viên
và học sinh dễ dàng nhận ra tư tưởng của nhà văn. Nói cách khác, tình huống

truyện làm bộc lộ đầy đủ tư tưởng của nhà văn gửi gắm (về quan niệm nhân
sinh, về quan điểm nghệ thuật). Thơng qua những tình tiết của truyện, nhà văn
phát biểu chính kiến của mình về cuộc sống, về nghệ thuật.
Tất cả các yếu tố trên làm cho tác phẩm có sự lơi cuốn, hấp dẫn đặc biệt.
Đồng thời, tình huống truyện giúp cho người đọc có thể tiếp nhận tác phẩm một
cách hiệu quả.
20


1.4. Định hướng cách tiếp cận tình huống truyện
Theo quan điểm của Tiến sĩ Chu Văn Sơn (Khoa Ngữ văn, Đại học sư
phạm Hà Nội) thì quy trình tiếp cận tình huống gồm các bước sau:
- Xác định tình huống truyện: Muốn xác định được tình huống truyện,
giáo viên cần cho học sinh đọc, tìm hiểu và chỉ rõ sự kiện chính bao trùm và chi
phối tồn bộ thiên truyện. Hay sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên
tồn bộ truyện ngắn này. Sau đó, hướng dẫn học sinh lướt qua những tình tiết
chính và xác định một trong các tình tiết ấy đóng vai trị bao trùm, chi phối quán
xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm
thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả. Cuối cùng, chúng ta
tìm tên gọi để định danh tình huống ấy. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm
được tên thích hợp thì coi như tình huống vẫn cịn nằm ngồi tầm tay của chúng
ta. Vì vậy, việc phân tích để tìm ra các giá trị đích thực của tác phẩm văn học sẽ
hết sức khó khăn.
- Phân tích tình huống: Đây là khâu quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ và
toàn diện về tác phẩm. Để làm được điều đó cần phân tích các bình diện cơ bản
như sự xuất hiện của tình huống; tác dụng của tình huống đối với sự phát triển
cốt truyện, việc tạo kịch tính truyện, tác dụng đối với sự phát triển tính cách
nhân vật. Đặc biệt là chúng ta cần chỉ rõ trước và sau khi tình huống truyện xuất
hiện, cốt truyện và tính cách nhân vật lần lượt được bộc lộ như thế nào. Sau
cùng, chúng ta phải chỉ ra được mối liên kết của tình huống với các khâu khác

của tác phẩm (chi phối đến tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện
ngắn). Từ đó, rút ra giá trị tác phẩm.
- Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm thơng qua tình huống: Sau khi
phân tích các yếu tố, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chỉ rõ những thơng điệp
thẩm mĩ mà tình huống truyện chứa đựng. Nghĩa là, chúng ta phải rút ra quan
niệm của nhà văn về nhân sinh, về thẩm mĩ được tốt lên qua tình huống. Xác
định được cảm xúc chủ đạo chứa đựng trong tác phẩm thơng qua tình huống.
Đây cũng là một khâu hết sức quan trọng góp phần giúp các em học sinh nhận ra
vẻ đẹp thực sự của tác phẩm và là đóng góp của nhà văn cho văn học. Đồng thời,
giúp các em hiểu được nhân cách và tư tưởng cao đẹp của nhà văn.
20


2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng học sinh
Nhìn chung, các em học sinh cịn chưa có sự quan tâm thực sự tới môn
Ngữ văn, nhất là những bài học liên quan nhiều đến các tác phẩm văn xi
(trong đó có truyện ngắn) vì tâm lí ngại đọc, ngại suy nghĩ của một bộ phận học
sinh. Nhất là đối với các tác phẩm truyện ngắn có độ dài, phải suy nghĩ.
Đa số học sinh của trường là con em các dân tộc vùng đặc biệt khó khăn,
trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn. Trình độ nhận
thức, khả năng tiếp thu và khả năng vận dụng kiến thức về lí thuyết và thi pháp
truyện ngắn của các em không đồng đều, gây khó khăn trong triển khai bài học.
2.2. Thực trạng giáo viên
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy bản thân tơi cũng như nhiều đồng
nghiệp cịn nặng về tính nguyên tắc khi thực hiện bài dạy. Thiết kế bài học gần
như phụ thuộc hoàn toàn vào những hướng dẫn của sách giáo viên. Trong khi
bản thân môn Ngữ văn ln địi hỏi liên tục phải đổi mới. Nhất là rèn luyện cho
các em ý thức tự học, tự bồi dưỡng và lĩnh hội kiến thức.
Một số giáo viên, nhất là các giáo viên trẻ do tâm lí “tham kiến thức” nên

khi thiết kế bài học thường đưa vào lượng kiến thức không phù hợp với đối
tượng học sinh, nhất là học sinh vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Việc đưa
những kiến thức ấy làm cho các em khó khăn trong tiếp thu bài học dẫn đến các
em e ngại và chây lười trong hoc tập và tiếp thu bài học. Chính sự thiếu sót trong
việc vận dụng kiến thức về tình huống truyện trong quá trình thiết kế bài học và
giảng dạy truyện ngắn đã làm cho bài học nghèo nàn, thiếu đi sự hấp dẫn vốn có
của mơn Ngữ văn, một mơn học đầy tính nhân văn.
Một số giáo viên trong quá trình giảng dạy đã mạnh dạn xây dựng bài
học và có những đổi mới, thay đổi cách tổ chức bài học như tổ chức hoạt cảnh,
tiểu phẩm về một số nội dung trong tác phẩm nhưng lại tập trung quá nhiều vào
sự “sáng tạo” của mình mà qn đi đặc trưng của mơn Ngữ văn phải căn cứ vào
chất liệu ngôn ngữ và đặc trưng thể loại để dạy học truyện ngắn. Chính vì thế đã
dẫn đến bài học thiếu chiều sâu, học sinh cảm thụ bài học nhiều khi theo sự sắp
đặt của giáo viên, làm cho các em mất đi sự chủ động, sáng tạo trong quá trình
học tập và lĩnh hội kiến thức.
20


3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Định hướng cách dạy học một số truyện ngắn trong chương trình Ngữ
văn lớp 12 THPT từ việc khai thác vai trò, tác dụng của tình huống truyện
Trong quá trình tổ chức tiết học về các truyện ngắn được giới thiệu trong
chương trình, bản thân tơi một mặt tn thủ theo hướng dẫn của sách giáo viên
nhưng mặt khác tôi bám vào đặc điểm tình huống truyện để xây dựng nên hướng
tiếp cận nội dung bài học. Trong phần Tìm hiểu chung, tơi giới thiệu tồn bộ về
cuộc đời và sự nghiệp của tác giả (có nói đến tình huống truyện trong phần sự
nghiệp), giới thiệu về tác phẩm (có nói qua về tình huống truyện). Trong phần
Đọc hiểu văn bản, tơi cho học sinh đọc và hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung
bài học thông qua việc khai thác các yếu tố liên quan đến tình huống truyện. Khi
kết thúc bài học, tôi tiếp tục cho học sinh khái quát lại vai trị, tác dụng của tình

huống truyện trong phần Tổng kết.
Căn cứ vào các yếu tố đã nêu, tôi đề xuất hướng tiếp cận một số truyện
ngắn trên cơ sở khai thác vai trị, tác dụng của tình huống truyện như sau:
3.1.1. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
3.1.1.1. Xác định tình huống truyện
Cho học sinh đọc tác phẩm và hướng dẫn các em chỉ ra sự kiện quan
trọng nhất. Các em dễ dàng nhận ra sự kiện quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ
nội dung truyện ngắn “Vợ nhặt” chính là một cuộc hơn nhân ối ăm, kì lạ của
hai con người trong đói khát. Theo cách nói của Nguyễn Minh Châu đó chính là
cái "tình thế xảy ra chuyện", cái tình huống của câu chuyện: Tràng - anh nông
dân nghèo thô kệch, dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945.
3.1.1.2. Phân tích vai trị, tác dụng của tình huống truyện
- Đối với sự phát triển cốt truyện: Tình huống truyện góp phần tạo nên
kịch tính cho thiên truyện cũng như tạo nên độ căng thẩm mĩ hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc. Câu chuyên về việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên và
lôi cuốn đối với tất cả mọi người. Lúc Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngơ
ngác, ngạc nhiên. Khi đã rõ, họ tị mị thì ít mà ái ngại nhiều hơn: "Giời đất này
còn rước cái của nợ đời về". Bà cụ Tứ - mẹ Tràng cũng quá đỗi ngạc nhiên
20


khơng tin vào mắt mình, khơng tin vào tai mình. Và ngay cả Tràng vẫn khơng
hết ngạc nhiên vì mình được vợ. Các sự kiện, chi tiết có vẻ vụn vặt nhưng có
quan hệ mật thiết với chuyện “nhặt vợ” của Tràng cứ lần lượt hiện ra đầy kịch
tính, tạo nên những ngạc nhiên, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối tác
phẩm. Đó chính là điểm thành cơng của thiên truyện.
- Đối với sự phát triển tính cách nhân vật: Cùng với sự phát triển cốt
truyện, tình huống truyện làm cho người đọc dần nhận ra sự thay đổi trong tính
cách của từng nhân vật.

+ Nhân vật bà cụ Tứ: Trước khi tình huống xảy ra, người ta chỉ biết đến
bà là một người đàn bà nghèo khổ, góa chồng, dân ngụ cư, khơng có niềm vui,
hi vọng, không đủ điều kiện để lo cho con cái. Nói chung mọi cái đều bế tắc
trước nạn đói. Sau khi Tràng dẫn người “vợ nhặt” về, tâm trang bà cụ thay đổi.
Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu của số
phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ
nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó có ni nhau nổi
sống qua được cơn đói khát này khơng?”. Câu hỏi từ đáy lịng của bà mẹ chất
chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp nghèo không lối thốt. Trong lời nghẹn
nghào tâm sự có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã khơng làm được đầy đủ bổn
phận của người mẹ đối với con. Nhưng bà vẫn định hướng cho con cái về làm
ăn, về tương lai. Đó là một sự thay đổi tích cực, nhờ tình huống mà chúng ta có
thể nhận ra được.
+ Nhân vật Tràng cũng có những biến đổi tâm trạng liên tục. Lúc đầu
Tràng tỏ ra lo lắng trước cảnh nghèo “… thóc gạo này mà cịn đèo bịng”. Sau
đó, Tràng chấp nhận đưa vợ về ra mắt với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc,
ngượng ngịu, bối rối. Sau khi có vợ, Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và
“nên người”. Tràng nhận ra được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với
mẹ, với vợ và những đứa con sau này. Tràng tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.
+ Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, thị là một kẻ lang thang đói
khát, rách rưới, liều lĩnh, chao chat, mất hết thể diện con người. Chỉ một tiếng hị
vu vơ, một lời mời khơng chủ đích, bốn bát bánh đúc mà theo không người ta
về. Nhưng khi về với Tràng, thị càng lúc càng bộc lộ vẻ đẹp bên trong. Thị tỏ ra
lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết...
20


- Đối với sự hình thành và bộc lộ tư tưởng của nhà văn: Tình huống
truyện cũng góp phần bộc lộ tư tưởng của nhà văn. Thông qua câu chuyện về
cuộc hơn nhân kì lạ ối oăm trong nạn đói. Kim Lân lên tiếng tố cáo tội ác của

thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp, khơng chỉ
cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn hạ thấp giá trị con
người. Nhà văn cũng đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức
sống kì diệu của con người: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự
sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương u đùm bọc lẫn nhau. Đó chính là cái
nhìn hiện thực và chiều sâu nhân đạo của Kim Lân qua tác phẩm.
3.1.2. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”
của Nguyễn Thi
3.1.2.1. Xác định tình huống truyện
Truyện xây dựng được một tình huống đặc biệt. Đó là câu chuyện về anh
Giải phóng quân tên Việt. Anh bị rơi vào tình huống đặc biệt: trong một trận
đánh ác liệt, Việt bị thương nặng, bị lạc mất đồng đội phải nằm lại chiến trường.
Anh ngất đi, tỉnh lại không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần ngất đi tỉnh lại đó, bao
nhiêu kí ức về gia đình, về đồng đội, về bản thân cứ hiện về lung linh sống động
trong tâm trí Việt. Câu chuyện vì thế hiện lên trong dịng hồi tưởng của Việt.
3.1.2.2. Phân tích vai trị, tác dụng của tình huống truyện
- Đối với sự phát triển cốt truyện: Có thể nói, đây là một truyện ngắn đặc
biệt của Nguyễn Thi. Nhà văn đã bám vào tình huống Việt bị thương phải nằm
lại chiến trường rồi xây dựng cho tác phẩm một lối tự sự riêng. Đây là lối kể
chuyện không dựa vào thời gian mà được thực hiện theo dòng hồi tưởng miên
man đứt nối của một tâm hồn lúc mê, lúc tỉnh. Cách kể chuyện này làm tăng tính
hấp dẫn cho cốt truyện, làm cho người đọc liên tục được thay đổi cảm giác bởi
sự đan cài giữa cái đang diễn ra với những kỉ niệm, giữa quá khứ và hiện tại. Từ
sự hồi tưởng của Việt, các nhân vật khác hiện lên mang những vẻ đẹp khác nhau
nhưng đều chứa đựng những phẩm chất cao đẹp của người anh hung cách mạng,
vẻ đẹp tiêu biểu của người nông dân Nam Bộ: thẳng thắn, chất phác mà vô cùng
anh dũng, kiên trung. Cũng thơng qua đó, Nguyễn Thi đã khái qt lên vẻ đẹp
của gia đình Việt Nam, vừa có những nét riêng lại vừa mang những đặc điểm
chung làm nên phẩm chất anh hung của cả dân tộc Việt Nam. Tất cả làm cho
người đọc bị mê hoặc từ lối tự sự đặc biệt ấy của Nguyễn Thi.

20


- Đối với sự phát triển tính cách nhân vật: Từ dòng hồi tưởng mê man,
lúc tỉnh lúc mê của Việt lần lượt tái hiện những gì đã qua, đang có trong đời anh.
Dịng nội tâm đã tái hiện bao nét sinh động cụ thể về chú Năm, má, chị Chiến và
cả cái gia đình Nam Bộ đầy đau thương, mất mát, nhưng rất mực anh hùng ấy.
+ Nhân vật Má: Đó là một người phụ nữ tiêu biểu cho hình ảnh những
bà mẹ miền Nam anh hùng. Má có một cuộc sống cơ cực, nhọc nhằn, khổ đau.
Má vô cùng anh dũng trong chiến đấu. Tình yêu thương chồng con cũng được
má bộc lộ theo cách riêng của mình: chồng bị giặc giết, cắp thúng đi theo giặc
đòi bằng được đầu chồng; thương con hết mực nhưng không dễ dãi hết sức
nghiêm khắc, luôn luôn nhắc nhở con về truyền thống gia đình và mối thù dân
tộc; hun đúc, ni dưỡng ở con ý chí chiến đấu khơng mệt mỏi. Vẻ đẹp của nhân
vật này hiện lên đẹp đẽ qua dịng hồi tưởng của Việt. Hình tượng nhân vật này
làm ta nhớ đến hình tượng chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng”,… Tất cả họ
đều tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ Nam Bộ trong kháng chiến.
+ Chú Năm: Trong dịng sơng truyền thống của gia đình, chú Năm là
khúc thượng nguồn, là chỗ dựa, là người dạy dỗ, dìu dắt Việt và Chiến viết tiếp
dịng sơng truyền thống ấy. Chú Năm có một giọng hị rất đặc biệt. Tiếng hò ấy
vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê hương khó nghèo
nhưng bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục động
viên thanh niên ra trận. Đó là con người của truyền thống, giúp Việt và Chiến
trưởng thành. Chú cũng là người có tấm lịng u nước, gắn bó với quê hương
tha thiết, căm thù giặc sâu sắc, có giọng nói, giọng hị tiêu biểu đặc trưng của
người Nam Bộ.
+ Chị Chiến: Là một con người hết mực yêu thương và luôn nhường
nhịn Việt, trừ việc giành đi bộ đội với Việt. Chiến mang những phẩm chất, vẻ
đẹp được kế tục của má: đảm đang, tháo vát, sắp xếp chu đáo mọi việc trước khi
lên đường nhập ngũ; bộc trực, quyết liệt, gan góc, quyết khơng đội trời chung

với kẻ thù. Nhìn mọi việc của chị, Việt nhìn thấy cử chỉ, hành động của má.
+ Nhân vật Việt: Trong hồi ức của Việt, người đọc nhận ra hình ảnh của
một chàng trai mới lớn vừa rất hồn nhiên, vơ tư vừa rất dũng cảm, gắn bó với
những người thân và giàu tinh thần trách nhiệm với truyền thống của gia đình,
quê hương. Là một chàng trai mới lớn, Việt cịn mang tính cách trẻ con, hồn
nhiên, vơ tư: tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị; trong khi chị Chiến lo toan
20


thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe vừa “chụp một
con đom đóm úp trong lịng tay” rồi ngủ qn lúc nào khơng biết; đi đánh giặc
vẫn đeo ná thun; không sợ giặc nhưng lại sợ ma; mỗi lúc tỉnh lại ngoài chiến
trường, Việt nhớ về gia đình, thèm được má cưng chiều… Đó là tính cách tiêu
biểu của anh cịn trai mới lớn, đang lúc trưởng thành, đã có ý thức trách nhiệm
nhưng vẫn chưa thốt khỏi tính cách trẻ con của mình. Tuy nhiên, đây vẫn là
nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất anh hùng cách mạng của lớp lớp thanh niên
Nam Bộ trong kháng chiến.
Nhân vật Việt cũng được nhà văn xây dựng với tình cảm gắn bó và ý
thức trách nhiệm với truyền thống gia đình. Đó là ý thức trách nhiệm thiêng
liêng của một đứa con với truyền thống gia đình: lịng căm thù giặc, khát vọng
cầm súng chiến đấu trả thù cho ba má, bảo vệ gia đình, quê hương… Đó là hành
động chiến đấu gan góc, quả cảm: diệt được xe bọc thép của giặc; bị thương
nặng, lạc đồng đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm
về với anh em, để tiếp tục đấu tranh; một mình ở lại giữa chiến trường nhưng
vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu…
- Đối với sự hình thành và bộc lộ tư tưởng của nhà văn: Thơng qua cách
trần thuật qua dịng hồi tưởng của Việt, cốt truyện được phát triển li kì, hấp dẫn,
vừa tạo cho người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện hồi tưởng của Việt, nhà văn
vừa phát biểu được những tư tưởng của mình: gia đình là cội nguồn sâu thẳm
nhất của con người, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng, vì nó đã

hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng. Cách kể chuyện này có hai tác dụng về
nghệ thuật: câu chuyện vừa được kể, cũng là lúc tính cách nhân vật được khắc
họa; câu chuyện trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua con mắt, tấm lịng và
bằng ngơn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.
Nhà văn dựng tình huống tâm trạng nên trần thuật theo dịng ý thức của
nhân vật. Qua đó thể hiện phẩm chất anh hùng của người nông dân Nam Bộ với
ý tưởng nghệ thuật: người anh hùng là sản phẩm của một thời đại, đồng thời là
sản phẩm của một truyền thống gia đình. Đồng thời, nhà văn ca ngợi chủ nghĩa
anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà văn
cũng khẳng định sự hịa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước,
giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh
thần to lớn của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
20


3.1.3. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngồi xa”
3.1.3.1. Xác định tình huống
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngồi xa” là một thành công khác của Nguyễn
Minh Châu sau hang loạt những thành cơng trước đó của nhà văn. Truyện xoay
quanh một tình huống cơ bản: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền
biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành cơng khi
thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngồi xa đẹp như một giấc mơ.
Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo
hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những
ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà
làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị. Đó thực sự là những
phát hiện về đời sống con người.
3.1.3.2. Phân tích vai trị, tác dụng của tình huống truyện
- Đối với sự phát triển cốt truyện: Tình huống truyện được tạo nên bởi
nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái

trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới được “một
cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa
thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp,
một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích”. Nhưng ối oăm thay, cảnh đẹp nhất, có
hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ
thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn;
một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con
thương mẹ, đánh lại cha.
- Đối với sự phát triển tính cách nhân vật: Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng
và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá
trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly hôn nhưng
thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ chối, thậm chí van xin
tịa án cho chị khơng bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của
người phụ nữ làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị cịn có
những đứa con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ khơng thể sống vì bản
thân. Và trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ.
20


Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về
nguyên nhân bi kịch và tính cách của các nhân vật:
+ Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ
hiền lành sang thô bạo. Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo
vừa là thủ phạm gây ra nỗi đau cho vợ và con.
+ Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao
dung, giàu lòng thương con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.
+ Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì
những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh
hiểu rằng, con người và cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý
giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban đầu.

+ Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngồi xa, cịn sự thật cuộc
đời lại ở rất gần. Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, tồn bích có thể che
khuất cái bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực
lại có thể chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Câu chuyện của
người đàn bà ở tịa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như
nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm
chính mình.
- Đối với sự hình thành và bộc lộ tư tưởng của nhà văn:
Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của
nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ
giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản, xi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý.
Cần nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong
mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
+ Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức
sách vở mà phải thấu hiểu cuộc sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
+ Con người ta ln phải nhìn lại mình. Hoạt động tự ý thức khiến con
người ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Nghệ thuật chân chính khơng bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật
chân chính là cuộc sống và phải ln ln vì cuộc sống.
20


3.2. Định hướng cụ thể qua văn bản “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
Khi thiết kế bài học, tôi đã mạnh dạn thiết kế theo hướng tích hợp các đề
mục sao cho gọn nhẹ, giúp học sinh dễ nắm bắt nội dung bài học . Sau đây, để giúp
các đồng nghiệp có cái nhìn so sánh cách thiết kế của tôi với cách thiết kế quen thuộc như sau:

Cách thiết kế quen thuộc
1) Tình huống truyện

- Xác định tình huống truyện.
- Nhận xét, đánh giá.
2) Nhân vật Tràng
- Nguồn gốc, lai lịch nhân vật.
- Số phận nhân vật.
- Tính cách nhân vật.
- Tâm trạng nhân vật…
3) Nhân vật Thị - Người “vợ nhặt”
- Nguồn gốc, lai lịch nhân vật.
- Số phận nhân vật.
- Tính cách nhân vật.
- Tâm trạng nhân vật…
4) Nhân vật bà cụ Tứ
- Nguồn gốc, lai lịch nhân vật.
- Số phận nhân vật.
- Tính cách nhân vật.
- Tâm trạng nhân vật…
5) Giá trị hiện thực và nhân đạo của
tác phẩm
- Giá trị hiện thực.
- Giá trị nhân đạo.
6) Đặc sắc về nghệ thuật
- Nghệ thuật tạo tình huống.
- Nghệ thuật tả cảnh, tâm trạng.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Ngôn ngữ truyện,…

Cách thiết kế mới
1) Tình huống truyện độc đáo
a) Thế nào là tình huống truyện?

b) Xác định tình huống truyện trong
“Vợ nhặt”: Tràng “nhặt được vợ” giữa
ngày đói, cái chết bủa vây
c) Phân tích vai trị, tác dụng của tình
huống truyện
- Đối với sự phát triển cốt truyện:
+ Tạo kịch tính truyện.
+ Tạo độ căng thẩm mĩ cần thiết cho
thiên truyện.
- Đối với sự phát triển tính cách nhân
vật (kết hợp phân tích nhân vật):
+ Nhân vật Tràng:
+ Nhân vật thị - Người “vợ nhặt”
+ Nhân vật bà cụ Tứ
- Đối với sự biểu hiện tư tưởng của
nhà văn qua tác phẩm:
+ Cái nhìn về bức tranh hiện thực của
nạn đói và số phận con người trong
nạn đói (giá trị hiện thực).
+ Bộc lộ chiều sâu nhân đạo của nhà
văn (giá trị nhân đạo).
2) Đặc sắc về nghệ thuật
- Nghệ thuật tạo tình huống.
- Nghệ thuật tả cảnh, tâm trạng.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Ngôn ngữ truyện,…

C. KẾT LUẬN
20



1. Kết quả của việc ứng dụng SKKN
- Qua việc thực hiện ứng dụng sáng kiến vào thiết kế bài học về truyện
ngắn; cụ thể là tác phẩm “Vợ nhặt” trong năm học 2014-2015 cho học sinh lớp
12B1 ở hai lần thử nghiệm (lúc chưa ứng dụng và khi ứng dụng sáng kiến kinh
nghiệm), tôi nhận thấy đa số các em có sự hứng thú hơn trong tiếp thu bài học
sau khi ứng dụng những kiến thức trong SKKN. Các em rất thích thú với cách
tiếp cận mới này vì dễ học, dễ năm bắt.
- Để đánh giá các mức độ của HS, tôi cho HS làm bài 2 kiểm tra trước và
sau khi ứng dụng kiến thức của SKKN với câu hỏi: “Phân tích sự thay đổi tính
cách của các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” từ khi thị theo Tràng về làm
vợ. Nhận xét của anh chị về sự thay đổi ấy?”
- Kết quả kiểm tra như sau: Tổng số học sinh lớp 12B1 được kiểm tra là 48
học sinh.
+ Trước khi ứng dụng tri thức từ SKKN:
TS: 48

Điểm

Điểm

Giỏi

Khá

Điểm TB

Điểm

Điểm


Yếu

Kém

Số HS

6

14

22

5

1

Tỉ lệ

12.5%

29.16%

45.84%

10.42%

2.08%

Điểm


Điểm

Yếu

Kém

+ Sau khi ứng dụng tri thức từ SKKN:
Điểm

Điểm

Giỏi

Khá

Số HS

12

19

14

Tỉ lệ

25%

39.59%


29.16%

TS: 48

Điểm TB

3
6.25%

0
0%

2. Kiến nghị, đề xuất
- Nhà trường cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc quán triệt cho cán bộ
giáo viên không ngừng đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học.
20


Đồng thời, khắc phục khó khăn, trang bị cho giáo viên đầy đủ phương tiện dạy
học để ngày càng có kết quả cao hơn nữa, nhất là ở những môn xã hội.
- Đề nghị cấp trên giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhà trường sớm có được đầy
đủ phịng học cần thiết để giáo viên có thể khắc phục về cơ sở vật chất trong một
nhà trường mới được thành lập để n tâm cơng tác và có điều kiện nâng cao
chất lượng dạy học của nhà trường.
- Bản thân mỗi giáo viên cần nâng cao vai trò của cá nhân trong việc xây
dựng chương trình dạy học gắn với đổi mới phương pháp cho phù hợp với đối
tượng học sinh ở mỗi vùng miền.
- Dù bản thân tôi đã có nhiều cố gắng khi thể hiện sáng kiến kinh nghiệm
của mình và ít nhiều đã có được những thành công bước đầu. Nhưng với một thể
loại văn học hàng đầu như truyện ngắn thì việc khai thác hết những yếu tố thi

pháp của nó vận dụng vào việc thiết kế và thực hiện bài học không thể vội vàng
mà cần có q trình nghiên cứu, vận dụng một cách nghiêm túc. Rất mong được
sự quan tâm chia sẻ của đồng nghiệp để làm cho các tiết học về truyện ngắn nói
riêng, tác phẩm tự sự nói chung cũng như môn Ngữ văn thêm sinh động, hấp dẫn
và thực sự thu hút học sinh đến với một môn học đầy tính nhân văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!!!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 25 tháng 5 năm 2015
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này
do tôi thực hiện, không coppy
Tác giả

Phạm Tiến Triều

20



×