Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.43 KB, 32 trang )

MỤC LỤC


GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý tưởng sống là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người muốn hướng tới, là
lý do,mục đích mà mỗi con người mong mỏi đạt được. Người có lý tưởng sống
cao đẹp là người ln suy nghĩ và hành động để hồn thiện mình hơn, giúp ích
cho mình, gia đình xã hội và đất nước. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng
khao khát được sống hạnh phúc, với lịng khao khát đó thúc giục chúng ta đi
kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lịng, con người ln ước ao có được
một cuộc sống bình an, vui tươi, khơng lo âu buồn phiền, khơng đau khổ ốn
thán, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn.
Để đạt được khát vọng đó, người ta ln tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc
đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt
qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng
để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của
con người. Nếu khơng có lý tưởng thì cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, con
người mất hết động lực để hành động thực tiễn và sự tồn tại của con người dần
trở nên vô nghĩa. Chính vì vậy, giáo dục lý tưởng cho con người nói chung ở
mọi thời đại ln là những vấn đề cần thiết của một chính thể, một đảng cầm
quyền.
Lý tưởng sống là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người muốn hướng tới, là
lí do,mục đích mà mỗi con người mong mỏi đạt được. Người có lý tưởng sống
cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hồn thiện mình hơn, giúp ích
cho mình, gia đình xã hội và đất nước. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng
khao khát được sống hạnh phúc, với lòng khao khát đó thúc giục chúng ta đi
kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lịng, con người ln ước ao có được



một cuộc sống bình an, vui tươi, khơng lo âu buồn phiền, khơng đau khổ ốn
thán, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn.
Để đạt được khát vọng đó, người ta ln tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc
đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt
qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng
để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của
con người. Nếu khơng có lý tưởng thì cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, con
người mất hết động lực để hành động thực tiễn và sự tồn tại của con người dần
trở nên vơ nghĩa. Chính vì vậy, giáo dục lý tưởng cho con người nói chung ở
mọi thời đại ln là những vấn đề cần thiết của một chính thể, một đảng cầm
quyền.
Thủ đơ Hà Nội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kỹ thuật, đồng thời là trung tâm lớn
về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Đây cũng là nơi có mật độ tập trung
các trường đại học, cao đẳng cao nhất của cả nước. Hiện nay, trên địa bàn thành
phố có 126 cơ sở đào tạo cho học sinh, sinh viên, trong đó có 56 trường đại học
cơng lập và 13 trường đại học ngồi cơng lập. Thành phố Hà Nội có nhiều
trường đại học có quy mơ sinh viên lớn như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học
Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Nông nghiệp 1 và hàng
loạt các trường đại học đầu ngành khác như Sư phạm 1, Y khoa, Nhạc viện,
Thủy lợi, Học viện Kỹ thuật qn sự... Chính vì vậy, giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên các trường đại học Hà Nội là một vấn đề lớn và cấp thiết
so với các địa bàn khác. Trong những năm qua công tác giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội đã được quan tâm đầu tư.
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Ban giám hiệu các trường đại học ngày càng quan tâm
đến giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trong bối cảnh đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục – đào tạo hiện nay. Sang thập kỷ thứ 3 của thế kỷ 21, thế
giới đang có những thay đổi vũ bão, cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo đang
dần thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hội nhập kinh tế toàn cầu khiến



toàn thể nhân loại đứng trên một vạch xuất phát trong cuộc đua tìm kiếm cơ hội.
Bất kỳ ai đứng ngoài guồng quay chung của xã hội sẽ ngay lập tức bị bỏ lại phía
sau. Đây là những thách thức lớn với thế hệ trẻ đặc biệt là sinh viên, những
người sẽ phải cạnh tranh hết sức khốc liệt để có việc làm sau khi tốt nghiệp. Nội
dung, hình thức, phương pháp giáo dục phong phú phù hợp, gắn với đặc điểm
nghề nghiệp tương lai của sinh viên. Tuy nhiên, công tác giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên chưa được thường xuyên quan tâm, kịp thời. Một số nội
dung giáo dục cịn trừu tượng, thiếu tính cụ thể, chưa thật sự phù hợp với đặc
điểm sinh viên từng ngành nghề, từng lĩnh vực công tác tương lai. Phương pháp,
hình thức giáo dục tuy đã cố gắng đa dạng hóa nhưng chưa đáp ứng nhu cầu đổi
mới của sinh viên, phương tiện giáo dục được sử dụng chưa phát huy tối đa hiệu
quả. Từ những lý do nêu trên em đã lựa chọn đề tài “Giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay” đề tài
tiểu luận kết thúc mơn Ngun lý cơng tác tư tưởng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên và thực trạng giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
các trường đại học trên địa trên địa bàn Hà Nội, luận văn đề xuất phương hướng
và giải pháp tăng cường công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau: Nghiên
cứu, hệ thống một số vấn đề lý luận về giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh
viên, thực trạng và những vấn đề đặt ra với công tác giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay, đề xuất
một số phương hướng tăng cường công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho
sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3.1. Đối tượng tượng nghiên cứu
Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên các trường đại học trên địa
bàn Hà Nội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phân tích những vấn đề liên quan đến giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho
sinh viên, phân tích thực trạng giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó có các
phương pháp chính được sử dụng gồm: Phương pháp thu thập thông tin;
Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp quan sát, thống kê, so sánh;
Phương pháp phân tích – tổng hợp; Phương pháp logic – lịch sử; Phương pháp
phỏng vấn; - Phương pháp điều tra xã hội học;…
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Lý tưởng nghề nghiệp
Lý tưởng
Danh từ lý tưởng biểu thị quan niệm về sự hoàn thiện bản thân con người
và xã hội trong tương lai. Lý tưởng chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới,
sẽ có khi có đủ các điều kiện khách quan và chủ quan xuất hiện. Trong lịch sử

tư tưởng nhân loại, khái niệm về lý tưởng đã xuất hiện từ sớm và được nhiều
nhà khoa học đề cập và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo quan niệm thơng thường: Lý tưởng là thuật ngữ dùng để chỉ mục
đích, mục tiêu cao nhất, tốt đẹp nhất mà con người ra sức phấn đấu để vươn tới.
Một người ln có ý thức trong việc phấn đấu vì mục đích, mục tiêu cao đẹp
của mình, vì mọi người, vì xã hội được gọi là người có lý tưởng hoặc cuộc sống
của người đó có lý tưởng. Như vậy, lý tưởng là điều hiện thực chưa có mà con
người phải phấn đấu nỗ lực mới có thể đạt tới. Nó được khái quát bằng các quan
điểm, lý luận, được miêu tả như là một sự hồn hảo, là hồn tồn tốt đẹp, người
ta thường nói đó chính là lý tưởng hóa cuộc sống.
Theo quan niệm triết học: lý tưởng là sự phản ánh đặc thù hiện thực
khách quan vào ý thức con người hoặc một nhóm xã hội nào đó. “Lý tưởng là
hình mẫu, sự hoàn thiện mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn,
mơ hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hoặc một
xã hội”. Việc chọn lý tưởng mới chỉ là một bước, bước cao hơn là phải có
những hành động, những việc làm cụ thể trong thực tiễn để phấn đấu cho lý
tưởng; phải được thể hiện bằng hình thức biểu đạt tình cảm, lý chí (cảm thụ về
cái đẹp, cái đúng, cái sai) của cá nhân với tư cách là một con người có nhận


thức khoa học.
Lý tưởng là mục tiêu tốt đẹp cần hướng tới của con người, là động lực
thúc đẩy con người vươn tới. Lý tưởng của con người sẽ làm cho họ có thái độ
tích cực trong nhận thức, nồng nhiệt trong tình cảm, mãnh liệt trong ý chí, quyết
tâm trong hành động. Nói cách khác thì lý tưởng khơng chỉ là ước mơ, là khát
vọng; mà còn là niềm tin, ý chí và tri thức của con người có ý nghĩa định hướng
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn làm cho hành động của con người vươn
tới một mục tiêu rõ rệt. Do đó, lý tưởng là điều rất quan trọng của mỗi người.
Có thể khẳng định: Lý tưởng là mục tiêu của cuộc sống được phản ánh
vào đầu óc con người dưới hình thức một hình mẫu và có tác dụng lơi cuốn

mạnh mẽ tồn bộ cuộc sống của con người trong một thời gian dài để vươn tới
mục tiêu đó.
Lý tưởng nghề nghiệp
Để tìm hiểu khái niệm lý tưởng nghề nghiệp trước hết cần làm rõ khái
niệm nghề nghiệp. Nghề nghiệp là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong
đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, kỹ năng để làm ra các
loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Trong học nghề cũng như trong hành nghề, mỗi người cần phải cố gắng để đạt
một trình độ tay nghề nhất định và nâng cao tay nghề liên tục. Tay nghề được
nâng cao thì năng suất lao động mới ngày càng tăng tiến. Để có sự cố gắng liên
tục, yếu tố tâm lý hết sức cần thiết phải có là lý tưởng nghề nghiệp. Lý tưởng
chung của các cá nhân thường được cụ thể hóa bằng những biểu hiện như: kiểu
sống lý tưởng, tính cách lý tưởng, mục đích cuộc sống, … trong đó lý tưởng
nghề nghiệp đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển của các nhân. Bởi hoạt
động nghề nghiệp là hoạt động chính, chủ đạo trong phần lớn cuộc đời của mỗi
người.
Lý tưởng nghề nghiệp thường được thể hiện ở sự định hướng vào những
người lao động kiểu mẫu, vào những người sáng tạo, luôn luôn đại diện cho sự
đổi mới, luôn luôn đứng ở đỉnh cao của kỹ thuật và công nghệ. Lý tưởng nghề


nghiệp giúp chúng ta có khát vọng vươn lên đỉnh cao của nghệ thuật nghề
nghiệp, ước mơ nóng bỏng về tương lai. Thiếu lý tưởng nghề nghiệp, người lao
động không thể vượt qua được giới hạn của cảnh làm việc tẻ nhạt, không dám
nghĩ, dám làm, dám vượt qua mọi khó khăn để vươn tới sự hồn thiện về nhân
cách.
Lý tưởng nghề nghiệp có tác dụng lơi cuốn mạnh mẽ hoạt động của cá
nhân. Khi lý tưởng nghề nghiệp được hình thành thì người mang lý tưởng sẽ
ơm ấp, u mến, lý tưởng nghề nghiệp sẽ trở thành một hình ảnh rực rỡ, chói
sáng mang lại cho cá nhân những cảm xúc tích cực. Để vươn tới lý tưởng nghề

nghiệp người mang lý tưởng nghề nghiệp khơng chỉ có nhận thức sâu sắc mãnh
liệt mà cịn phải có ý chí kiên cường và mạnh mẽ để có thể vượt qua mọi thử
thách, khó khăn… để đạt tới lý tưởng mà mình đã chọn, như câu: “Lửa thử vàng
gian nan thử sức”.
Chỉ trong những hồn cảnh khó khăn mới có thể kiểm chứng được lý
tưởng của mỗi người sâu sắc đến mức nào. Trong q trình đó địi hỏi cá nhân
phải học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng về các mặt chuyên môn, khả
năng, phẩm chất, năng lực. Trên con đường đầy vinh quang và trọng trách ấy, có
những người đã bỏ cuộc để rẽ sang một hướng khác, một con đường dễ dàng
hơn. Khơng ít sinh viên chọn nghề nhưng khơng hề gắn bó với nó để cuối cùng
nhận ra mình khơng hứng thú, dường như khơng phù hợp với mình. Sự lựa chọn
nào cũng khó khăn, cũng địi hỏi mỗi cá nhân phải nỗ lực. Như vậy có thể hiểu
Lý tưởng nghề nghiệp là mong muốn, khao khát của con người về một hoạt
động lao động phù hợp với năng lực, sở trường bản thân mà trong đó nhờ được
đào tạo con người có được tri thức, kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật
chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu của xã hội, từ đó hình thành
lịng u nghề, nhu cầu nâng cao trình độ nghề nghiệp, sự đổi mới, sáng tạo
trong nghề nghiệp mà mình lựa chọn.
1.1.2. Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp
Giáo dục


Giáo dục được hiểu theo nhiều nghĩa. Theo nghĩa rộng giáo dục là toàn
bộ tác động của các chủ thể xã hội (gia đình, nhà trường và xã hội) đến con
người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu là quá trình tác động đến nhận thức,
tư tưởng, lý tưởng, hành vi của con người. Như vậy, giáo dục là một hiện tượng
xã hội, là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ
động đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân
cách.
Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp

Là quá trình tác động của chủ thể giáo dục đến đối tượng nhằm định
hướng nghề nghiệp chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của bản thân;
trên cơ sở đó hình thành những khn mẫu, chuẩn mực cao đẹp trong nghề
nghiệp mà đối tượng lựa chọn để đối tượng ln cố gắng thực hiện khát vọng
theo mẫu hồn chỉnh đó. Nói cách khác thì giáo dục lý tưởng nghề nghiệp là
một hệ thống các hoạt động, các giải pháp nhằm giáo dục những chuẩn mực
nghề nghiệp cho đối tượng để khi hành nghề, mỗi cá nhân biết kết hợp hài hòa
giữa năng lực nghề nghiệp và lý tưởng nghề nghiệp, biến lý tưởng nghề nghiệp
thành hiện thực trong hoạt động nghề nghiệp của mỗi người.
1.1.3. Sinh viên và giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
Sinh viên
Những đặc điểm nổi bật của sinh viên: Độ tuổi chủ yếu của họ trong
khoảng 18 đến 25, lứa tuổi này ở con người đã có sự trưởng thành nhất định về
mặt sinh học và quan hệ xã hội. Sinh viên ở giai đoạn thanh niên của đời người,
cơ thể đang dần đi đến hoàn thiện về mọi mặt: cơ bắp, chiều cao, trọng lượng
tăng nhanh, các đặc điểm sinh lý, giới tính phát triển đến độ chín muồi, đặc biệt
là sự phát triển của bộ não. So với thiếu niên, tế bào thần kinh của sinh viên có
khả năng phân tích, dẫn truyền thông tin tốt hơn. Do vậy, khả năng hoạt động trí
tuệ ở sinh viên vượt xa học sinh phổ thơng. Có thể nói, đây là độ tuổi cơ thể con
người đang ở thời kỳ hài hòa, đẹp đẽ với sinh lực dồi dào nhất. Về đời sống tâm
lý, xã hội, ở sinh viên có sự phong phú, phức tạp, bộc lộ nhiều mối quan hệ


khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội nhiều vẻ, đa dạng. Với tâm lý nhạy cảm,
thích cái mới lạ, ưa tìm tịi, khám phá, sáng tạo, sinh viên là những người giàu
ước mơ, hồi bão, giàu trí tưởng tượng, ln mong muốn tự khẳng định mình,
khơng lệ thuộc vào người khác, có nhu cầu cao về học vấn, về tình bạn, tình u
nam nữ, thích cơng bằng, ghét bất cơng, thích giao lưu và các hoạt động xã hội.
Vì vậy, về mặt xã hội, sinh viên đã biết quan tâm đến tương lai của bản thân và
suy nghĩ đến sự phát triển của dân tộc. Ở họ, bước đầu đã ý thức được trách

nhiệm của người công dân cũng như nghĩa vụ của mình đối với tổ quốc.
Sinh viên là lớp người có trình độ học vấn nhất định, nhạy bén, năng
động trong việc tiếp nhận cái mới, khẳng định những giá trị mới, nhưng sự phát
triển vẫn chưa hồn thiện, ở họ vẫn cịn có những hạn chế nhất định: bồng bột,
chủ quan, thiếu thực tế, dễ bốc đồng, ham chuộng hình thức, bệnh cá nhân, anh
hùng khơng muốn thua kém ai, dễ bị dao động, bị chi phối bởi tác động của
những tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến mất phương hướng về chính trị,
tha hóa về lý tưởng, lối sống vì vậy, dễ bị kích động, bị lợi dụng mua chuộc, bị
lơi kéo vào các hoạt động thiếu lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia
đình và xã hội. Sở dĩ có những nhược điểm này là vì sinh viên đang ở độ tuổi
phát triển, đang định hình về mặt nhân cách, chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm
cuộc sống, do đó, việc định hướng rèn luyện cho sinh viên biết khắc phục mặt
yếu, phát huy mặt mạnh của mình trong học tập, đặc biệt là trong rèn luyện để
trở thành những con người đủ đức, đủ tài, đáp ứng được yêu cầu cách mạng của
đất nước là điều rất cần thiết.
Tóm lại, nói đến sinh viên là nói đến tầng lớp trí thức trẻ trong tương lai,
có trình độ, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, là những người có lịng
nhiệt tình và cũng rất nhạy cảm trong cuộc sống. Đây là nét nổi bật có ở tầng
lớp sinh viên. Những ước mơ, những hoài bão lớn là động lực chắp cánh cho
người sinh viên thời nay bay cao, bay xa. Với lịng nhiệt tình, tính hăng say,
khơng chịu lùi bước trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời, đại bộ phận
sinh viên có chí tiến thủ, vươn lên trong học tập. Bên cạnh những ưu điểm đó,


trong đội ngũ sinh viên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: tính bồng bột, muốn
tự khẳng định mình, trong khi bản thân chưa có điều kiện, và khi thất bại thì dễ
nản chí và trượt dài. Do vậy, hiểu rõ đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi sinh viên là
một vấn đề hết sức quan trọng để có phương pháp giáo dục, tuyên truyền trong
sinh viên một cách khoa học, thiết thực, phù hợp.
Giáo dục lý tưởng nghiệp cho sinh viên

Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên là hoạt động có mục đích
nhằm hình thành cho sinh viên lòng yêu nghề, mong muốn nâng cao trình độ và
sự sáng tạo, đổi mới trong nghề nghiệp để hoàn thiện bản thân và thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên là một nội dung
trong công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục lý tưởng cách mạng và có mối quan
hệ hữu cơ với giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hóa cũng như các
mặt giáo dục khác cho sinh viên.
1.2. Sự cần thiết phải giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên hiện nay
1.2.1. Vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc
Bác Hồ nói: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Sau này,
trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại, Người còn căn dặn: Đảng cần phải chăm lo
giáo dục cho thanh niên để đào tạo thanh niên trở thành những người kế thừa
xứng đáng sự nghiệp cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa VII đã khẳng định:
Thanh niên phải là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ
XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc
vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên. Cơng
tác thanh niên đó là vấn đề sống cịn của dân tộc là một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng. Trong giai đoạn mới của cách mạng


hiện nay, một lần nữa Đảng ta lại khẳng định điều đó, nghị quyết hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy khóa X chỉ rõ: Thanh niên là lực lượng
xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận
mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng
việc địi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung

sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, ln năng động, sáng tạo, muốn tự
khẳng định mình.
Chúng ta cũng thấy rằng sinh viên là một bộ phận tiên tiến trong thanh
niên, là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về một lĩnh vực
chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập. Do đó, sinh viên cũng có vị
trí và vai trị của thanh niên. Nhưng với những đặc điểm riêng của mình, sinh
viên sẽ là những người chủ tương lai của đất nước, là những người sẽ nắm vận
mệnh của đất nước, là thuyền trưởng chèo lái con tàu cách mạng Việt Nam vượt
qua những con sóng dữ của thời đại.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập kinh tế quốc tế, sinh viên phải ln ý thức được vai trị và trách nhiệm
của bản thân trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, điều đó
địi hỏi sinh viên cần phải tích cực tự học tập, tự nghiên cứu nhằm nâng cao
nhận thức của bản thân về nhiệm vụ người sinh viên thời đại mới, thời đại Hồ
Chí Minh. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm của bản thân trong việc rèn luyện, tu
dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng, nhân cách, trình độ, tiến bước
mạnh mẽ và làm chủ khoa học, cơng nghệ tiên tiến đóng góp tích cực vào cơng
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, sinh viên phải ln
ý thức được vai trị và trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc, điều đó địi hỏi sinh viên cần phải tích cực tự học tập,
tự nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức của bản thân về nhiệm vụ người sinh
viên thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm của bản
thân trong việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng,


nhân cách, trình độ, tiến bước mạnh mẽ và làm chủ khoa học, cơng nghệ tiên
tiến đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
1.2.2. Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp góp phần định hướng hoạt động giáo
dục đào tạo và giáo dục trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho sinh viên

Sinh viên là những cơng dân có độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 30 đang học
tập ở trình độ đại học, cao đẳng, đang chuẩn bị những nền tảng tri thức, kỹ năng
cần thiết cho các hoạt động chuyên môn nghề nghiệp sau này. Ở độ tuổi sinh
viên, nhận thức về cuộc sống, quan điểm sống đang trong quá trình hình thành
và từng bước đi vào ổn định, lại chưa được trải nghiệm nhiều, cùng với đó tính
chưa vững chắc trong nhận thức và hành động, cộng với tính đặc thù của lứa
tuổi nhiều khi dẫn đến những hành động tự phát, thiếu khách quan. Chính vì
vậy, hiện nay có một bộ phận sinh viên thiếu hiểu biết về ngành nghề mà mình
đang theo học và thiếu ý chí phấn đấu trong quá trình học tập nâng cao trình độ
chun mơn. Một số sinh viên có lối sống cá nhân thực dụng, thích ăn chơi, đua
địi mà khơng quan tâm đến việc rèn luyện chuyên môn. Suy giảm về đạo đức,
lệch lạc về lối sống trong một bộ phận sinh viên ngày càng rõ, biểu hiện ở
khuynh hướng vật chất hoá trong các quan hệ ứng xử, coi nhẹ các giá trị đạo
đức truyền thống, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống được mệnh danh là “hiện đại”,
theo kiểu “văn minh tiêu thụ”. Xuất hiện xu hướng sùng ngoại, sùng bái đồng
tiền, đua đòi ăn diện, đòi hưởng thụ vượt quá mức thu nhập cá nhân và gia đình
cho phép. Khơng ít sinh viên đã vi phạm pháp luật, sa vào những tệ nạn xã hội
như nghiện hút, uống rượu, mại dâm, đua xe, trộm cắp, vi phạm quy chế đào
tạo. Biểu hiện lười học, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, ý
thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao.
Sự hình thành lý tưởng nghề nghiệp ở sinh viên được xác định bởi tính ổn
định hay khơng ổn định, bởi ưu thế của các động cơ xã hội và triển vọng phát
triển ở từng cá nhân. Nội dung lý tưởng nghề nghiệp được biểu hiện ở: các động
cơ liên quan đến nghề nghiệp trong tương lai; mong muốn thực hiện tốt trách
nhiệm công việc; tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ


học tập phức tạp; có tình cảm nghề nghiệp và mong muốn thành đạt trong hoạt
động nghề nghiệp, những biểu hiện này liên quan đến thái độ, sự thích ứng nghề
nghiệp của sinh viên. Đó là sự chuẩn bị cả về mặt sức khỏe, tinh thần và trí tuệ

để đáp ứng u cầu cơng việc. Nó đảm bảo cho niềm tin đúng đắn vào nghề
nghiệp trong tương lai, là cơ sở để khẳng định nhân cách và củng cố tình u
vào lĩnh vực chun mơn mà mình lựa chọn.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRONG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG NGHỀ
NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh
viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay
2.1.1. Tác động từ chính sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội
Việc lựa chọn đúng lý tưởng nghề nghiệp tương lai phụ thuộc chủ yếu
vào năng lực của cá nhân và nó được coi là yếu tố quyết định đến việc xác định
và rèn luyện, tu dưỡng lý tưởng nghề nghiệp. Năng lực cá nhân được thể hiện
qua vốn sống, sự hiểu biết, niềm đam mê của bản thân mỗi sinh viên. Điều đầu
tiên để thực hiện và đi theo lý tưởng của mình đã lựa chọn thì điều quan trọng
nhất đó là niềm đam mê. Khi có niềm đam mê về nghề thì sinh viên sẽ vượt qua
được tất cả mọi khó khăn, chơng gai trên con đường đã lựa chọn, sẽ khơng có gì
đánh gục được lịng đam mê về nghề. Nhưng chỉ có đam mê thì không đủ để đạt
được kết quả cao mà cần phải có hiểu biết tương đối về nghề như: lịch sử của
nghề, vai trò của nghề, triển vọng của nghề…
Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng là bộ phận thanh niên ưu tú, có lịng u nước nồng nàn, có năng lực
sáng tạo, tiếp thu tri thức mới, hăng hái đi đầu trong các phong trào hành động
cách mạng của tuổi trẻ. Phần lớn sinh viên sống có ước mơ, hồi bão, lý tưởng,
hiểu biết về giá trị đạo đức, văn hóa, xã hội, có sự chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn
nhau, tình nguyện vì cộng đồng, khơng ngừng phấn đấu, rèn luyện để trở thành
những cơng dân hữu ích, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
của đất nước và chủ trương xã hội hóa giáo dục những năm vừa qua đã có tác

động tích cực đến sinh viên trong việc lựa chọn, rèn luyện, tư duy về nghề
nghiệp và bước đầu có những sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp. Sinh viên
ngày càng chủ động trong học tập, nghiên cứu, tiếp cận nhanh phương pháp,


phương tiện hiện đại. Nhiều sinh viên đã tích cực liên hệ thực tiễn, tham gia
nghiên cứu khoa học. Một số sinh viên đã có sản phẩm sáng tạo, ứng dụng thực
tiễn. Nhiều sinh viên đã có ý thức tự trang bị các kiến thức bổ trợ, đặc biệt là
ngoại ngữ, tin học và các kỹ năng thực hành xã hội. Học tập, nghề nghiệp, việc
làm, vui chơi, giải trí, mong muốn khẳng định bản thân là những nhu cầu cơ bản
và mối quan tâm hàng đầu của sinh viên. Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục và
toàn xã hội đã có sự quan tâm nhiều hơn đến sinh viên qua các chương trình tín
dụng học tập, đầu tư nâng cấp, mở rộng, xây mới ký túc xá ... vì vậy, đời sống
sinh viên có phần được cải thiện hơn. Giao tiếp qua mạng internet của sinh viên
chiếm thời gian và khơng gian ngày càng lớn.
2.1.2. Tác động từ gia đình
Gia đình là mơi trường xã hội hố quan trọng bậc nhất của cá nhân, đặc
biệt là khi còn nhỏ, bởi đây là nhóm xã hội đầu tiên và gắn bó suốt đời của mỗi
người, là mơi trường chính yếu hình thành nên nhân cách của cá nhân. Bằng sự
giáo dục, gia đình tạo nên “sản phẩm” của mình, đưa nó hồ nhập vào với xã
hội. Giáo dục gia đình có vai trị quyết định đối với việc hình thành nhân cách
cá nhân cịn bởi lẽ, ngồi những yếu tố sinh học và di truyền, thì tri thức, kỹ
năng chun mơn, niềm tin, hệ giá trị- chuẩn mực... Mỗi cá nhân là một sản
phẩm của sự giáo dục trong gia đình. Những điều trẻ em lĩnh hội được ở gia
đình trong những năm đầu đời sẽ hình thành những nét nền tảng của nhân cách.
Ngay cả những điều mà cha mẹ không chủ ý truyền dạy cho con, nhưng trẻ
quan sát được hàng ngày thì cũng sẽ rất tự nhiên ngấm vào trẻ và được chúng
lặp lại, học theo. Dấu ấn gia đình, vì thế, rất đậm nét và khó xố bỏ trong nhân
cách mỗi cá nhân, vì những gì được xây dựng ban đầu thường rất bền vững, tuy
sau đó có thể được điều chỉnh, nhưng rất khó bị xố bỏ hồn tồn.

Chính vì vậy, hồn cảnh gia đình ảnh hưởng khá nhiều và trực tiếp đến lý
tưởng nghề nghiệp của sinh viên. Trên thực tế đang tồn tại ở nước ta rất rõ trong
mỗi kỳ thi đại học, cao đẳng thì số phần trăm đỗ thủ khoa của các trường hầu
như là con em ở nông thôn, nhưng lại có một nghịch lý xảy ra đó là để theo đuổi


được nó thì lại là cả một vấn đề vì cơm áo gạo tiền đã ảnh hưởng đến việc thực
hiện lý tưởng nghề nghiệp của sinh viên. Truyền thống gia đình cũng ảnh hưởng
rất nhiều đến lý tưởng nghề nghiệp của sinh viên, nhiều sinh viên vì gia đình có
truyền thống làm nghề giáo, bác sĩ, công an… và đã có đầu ra khi học xong nên
đã hướng con em mình đi theo nghề của mình và số sinh viên này phải chịu áp
lực rất lớn. Ngồi ra chính bố mẹ các em là tấm gương soi sáng để cho sinh viên
noi theo và học tập.
2.1.3. Môi trường sống
Môi trường sống là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, thái độ,
hành vi của sinh viên. Phản ảnh một cách chân thực và khách quan về thực
trạng của xã hội, môi trường sốn và học tập tác động không nhỏ đến cách nhìn
của sinh viên về cuộc sống hiện tại và cả trong tương lai. Môi trường sống bao
gồm ăn, ở, đi lại, học tập, giao tiếp… Nếu môi trường sống tốt, được đảm bảo
và thường xuyên được cải thiện sẽ giúp sinh viên có điều kiện để học tập, rèn
luyện, vui chơi giải trí, từ đó sẽ giúp cho sinh viên tin tưởng vào sự lựa chọn
ngành nghề đang theo học và sự đóng của bản thân trong tương lai cho xã hội,
cho đất nước; ngược lại nếu môi trường sống không được đảm bảo, sinh viên sẽ
tiếp cận với nhiều yếu tố tiêu cực, khiến cho sinh viên giảm sút niềm tin, bi
quan về cuộc sống, về ngành nghề đang theo học và thậm chí là có tư tưởng
lệch lạc, đi ngược lại với những chuẩn mực chung của cộng đồng, xã hội.
Phần đông sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội đến từ các
tỉnh khác trên cả nước. Sự thay đổi môi trường sống bắt buộc các sinh viên phải
thay đổi lối sống để thích nghi với mơi trường mới. Do đó, việc thích nghi với
một mơi trường sống năng động, phong phú, đồng thời cũng có nhiều thách

thức như Hà Nội là điều không dễ đối với mọi sinh viên theo học tại đây. Môi
trường sư phạm trong các trường đại học chính là yếu tố để sinh viên học tập và
có niềm tin, lý tưởng vào nghề nghiệp của mình. Ở nhà trường thì mối quan hệ
thầy, cơ, bạn bè cũng có ảnh hưởng lớn đến lý tưởng nghề nghiệp của sinh viên.
2.1.4. Các tổ chức có liên quan trực tiếp đến giáo dục lý tưởng nghề nghiệp


cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu là cơ quan cao nhất chỉ đạo mọi
hoạt động của một trường đại học, học viện. Thông qua việc ra các chủ trương
tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, kinh phí cho giáo dục, tổ chức tốt đời sống
vật chất, tinh thần cho sinh viên sẽ giúp cho mọi hoạt động của nhà trường ổn
định và phát triển Nếu Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu của trường đại
học nào quan tâm đến công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên thì
cơng tác này sẽ được quan tâm, đầu tư và đem lại hiệu quả tốt và ngược lại. Để
công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên các trường đại học đạt
hiệu quả cao cần phải có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng uỷ, Ban Giám
đốc, Ban Giám hiệu các trường đại học.
Phòng Cơng tác Chính trị học sinh – sinh viên
Phịng Cơng tác Chính trị học sinh – sinh viên ở các trường đại học có
chức năng tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám đốc thực hiện cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng, tổ chức quản lý sinh viên và thực hiện chế độ chính sách với
sinh viên; tổ chức thực hiện công tác giáo dục tư tưởng, rèn luyện sinh viên;
thực hiện các chế độ chính sách của sinh viên theo quy định hiện hành. Để hoàn
thành các chức năng đó phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: giáo dục tư
tưởng cho sinh viên, quản lý sinh viên, tổ chức phong trào sinh viên, thực hiện
chế độ, chính sách của sinh viên, tham gia c hội đồng khen thưởng, kỷ luật sinh
viên, phối hợp với các khoa, phòng tổ chức sinh viên thực hiện quy chế rèn
luyện, hoạt động phong trào, tham gia xây dựng quy chế rèn luyện, ký túc xá,

ngoại trú của sinh viên, phục vụ duy trì, bảo quản, giáo dục truyền thống qua
nhà truyền thống và thực hiện nhiệm vụ đột xuất do Ban Giám đốc giao cho.
Như vậy, Phịng Cơng tác Chính trị học sinh – sinh viên ở các trường đại học
chính là đầu mối để liên kết, phối hợp và tổ chức các hoạt động giáo dục chính
trị - tư tưởng cho sinh viên trong các trường đại học. Thông qua hoạt động của
phịng Cơng tác Chính trị học sinh – sinh viên nội dung giáo dục lý tưởng nghề


nghiệp sẽ được phổ biến rộng rãi đến các khoa, phịng, các tổ chức đồn thể và
tới từng sinh viên. Đây là một trong những tổ chức đóng vai trị đặc biệt quan
trọng trong công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên.
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Nội dung quan trọng được các Đồn trường chú trọng đó là giáo dục cho
sinh viên có lịng nhiệt tình, u nghề, u cơng việc sau khi tốt nghiệp ra
trường. Hầu hết sinh viên đều là đoàn viên, đây là một yếu tố vô cùng thuận lợi
cho công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp của các đoàn trường. Tận dụng
thuận lợi đó, trong năm học và các dịp nghỉ (nghỉ lễ, nghỉ hè…) các đoàn
trường đã tổ chức thực hiện lồng ghép việc giáo dục lý tưởng nghề nghiệp vào
trong các phong trào đoàn. Sinh viên vừa được tham gia hoạt động phong trào,
vừa được trau dồi thêm kiến thức, trải nghiệm thực tế. Đồng thời, các Đoàn
trường đã chủ động, tích cực trong việc liên kết với các tổ chức trong và ngoài
nước, tổ chức và thực hiện các buổi hướng nghiệp, tư vấn việc làm, triển lãm
việc làm, hội chợ việc làm… giúp cho sinh viên có điều kiện được tiếp cận với
các cơ hội việc làm và có nhiều định hướng sau khi tốt nghiệp ra trường. Điều
này đã tạo hiệu ứng tích cực trong sinh viên.
2.2. Thành tựu, hạn chế trong giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay
2.2.1. Thành tựu
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Ban giám hiệu các trường đại học ngày càng
quan tâm đến giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trong bối cảnh đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo hiện nay.
Đảng ủy, Ban Giám Đốc, Ban giám hiệu các trường đã chú trọng nâng
cao chất lượng công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên, đẩy mạnh
giáo dục giáo dục truyền thống nghề nghiệp; giáo dục đạo đức nghề nghiệp của
sinh viên; giáo dục lòng yêu nghề của sinh viên; việc nâng cao trình độ nghề
nghiệp và sự sáng tạo nghề nghiệp cũng như sự đổi mới không ngừng trong hoạt
động lao động nghề... Trong những năm qua, bên cạnh việc sắp xếp các môn


học giáo dục chuyên môn các nhà trường đã chỉ đạo các khoa, phòng, ban
thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập lồng ghép
giáo dục, định hướng lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên. Tạo điều kiện cho
sinh viên tham gia các chương trình tình nguyện, nhằm hướng sinh viên sống
gắn kết vì cộng đồng, chia sẻ với những khó khăn của nhân dân tại các nơi khó
khăn, khuyến khích tinh thần nhân ái, bao dung; giáo dục ý thức tực giác và có
tinh thần tình nguyện tham gia hoạt động trong các hoạt động các đội hình thanh
niên, sinh viên tình nguyện, sẵn sàng nhận các cơng việc khó khăn, gian khổ và
khơng nhất thiết phải có quyền lợi cho bản thân.
Lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW và Chỉ thị số 05-CT/TW
của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” thơng qua việc tổ chức cho sinh viên tiếp thu,
học tập các chuyên đề về “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hàng
năm và các tác phẩm của Bác; xây dựng văn bản cụ thể hóa thực hiện chương
trình, kế hoạch thiết thực và hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp
cho sinh viên. Các khoa, phòng, đồn thể trong các nhà trường ln tăng cường
tun truyền, giáo dục cho sinh viên với các hình thức phù hợp với từng đối
tượng, thông qua các hoạt động; tổ chức cuộc thi tìm hiểu truyền thống về
ngành nghề; tổ chức tiếp xúc, tọa đàm, thảo luận về định hướng nghề nghiệp,
chuẩn đầu ra, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế về công việc, việc làm cho sinh

viên qua những buổi sinh hoạt chính trị đầu năm, đầu khóa cho sinh viên; giáo
dục chính trị, giáo dục quốc phịng – an ninh, pháp luật.
Nội dung giáo dục khá toàn diện, phù hợp, gắn với đặc điểm nghề nghiệp
tương lai của sinh viên
Chủ thể giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên tại các trường đại
học trên địa bàn Hà Nội đã thực hiện tốt và đầy đủ các nội dung về giáo dục lý
tưởng nghề nghiệp cho sinh viên. Thông qua các nội dung như: giáo dục đạo
đức nghề nghiệp, giáo dục truyền thống nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề,


nâng cao trình độ và tính sáng tạo trong cơng việc… Giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho sinh viên cần phải coi trọng giáo dục sự tự giác, gương mẫu, thực
hiện lời nói đi đơi với việc làm.
Những vụ việc tiêu cực xảy ra trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục,
tài nguyên môi trường, xây dựng, kinh doanh… trong thời gian qua gây nhức
nhối dư luận, gióng lên hồi chng cảnh báo nguy cơ tha hóa về tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, những người đang
làm việc tại các ngành nghề khác nhau; đặt ra nhiều vấn đề về văn hóa ứng xử,
về mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng… Với sự
nhanh nhạy của mình, sinh viên hiện nay khơng gặp q nhiều khó khăn khi tiếp
cận với các thơng tin về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế… Vấn đề đặt ra
cho các chủ thể giáo dục lý tưởng nghề nghiệp là việc giải thích, chứng minh
cho sinh viên thấy được đó chỉ là những trường hợp “con sâu làm rầu nồi canh”,
và giáo dục, định hướng cho sinh viên không vấp phải những “vết xe đổ” khi tốt
nghiệp ra trường công tác và làm việc. Đồng thời qua kết quả này, chúng ta
cũng thấy những tín hiệu tích cực trong nhận thức của sinh viên. Việc sinh viên
quan tâm đến nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cũng cho thấy tự bản thân
sinh viên đã tự ý thức được những việc nên làm và không nên làm, làm việc và
cống hiến vì lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Đây cũng là kết quả đáng
ghi nhận của công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trên địa bàn

Hà Nội thời gian qua.
Phương pháp, hình thức giáo dục khá đa dạng, phong phú, được đổi mới
khá thường xuyên; phương tiện giáo dục được trang bị khá tốt và sử dụng hiệu
quả
Hình thức giáo dục phong phú trong giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho
sinh viên trong các trường đại học đã mang lại nhiều kết quả quan trọng. Để đạt
được những kết quả đó, cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu, Ban Giám đốc, phịng,
khó, đồn thể trong nhà trường đã có sự phối hợp đồng bộ trong q trình thực
hiện cơng tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên. Các hình thức giáo


dục ngày càng được đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả giáo dục, đặc biệt là các
hình thức giáo dục thông qua việc lồng ghép trong các hoạt động của đoàn thể,
sinh hoạt chuyên đề do nhà trường tổ chức… việc lồng ghép các nội dung giáo
dục lý tưởng nghề nghiệp vào các hoạt động của Đoàn thanh niên, hội sinh viên,
các câu lạc bộ… là hình thức phù hợp và thiết thực nhất trong việc truyền tải
các nội dung giáo dục lý tưởng nghề nghiệp. Qua đây cũng cho thấy, trong thời
gian qua, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tại các trường đại học đã hoạt động có
hiệu quả trong cơng tác giáo dục nói chung và giáo dục lý tưởng nghề nghiệp
cho sinh viên nói riêng. Việc đa dạng hóa các hoạt động phong trào, đổi mới về
nội dung và hình thức hoạt động đã tạo sự thích thú và đam mê của sinh viên
khi tham gia các hoạt động, đồng thời tạo sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức
của sinh viên về giáo dục lý tưởng nghề nghiệp.
2.2.2. Hạn chế
Các chủ thể giáo dục chưa thường xuyên quan tâm, kịp thời lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, triển khai công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
Đối với các cấp ủy Đảng các trường: việc quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo
công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên chưa thực sự sâu sát, chưa
kịp thời, chưa có những chủ trương, giải pháp thực sự hữu hiệu để phát hiện,
cũng như ngăn chặn tác động xấu của mặt trái của cơ chế thị trường đến một bộ

phận sinh viên trong rèn luyện, tu dưỡng nghề nghiệp. Do vậy, nó có ảnh hưởng
nhất định đến hiệu quả giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên.
Đối với Ban Giám hiệu, Ban Giám đốc các trường: việc thực hiện cũng
như việc tạo điều kiện, phối kết hợp giữa nhà trường với Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho
sinh viên còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ. Cho nên, việc triển khai các kế
hoạch hoạt động giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên đơi khi cịn chậm,
bị động, chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Đối với các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên: công tác giáo dục lý
tưởng nghề nghiệp cho sinh viên được các tổ chức này tự đánh giá là chưa sâu,


chưa đồng bộ, đôi khi mới dừng lại ở mức độ phong trào, hình thức, có lúc chưa
theo sát, chưa đáp ứng yêu cầu. Có một số hoạt động của Đồn Thanh niên, Hội
Sinh viên có triển khai, phát động nhưng thiếu sự kiểm tra, theo dõi, đánh giá
thường xuyên. Công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp chưa được đặt ngang
hàng với các cơng tác cịn lại của nhà trường. Nhà trường chưa nắm bắt sự cần
thiết và được nhu cầu cần được giáo dục lý tưởng nghề nghiệp của sinh viên.
Việc quá quan tâm một cách phiến diện đến công tác giáo dục chuyên môn,
khiến cho giáo dục lý tưởng nghề nghiệp bị coi nhẹ, chưa được quan tâm đúng
mức. Đòi hỏi trong thời gian tới, các nhà trường cần phải quan tâm hài hoà, cân
đối và đầu tư hơn nữa cho công tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh
viên.
Một số nội dung giáo dục còn trừu tượng, thiếu tính cụ thể, chưa thật sự
phù hợp với đặc điểm sinh viên từng ngành nghề, từng lĩnh vực công tác tương
lai.
Nội dung giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên mặc dù đã được
đổi mới, đã khá đa dạng, phong phú nhưng vẫn cịn mang tính trừu tượng, thiếu
cụ thể, chưa đi sâu vào từng đối tượng sinh viên. Xét về tổng thể, nội dung giáo
dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên đã đảm bảo tính cơ bản, tồn diện và

khoa học, khá phong phú, phù hợp cho mọi đối tượng sinh viên nói chung và đã
có những đổi mới nhất định. Nhưng xét riêng đối với từng đối tượng sinh viên
thì thấy rằng nội dung giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên cịn thiếu
tính chiều sâu, hiệu quả thấp. Trong nội dung giáo dục lý tưởng nghề nghiệp
cho sinh viên, ngoài việc giáo dục các giá trị đạo đức nghề nghiệp, lòng yêu
nghề, truyền thống nghề nghiệp, sự sáng tạo nghề nghiệp… có một phần rất
quan trọng là giáo dục đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa, nội dung này
chưa thực sự xem được xem trọng, tình trạng này diễn ra phổ biến và khơng có
sự quản lý chặt chẽ. Việc xem nhẹ, buông lỏng nội dung này dẫn đến hạn chế rất
lớn đó là một bộ phận sinh viên chạy theo lợi ích kinh tế của bản thân, khơng
quan tâm tới lợi ích tập thể, ý thức chính trị không cao. Đây là kẽ hở để các thế


lực thù địch lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc lớp sinh viên này.
Phương pháp, hình thức giáo dục tuy đã cố gắng đa dạng hóa nhưng
chưa đáp ứng nhu cầu đổi mới của sinh viên, phương tiện giáo dục được sử
dụng chưa phát huy tối đa hiệu quả
Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên của các trường đại học thời
gian qua đã vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức, phương tiện trong
quá trình giáo dục. Tuy nhiên, do những nguyên nhân phát sinh trong quá trình
thực hiện một số hình thức phương pháp, phương tiện vẫn chưa được sử dụng
hiệu quả. Việc vận dụng và sử dụng các hình thức, phương pháp, phương tiện
trong giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên còn nhiều hạn chế. Trong quá
trình thực hiện do những lý do khác nhau và do trình độ của chủ thể cịn nhiều
hạn chế nên chưa khai thác hết công dụng của các phương tiện vào công tác
giáo dục. Đồng thời điều này chứng tỏ, hình thức, phương pháp, phương tiện
chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Mặt khác, nguồn lực đầu tư cho công
tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trong thời gian qua chưa tương
xứng với yêu cầu trong tình hình mới, cả về nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính và nguồn lực con người. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nguồn vốn đầu tư

cịn hạn chế, chế độ chính sách dành cho đội ngũ cán bộ cịn thấp. Điều đó địi
hỏi các cấp ủy Đảng, Ban giám hiệu, Ban giám đốc cần phải chú trọng hơn
trong việc phân bổ, bố trí nguồn lực để có thể đạt hiệu quả cao nhất trong cơng
tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên.
Nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng nghề nghiệp còn chậm đổi mới,
chưa đáp ứng được nhu cầu về nội dung thông tin phong phú và chất lượng
thông tin ngày càng cao của sinh viên
Do sự phát triển của kinh tế - xã hội, đời sống của sinh viên các trường
đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng được nâng cao, chính vì vậy
nhu cầu thơng tin ngày càng phong phú. Chưa bao giờ các phương tiện nghe,
nhìn ở thành phố Hà Nội lại phát triển như hiện nay. Đây chính là yếu tố làm
cho yêu cầu của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố ngày càng


cao trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin. Nếu như trước đây, tiếp nhận thông
tin chủ yếu qua đài phát thanh và hội họp thì hiện nay cịn được tiến hành qua
nhiều kênh khác nhau như: truyền hình, mạng internet, sách, báo, tạp chí, tranh
ảnh, điện thoại di động, video. Tình hình trên địi hỏi nội dung giáo dục phải
phong phú hơn, hình thức phải đa dạng hơn, phương pháp giáo dục phải hấp
dẫn hơn, phương tiện giáo dục phải hiện đại hơn.
Thực tế là như vậy nhưng hiện nay, ở các trường đại học trên địa bàn
thành phố Hà Nội, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp còn chậm đổi mới, phương tiện tuyên truyền thiếu sự đầu tư cần thiết.
Các hoạt động giáo dục lý tưởng nghề nghiệp vẫn chủ yếu được tiến hành qua
các hình thức, phương pháp, phương tiện truyền thống, tiến hành theo thời điểm
khi phát động phong trào mới được tiến hành rầm rộ. Nội dung giáo dục chủ
yếu là cịn khơ khan, hạn chế. Lãnh đạo các trường đại học chưa có một kế
hoạch giáo dục cụ thể về lý tưởng nghề nghiệp. Các nội dung tuyên truyền chưa
được lồng ghép nhiều vào hoạt động của sinh viên; nếu có chỉ là các đợt phát
động, các phong trào nhân sự kiện nào đó. Nội dung giáo dục cịn chưa có sự

phân tích sâu sắc hoặc chỉ dẫn cụ thể; Phương pháp giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp chưa có sự phối hợp với các phương pháp khác để tạo ra một hiệu ứng
tổng hợp đến đối tượng; Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức hội nhóm
trong cơng tác giáo dục lý tưởng nghề nghiệp. Kinh phí đầu tư cho phương tiện
giáo dục còn khá khiêm tốn chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng cao
của sinh viên. Hoạt động của cán bộ, giảng viên cịn hạn chế. Vì tất cả những lý
do trên, muốn nâng cao chất lượng giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên
các trường đại học ở thành phố Hà Nội thì đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp trang bị đủ và hiện đại hoá, phương tiện giáo dục là một tất yếu khách
quan.


×