Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

SKKN 4BDUdoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.6 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>1.TÊN ĐỀ TÀI: MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN 2. ĐẶT VẤN ĐỀ 2.1 Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Các kiến thức về các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học...đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người ; thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót trong cuộc sống. Chính vì vậy việc giúp học sinh giải toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và khối lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải thực hiện để nâng cao chất lượng dạy- học ở môn toán cho học sinh. 2.2 Tóm tắt những thực trạng liên quan Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy đa số các em giải toán có lời văn còn yếu vì nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em thường vội vàng, hấp tấp, đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến kết quả bị sai.Có em trình bày bài giải đúng nhưng chưa đủ các bước tính. Một số em trình bày lời giải còn sai sót. Bên cạnh đó , cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là đặc điểm tâm lí lứa tuổi : các em thích giống bài bạn , không tin tưởng vào bài làm của chính mình nên dẫn đến những sai sót giống nhau. Thậm chí khi đã làm bài.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chép lại sao cho giống bài bạn.Theo tôi, đây là do các em thiếu tự tin trong học tập. Bên cạnh đó vẫn còn một số em tiếp thu chậm, mau quên làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập không những ở môn toán mà còn ở tất cả các môn học khác 2.3 Lý do chọn đề tài Qua kết quả khảo sát đầu năm học cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn của các em còn rất nhiều hạn chế. Chính vì thực trạng này đặt ra cho mỗi người giáo viên lớp 4 chúng tôi là làm thế nào để giúp học sinh giải toán có lời văn đạt hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy - học nói chung và môn toán nói riêng. 2.4 Giới hạn nghiên cứu của đề tài Nội dung các kiến thức về giải toán có lời văn trong chương trình toán 4 bao gồm các bài toán liên quan đến: -Tìm số trung bình cộng của nhiều số -Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. -Tìm phân số của một số. - Tìm hai số khi biết tổng( hoặc hiệu) và tỉ số của hai số đó - Tính chu vi và diện tích của mốt số hình đã học( hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành, hình thoi) Trong đề tài này bản thân tôi chỉ nghiên cứu và đề ra các biện pháp giúp học sinh giải các bài toán về tìm số trung bình cộng của nhiều số và tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. 3. Cơ sở lý luận Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học có nhiều mảng kiến thức như: Yếu tố hình học, yếu tố thống kê, số học, tỉ lệ bản đồ, giải toán có lời văn, ... thì mảng kiến thức giải toán có lời văn giữ vai trò rất quan trọng vì mảng kiến thức này sẽ giúp học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống rất nhiều. Nội dung học các em sẽ được làm quen từ lớp 1 và hoàn chỉnh ở lớp 5. Các kiến thức về những dạng toán các em học mang tính khái quát cao và giúp các em rèn luyện và phát triển tư duy. Trong quá trình giảng dạy, theo tôi,người giáo viên phải tìm ra cách tốt nhất giúp các em nắm vững và thành thạo các kĩ năng giải các dạng toán đã được học..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Thuận lợi: Đa số học sinh thích học môn toán . Nhà trường trang bị tương đối đầy đủ đồ dùng cho dạy học toán. Học sinh có đầy đủ phương tiện học tập. 2. Khó khăn: Học sinh : Môn toán là môn học khó khăn, học sinh dễ chán. Trình độ tiếp thu của các đối tượng học sinh trong lớp không đồng đều. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. Vì vậy mà qua khảo sát chất lượng đầu năm học, qua chất lượng giữa HKI, kết quả về kiến thức giải toán có lời văn của lớp 4B tôi giảng dạy như sau: Tổng số học sinh: 29em Tóm tắt bài toán Đạt 20 em. Chưa đạt 9 em. Chọn và thực hiện đúng phép tính Đúng Sai 20em 9em. Lời giải và đáp số Đúng 20 em. Sai 9 em. Qua kết quả khảo sát cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn của các em còn rất nhiều hạn chế. Chính vì thực trạng này bản thân tôi đã cố gắng nghiên cứu tìm ra một số biện pháp giúp học sinh lớp mình giải toán có lời văn đạt hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy - học. 5. Nội dung nghiên cứu - Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ....chính.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> vì đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải . Theo tôi trong quá trình giảng dạy, giáo viên không quan trọng trong việc bắt buộc học sinh phải nhớ bài toán này thuộc dạng nào? Bởi vì sự phân chia các dạng toán chỉ có tính tương đối nhằm giúp học sinh làm quen và biết cách giải một số dạng toán hợp khác nhau. Điều chủ yếu là giáo viên phân tích kĩ từng mẫu bài toán, biết lập luận một cách logic để tìm ra cách giải nhanh và đúng. Học sinh phải xác định được đâu là giả thiết, đâu là kết luận của đề toán, từ đó tìm được cách giải .Từ cơ sở lý luận trên, tôi đã đề ra một vài biện pháp giúp học sinh hình thành kỹ năng, kỹ xảo, nắm được phương pháp chung để giải các bài toán có lời văn như sau: 5.1 Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước khi giải - Bước 1: Thường xuyên cho HS đọc đề bài nhiều lần trước khi làm bài, từ đó các em hình thành thói quen đọc kĩ bài trước khi giải. - Bước 2: Trong quá trình giải, tôi thường xuyên cho HS tóm tắt. Trước khi tóm tắt thường hướng dẫn cho các em có cách tóm tắt bằng hệ thống các câu hỏi gợi mở, giúp HS nhận biết dạng toán điển hình. VD: Toán hợp giải bằng hai phép tính nhân, chia, có liên quan đến rút về đơn vị, ….Từ đó HS có hướng tóm tắt bài toán cho đúng với yêu cầu của từng loại bài. - Bước 3: Phân tích bài toán. GV đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp gợi mở cho HS đi ngược từ câu hỏi của bài toán trở lại điều kiện của đầu bài đã cho. - Bước 4: Giải bài toán. Từ 3 bước trên, giúp HS hiểu kỹ đề bài, từ đó HS định hướng , tư duy và tìm ra cách giải bài toán đó. - Bước 5: Thử lại kết quả. - Sau khi giải xong cho các em thử lại kết quả. Bước này giúp HS có cơ sở lý luận, tin tưởng vào cách làm bài của mình. Để hình thành cho HS có kỹ năng giải toán có lời văn theo năm bước trên, đòi hỏi người GV phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Các ví dụ minh họa Ví dụ 1: Một tổ sản xuất muối thu hoạch trong năm đợt như sau: 45 tạ, 60 tạ,79 tạ, 72 tạ và 98 tạ. Hỏi trung bình mỗi đợt thu hoạch được bao nhiêu tạ muối? + Bước 1: HS đọc kĩ đầu bài. Tìm hiểu các dử kiện của đề bài đã cho. + Bước 2: Tóm tắt:  Thu năm đợt: 45 tạ, 60 tạ, 75 tạ, 72 tạ, 98 tạ.  Trung bình mỗi đợt? tạ + Bước 3: Phân tích: - Bài toán hỏi gì?( Số tạ muối trung bình mỗi đợt) - Bài toán cho biết gì?( Số tạ muối mỗi đợt) - Muốn tìm số muối trung bình mỗi đợt ta phải làm gì? ( Tìm tổng số muối) Cách làm: Tìm tổng số tạ muối thu hoạch của 5 đợt rồi chia cho số đợt (5 ).

<span class='text_page_counter'>(5)</span> + Bước 4: Giải bài toán: Tổng số tạ muối cả 5 đợt thu hoạch được là: 45 + 60+ 75 + 72+ 98 = 350 (tạ ) Trung bình mỗi đợt thu hoạch được là: 350 : 5 = 70 (tạ) Đáp số: 70 tạ + Bước 5: Thử lại: 70x 5 = 350 VD2: Tổng hai số là 70 .Hiệu hai số là 10. Tìm hai số đó.  Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh theo 5 bước thông thường sau: + Bước 1: Cho HS đọc kĩ đề bài. Tìm hiểu và khai thác đề + Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ toán học. Cụ thể ở bài này học sinh phải vẽ sơ đồ minh hoạ. + Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải : - Bài toán hỏi gì? - Đề bài cho biết gì? - Muốn tìm mỗi số ta phải làm thế nào? + Bước 4: Giải toán. Cách 1: Nhìn sơ đồ ta thấy nếu bớt 10 ở số lớn tức là lấy tổng hai số trừ đi hiệu hai số thì ta được hai lần số bé, chia cho 2 ta được số bé: Vậy số bé = (T– h ): 2 Từ đó ta có thể tìm được số lớn bằng một trong hai cách đã học. Cách 2: Nếu thêm 10 vào số bé tức là lấy tổng hai số cộng với hiệu hai số ta được hai lần số lớn, chia cho 2 ta được số lớn: Vậy số lớn = (T+ h ): 2 Từ đó ta có thể tìm được số bé bằng một trong hai cách đã học. + Bước 5: Thử lại kết quả của bài toán: T = Số lớn + Số bé H = Số lớn – Số bé 5.2 Nắm rõ trình độ của từng đối tượng học sinh trong lớp Ngay từ đầu năm học,giáo viên phải nắm được rõ trình độ, khả năng tiếp thu của từng em để có hướng giúp đỡ cho từng đối tượng học sinh. Giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động một cách tích cực, các em tự tìm tòi, tự khám phá. Để thực hiện đạt hiệu quả, giáo viên cần nghiên cứu nội dung bài, tìm ra cách truyền thụ kiến thức cho học sinh bằng con đường ngắn nhất và dự kiến các sai lầm của học sinh mắc phải để giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhẹ nhàng dễ hiểu. những câu hỏi, tình huống của giáo viên có ý nghĩa hết sức.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> quan trọng đối với học sinh, làm cho học sinh hứng thú, tò mò, học sinh tự tìm hiểu câu trả lời đúng, tạo niềm tin cho các em. Giáo viên quan tâm đồng đều tới các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt là với các học sinh tiếp thu chậm và luôn có lời động, nhắc nhỏ để các em tiến bộ mỗi ngày. 5.3 Tạo ra sự hổ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh - Nên cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ, trong cả lớp về cách giải hoặc các cách giải một bài tập. Nên khuyến khích học sinh bình luận về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh cách giải của mình. - Sự hổ trợ của các học sinh trong nhóm, trong lớp phải giúp học sinh tự tin vào khả năng của bản thân; tự rút kinh nghiệm về cách học, cách làm bài của mình và tự điều chỉnh, sửa chữa những thiếu sót( nếu có) của bản thân. - Cần giúp học sinh nhận ra rằng : hổ trợ, giúp đỡ bạn cũng có ích cho bản thân. Thông qua việc giúp đỡ bạn, học sinh càng nắm chắc, hiểu sâu kiến thức của bài học, càng có điều kiện hoàn thiện các năng lực của bản thân. 5.4. Kích thích, tạo hứng thú, say mê cho học sinh trong giờ học toán Bên cạnh những biện pháp thực hiện như trên, giáo viên cần tạo sự say mê hứng thú của các em trong học toán. Để tạo sự hứng thú, say mê cho các em trong học tập, tôi còn tổ chức cho các em thi làm bài nhanh và đúng trong các tiết học theo cá nhân, theo tổ nhóm. Chấm bài những em làm nhanh, đúng tuyên dương trước lớp để kích thích các em trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng trong mỗi tiết học. 6. Kết quả nghiên cứu: Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã vận dụng linh hoạt các biện pháp trên trong từng bài học và đã đạt được một số kết quả như sau: a) Về dạng toán tìm số trung bình cộng của nhiều số Tổng số HS. Giữa HKI G. K. TB. Cuối HKI Yếu. G. K. TB. Yếu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 29. 10 8 7 4 21 6 2 0 b) Về dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Tổng số HS 29. Giữa HKI. Cuối HKI. G. K. TB. Yếu. G. K. TB. Yếu. 10. 7. 7. 5. 20. 6. 3. 0. 7. Kết luận: Để học sinh nắm được bài không phải là một quá trình dạy học đơn thuần. Nhưng để học sinh nắm được bài và vận dụng linh hoạt cách làm bài phù hợp, dễ hiểu lại càng khó hơn. Điều này đòi hỏi mỗi người giáo viên cần tìm tòi, khám phá cho mình biện pháp giúp học sinh hiểu bài một cách nhanh nhất và dễ nhớ nhất. Đặc biệt với những đối tượng học sinh còn chậm cả về năng lực tiếp thu và cách học thì trong quá trình dạy GV phải giúp HS nắm chắc các kiến thức ở SGK, thường xuyên củng cố các kiến thức đã học cho các em trong mỗi tiết học, giúp các em dễ tiếp thu hơn và nhớ kiến thức lâu hơn. Bên cạnh đó, GV cần tạo sự hứng thú cho các em trong các tiết học nhất là trong các tiết học toán. Tuy nhiên để có kết quả như mong muốn phải có sự kiên trì và thời gian Không phải một tuần, hai tuần là học sinh sẽ có khả năng giải toán tốt, mà đòi hỏi phải rèn luyện trong một thời gian dài, trong suốt cả quá trình học tập của các em. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, đưa ra phương pháp, còn học sinh sẽ là người đóng vai trò hoạt động tích cực tìm ra tri thức và lĩnh hội nó và biến nó là vốn tri thức của bản thân mình. 8. Đề nghị 1. Đối với học sinh: -Phải nắm chắc các kiến thức đã học, vận dụng các bước giải khi thực hành ở mỗi dạng toán đã học. -Kiên trì trong học tập. Tự học, tự khám phá trong học tập..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> 2. Đối với giáo viên: - Ở mỗi dạng toán, cần nghiên cứu kĩ các cách giải, hướng dẫn học sinh lựa chọn cách giải nào mang lại kết quả tối ưu nhất - Không ngừng học hỏi và tham khảo ý kiến đồng nghiệp để trau dồi chuyên môn -Kiên trì hướng dẫn,giúp học sinh hoạt động tích cực để lĩnh hội và vận dụng các kiến thức đã học Trên đây là một vài biện pháp mà bản thân đã nghiên cứu và vận dụng trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh khi giải toán Chắc cũng không tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của BGH nhà trường và đồng nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(9)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×