Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.67 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
QUAN HỆ NHÂN SỰ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Ngành : LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn

: PGS.TS BÀNH QUỐC TUẤN

Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THU SƯƠNG

MSSV: 1411270886

Lớp: 14DLK07

Tp.Hồ Chí Minh, 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cơ trường Đại học Cơng nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện học tập, truyền đạt những kiến thức hữu ích và quý
báu trong suốt thời gian em học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, xin tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến thầy Bành Quốc Tuấn đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá


trình viết khóa luận tốt nghiệp này.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ Luật dân sự 2015” là cơng trình nghiên cứu được
thu thập từ nguồn đáng tin cậy trên các sách báo khoa học chuyên ngành (có trích
dẫn đầy đủ và theo đúng quy định). Tơi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình
nghiên cứu của riêng mình!

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
2018
Sinh viên thực hiện
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Thu Sương


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3
3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................... 3
4. Kết cấu của khóa luận .............................................................................................................. 3
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ DÂN
SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ............................................................................................. 4
1.1 Khái niệm và đặc điểm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi

4


1.1.1 Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi ........................................4
1.1.2 Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo Bộ Luật dân sự 2015 ..............8
1.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi

18

1.2.1 Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi ....18
1.2.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài .....19
1.3 Quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi

28

1.3.1 Quy phạm thực chất ..................................................................................29
1.3.2 Quy phạm xung đột....................................................................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 2 ......................................................................................37
XÁC ĐỊNH LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ DÂN SỰ CĨ YẾU TỐ NƯỚC
NGỒI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH .......................................................................37
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống quy phạm xung đột trong
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Việt Nam

37

2.1.1 Các loại quy phạm xung đột được xây dựng trong Bộ Luật dân sự 2015 39
2.1.2 Phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột trong Bộ Luật dân sự 2015 .40
2.2 Vấn đề xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
theo pháp luật hiện hành

41

2.2.1 Theo Bộ Luật dân sự 2015 ........................................................................41

2.2.2 Theo các văn bản pháp luật khác có liên quan .........................................58
2.3 Một số vấn đề kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi

62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..........................................................................................................65
KẾT LUẬN ...................................................................................................................................66


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................68


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với xu hướng tồn cầu hóa, quan hệ quốc tế đã trở thành nhu cầu nội
tại và được mở rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Cho tới nay, khơng ai có thể
phủ nhận một thực tế là trong sự phát triển, tiến bộ của một quốc gia luôn có cả
thành quả chung của nhân loại. Nói cách khác, bất kỳ một quốc gia nào muốn phát
triển phải biết kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh của cộng đồng. Ở Việt
Nam, khi bắt đầu đổi mới nền kinh tế đất nước, thực hiện chính sách mở cửa năm
1986 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng,
phát triển mạnh mẽ và có vai trị thiết thực trong đời sống, các hoạt động thương
mại quốc tế, hoạt động đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng và
chiếm một vị trí quan trọng.
Trước tình hình diễn biến khá phức tạp của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật
phải đáp ứng kịp thời để điều chỉnh các quan hệ phát sinh đó. Một trong những
nguồn luật được coi là quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam điều
chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là Bộ Luật dân sự Việt Nam.
Nếu trước đây, Tịa án Việt Nam ít thụ lý các vụ việc dân sự có yếu tố nước

ngồi, thì nay vấn đề đó trở nên thường xuyên. Có thể nói rằng, đời sống quốc tế
như thế nào thì tư pháp quốc tế sẽ tương tự bởi sự ra đời và phát triển của tư pháp
quốc tế phụ thuộc vào sự phát triển của đời sống quốc tế (bao gồm các yếu tố như
q trình quốc tế hóa, sự di cư, tiến bộ của khoa học kĩ thuật). Thực tế là khi phát
sinh ngày càng nhiều các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, tất nhiên sẽ kéo theo
những hậu quả làm phát sinh các vụ tranh chấp về dân sự có yếu tố nước ngồi.
Càng nhiều những vụ việc có liên quan đến yếu tố nước ngồi, thì sẽ phát sinh
nhiều bất cập. Do đó, việc giải quyết những vấn đề phát sinh lại gặp nhiều khó khăn
do cùng một vấn đề nhưng hai hay nhiều hệ thống pháp luật quốc gia khác có thể
cùng được áp dụng.
Từ đó những vấn đề trên địi hỏi phải được giải quyết kịp thời và thỏa đáng, nếu
không sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, mặt khác cịn liên quan đến vấn đề lãnh sự,
ngoại giao và nền chính trị của quốc gia. Tuy nhiên, việc giải quyết các vấn đề trên
không đơn giản do liên quan ít nhất đến hai quốc gia trong một quan hệ, đó là
nguyên nhân dẫn đến các vấn đề về xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét
xử. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của kết quả xét xử và khiến cho các
1


chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này phải chịu nhiều thiệt thòi như trong các
vấn đề chọn luật áp dụng.
Bộ Luật dân sự 2015 được thông qua tại kì họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, có
hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017 đã thay thế, sửa đổi, bổ sung các vấn đề lý luận,
cập nhật nhiều quy định mới so với Bộ Luật dân sự 2005, góp phần triển khai thi
hành các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện tinh thần của Hiến
pháp năm 2013, các cam kết quốc tế của Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong lĩnh vực dân sự,…góp phần
hồn thiện pháp luật tư pháp Việt Nam nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự nói
chung, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng.

Qua đó, khẳng định vị trí, vai trị của Bộ Luật dân sự thực sự trở thành luật
chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội này
được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm
giữa các bên tham gia, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật của
nước ta.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi theo Bộ Luật dân sự 2015” là hết sức thiết thực nhằm góp
phần hiểu rõ hơn về pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi ở
nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, nắm bắt được tình hình vận động và phát triển của
các quan hệ này trong bối cảnh xã hội đang hội nhập hiện nay, từ đó tìm ra giải
pháp cụ thể, từng bước khắc phục những khó khăn và phát huy những mặt tích cực
nhằm hồn thiện hệ thống pháp luật dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng và ngành
luật Tư pháp quốc tế nói chung, để góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc ổn
định các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế và quá
trình hội nhập nền kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trước đây, đã có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề pháp lý điều
chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp luật
điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các quan hệ về sở hữu, quan hệ
thừa kế,…Và nay, Bộ Luật dân sự 2015 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển
hoàn toàn mới của nền tư pháp Việt Nam, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn xây
dựng đất nước, tiếp tục đặt vấn đề nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài trên cơ sở những nội dung cơ bản quy định tại Phần thứ
năm Bộ Luật dân sự 2015 về “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi theo Bộ Luật dân sự 2015” nhằm góp phần tích lũy, nâng cao kiến thức
2


và đây là vấn đề thật sự cần thiết đối với bản thân, đồng thời mong muốn nhận được
góp ý của quý thầy cô để rút kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu sau này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Trong khn khổ khóa luận này tập trung nghiên cứu
khía cạnh tại Phần thứ năm về “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi” theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đi sâu vào những vấn đề lý luận chung (như khái
niệm, đặc điểm của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi và
những quy định cụ thể về vấn đề xác định luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi tại Phần thứ Năm Bộ Luật dân sự 2015.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, khóa luận sử dụng tổng hợp một số phương pháp
sau: phương pháp phân tích, so sánh, , kết hợp với phương pháp liệt kê, tổng hợp.
4. Kết cấu của khóa luận
Nội dung khóa luận bao gồm 2 Chương:
Chương 1: Lý luận chung về pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài.
Chương 2: Xác định luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo pháp
luật hiện hành.
Đề tài là một cơng trình nghiên cứu nghiêm túc của bản thân. Tuy nhiên, đây là
một đề tài rộng, kiến thức bản thân còn hạn chế, việc tiếp cận thực tế cịn nhiều khó
khăn nên khơng tránh khỏi những sai sót nhất định. Em xin chân thành cảm ơn và
mong muốn nhận được sự góp ý của q thầy cơ để rút kinh nghiệm trong công tác
nghiên cứu sau này.

3


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ DÂN SỰ CĨ
YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
1.1 Khái niệm và đặc điểm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
1.1.1 Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Về phạm vi của “quan hệ dân sự”
Quan hệ dân sự là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, nhưng quan hệ dân sự
bao gồm những loại quan hệ nào thì vẫn cịn là vấn đề gây tranh cãi đối với các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước. Bởi vấn đề này xuất phát từ sự khác nhau về tư
tưởng, quan điểm của các quốc gia với các hệ thống pháp luật khác nhau.
Có thể hiểu, “luật tư” (tư pháp - droit privé) liên quan đến quan hệ giữa các cá
nhân, hoặc cá nhân và nhà nước trong quan hệ bình đẳng, cịn luật cơng (cơng pháp
- droit public) thì liên quan đến quan hệ giữa nhà nước và dân chúng nói chung.
Luật cơng là tất cả những gì liên quan đến địa vị của Nhà nước, luật tư là những gì
phục vụ lợi ích của những người cụ thể.1 Luật tư bao gồm các lĩnh vực như dân sự,
thương mại, kinh tế, hơn nhân gia đình, lao động, hàng hải, doanh nghiệp. Các quan
hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật tư đều là những quan hệ hình thành trên
nguyên tắc bình đẳng, tự do thỏa thuận giữa các chủ thể và quyền tự do ý chí hay
quyền định đoạt là một trong những nguyên tắc được ưu tiên hàng đầu.
Đối với các nước có sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư (như
Pháp, Italia, Cộng hòa Liên bang Đức, các nước theo hệ thống Civil law) thì luật tư
gồm luật dân sự, thương mại, lao động,…
Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở tư tưởng chủ nghĩa
Mác-Lênin, xây dựng nền kinh tế tập trung, nên vấn đề phân biệt giữa lợi ích cơng
và lợi ích tư dường như không được đặt ra. Sự sụp đổ Liên Xô và các nước Đông
Âu, cùng với việc tiếp nhận nền kinh tế thị trường thì các quốc gia này cũng tiếp
nhận cả cái “tư” trong kinh tế và pháp luật.2 Theo đó, ở nước ta, Đảng và Nhà nước
cũng đã có những quan điểm mới về vấn đề trên. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt

1

Võ Khánh Vinh: Xây dựng hệ thống pháp luật có hệ thống, đồng bộ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn
phịng Quốc Hội, 2004, số 10, tr. 32.
2


Trường Đại học Luật TP. HCM: Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia
Việt Nam, 2014, tr. 77.

4


Nam vẫn chưa có sự phân định ranh giới một cách rõ ràng giữa luật công và luật tư
như nhiều nước trên thế giới.
Trên thực tiễn cũng như quan điểm, có thể định nghĩa quan hệ mang tính chất
dân sự một cách khái quát theo quan điểm của đông đảo các nhà nghiên cứu khoa
học pháp lý Việt Nam, quan hệ mang tính chất dân sự là những quan hệ phát sinh
trong đời sống xã hội bao gồm các quan hệ về tài sản, quyền đối với tài sản, nhân
thân và các quan hệ khác (phát sinh trong đời sống, trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng…) mà ở đó các chủ thể của những quan hệ đó có địa vị bình đẳng
và đồng thời được tự do thỏa thuận với nhau. Điều 1 Bộ Luật dân sự 2015 quy định:
“Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân
trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài
sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”. Căn cứ vào
nhóm quan hệ mà pháp luật điều chỉnh, quan hệ pháp luật dân sự được phân thành
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Với quy định này thì quan hệ dân sự được
hiểu là quan hệ dân sự theo nghĩa hẹp.
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa chủ thể này với chủ thể khác thông qua tài sản
dưới dạng tư liệu sản xuất, tiêu dùng hoặc dịch vụ nhằm tạo ra một tài sản nhất
định, là hình thức biểu hiện quan hệ về kinh tế, chuyển dịch tài sản từ chủ thể này
sang chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay thừa kế, tặng, cho tài
sản…).
Quan hệ nhân thân là những quan hệ liên quan đến giá trị tinh thần, khơng
mang tính chất kinh tế và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác
(quyền đứng tên tác giả các tác phẩm, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín…).

Ở Việt Nam, cùng với quan hệ lao động, quan hệ hơn nhân và gia đình, quan hệ
kinh tế, thương mại thì quan hệ dân sự là một bộ phận chủ chốt điều chỉnh những
quan hệ phổ biến nhất của đời sống.
Về việc xác định “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự
Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 25-11-2006 Quy định chi tiết thi hành
các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định
khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi gồm chủ thể là các quan hệ dân sự,
hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Đồng thời, đối tượng
điều chỉnh của tư pháp quốc tế còn bao gồm cả quan hệ thương mại, lao động, hôn
5


nhân gia đình…Như vậy, tổng hợp các quan hệ về dân sự, tố tụng dân sự, hơn nhân
gia đình, kinh tế, thương mại, lao động,…được xếp vào lĩnh vực “tư” sẽ được gọi là
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Thuật ngữ này đã được nhiều tác giả tại Việt Nam
sử dụng.3
Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực “tư”, giữa những chủ thể dân sự với nhau và khơng có yếu tố quyền lực
nhà nước xen vào (như các quan hệ pháp luật về quan hệ sở hữu, các quan hệ pháp
luật về hợp đồng, các quan hệ pháp luật về hơn nhân và gia đình,…).4
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng là các
quan hệ mà ở đó các chủ thể bình đẳng với nhau trong việc thiết lập, kết thúc quan
hệ, tự định đoạt khi có tranh chấp phát sinh và trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Các quan hệ này khác với quan hệ thuộc lĩnh vực hành chính và hình sự.5
Tuy nhiên, dù là chủ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng thuộc lĩnh vực “tư”
nhưng vẫn không hẵn tất cả đều là quan hệ mang tính chất dân sự. Ví dụ: Nhiều
người nước ngồi đến Việt Nam tiến hành lừa đảo, trộm cắp gây nên nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Đây là quan hệ giữa các chủ thể “tư” nhưng lại thuộc phạm vi điều
chỉnh của “luật cơng” tức là pháp luật hình sự.
Các chủ thể “công” như Nhà nước, tổ chức quốc tế nhưng đôi khi lại là chủ thể

của quan hệ dân sự. Ví dụ: Sứ quán nước A thuê một số căn hộ của cơng dân Việt
Nam để cho nhân viên mình sử dụng. Hợp đồng thuê này sẽ là hợp đồng dân sự nên
quan hệ này mang tính chất dân sự.
Và cũng không phải quan hệ pháp luật dân sự nào có chủ thể nước ngồi tham
gia đều là quan hệ có yếu tố nước ngồi. Ví dụ: A và B (đều là cơng dân Việt Nam)
có tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản, tuy nhiên vì bận cơng việc nên A đã ủy
quyền cho C (luật sư quốc tịch Canađa) làm đại diện. C tham gia không phải với tư
cách là một bên chủ thể mà chỉ là người đại diện theo ủy quyền. Như vậy, quan hệ

3

Đoàn Năng (2001): Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr. 911; Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội, 2017, tr. 12; Lê
Thị Nam Giang (2010), Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP. HCM, tr. 17.
4

Bành Quốc Tuấn (2017): Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, TP. HCM,
tr.8.
5

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Ngọc Lâm: Về việc xác định các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngồi trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 3/2004, số 191, tr. 74-75.

6


này mặc dù có xuất hiện C là cơng dân nước ngồi nhưng vẫn khơng phải là quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.6
Thực tế trong đời sống phát triển của xã hội, ngoài những mối quan hệ phát sinh
trong nội bộ quốc gia thì tồn tại và phát sinh song song đó là các quan hệ vượt ra
khỏi nội bộ quốc gia. Các quan hệ này đòi hỏi phải có pháp luật điều chỉnh. Đây là

các quan hệ phát sinh giữa công dân nước này trên lãnh thổ nước kia, giữa những
người thuộc quốc tịch khác nhau liên quan đến việc giao kết, mua bán, thừa kế,…
Quan hệ dân sự được xem là có “yếu tố nước ngồi” khi xuất hiện một trong ba
dấu hiệu:
Chủ thể tham gia quan hệ: Có chủ thể nước ngồi tham gia (điều này có nghĩa
là khơng phụ thuộc vào tài sản đối tượng của quan hệ hoặc các sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt xảy ra ở đâu). Ví dụ: Quan hệ hơn nhân giữa cơng dân
Việt Nam và người mang quốc tịch Nhật; Công dân Mỹ nhận con nuôi là trẻ em
Việt Nam.
Đối tượng của quan hệ: Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi (điều
này khơng phụ thuộc vào việc chủ thể là ai, ở đâu, hoặc các sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt xảy ra ở đâu). Ví dụ: Di sản thừa kế ở nước ngoài; Cá
nhân Việt Nam và tổ chức Việt Nam có quan hệ hợp đồng mua bán căn hộ cao cấp
xảy ra tranh chấp tại Nga trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Sự kiện pháp lý: Các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy
ra ở nước ngồi (điều này cũng không phụ thuộc vào chủ thể là ai, nơi cư trú, hay
tài sản đó ở đâu). Ví dụ: Việc hai doanh nghiệp Việt Nam kí kết hợp đồng mua bán
tài sản ở nước ngoài nhưng hợp đồng thực hiện tại Việt Nam; Tòa án Việt Nam giải
quyết vụ thừa kế theo di chúc được xác lập ở nước ngồi.
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi cũng là quan hệ dân sự nhưng khác nhau
cơ bản là khi phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thì ln dẫn đến hiện
tượng xung đột pháp luật. Nghĩa là đối với quan hệ thông thường không thuộc dấu
hiệu nào trong ba dấu hiệu nêu trên thì chỉ cần một hệ thống luật điều chỉnh là đủ.
Chẳng hạn như đối với các quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau phát sinh trên
lãnh thổ Việt Nam thì chỉ cần áp dụng pháp luật Việt Nam điều chỉnh là đủ. Ngược

6

Bành Quốc Tuấn (2017): Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, TP. HCM,
tr. 10.


7


lại, trường hợp xác định quan hệ đó là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thì vấn
đề đặt ra là áp dụng pháp luật nước nào để điều chỉnh quan hệ phát sinh, việc lựa
chọn pháp luật áp dụng phải tương ứng để giải quyết vấn đề trên.
1.1.2 Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo Bộ Luật dân sự 2015
Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, “yếu tố nước ngoài” được quy định cụ thể và
đầy đủ nhất là Bộ Luật dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Khoản 2 Điều
663 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về phạm vi xác định quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các quan hệ sau đây:
“Có ít nhất một trong các bên chủ thể tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài”;
Quy định này bắt buộc là cá nhân, tổ chức nước ngoài rất rõ ràng và cụ thể, các
bên đều là cá nhân, các bên đều là pháp nhân, hoặc vừa là pháp nhân vừa là cá nhân.
Nghĩa là tối thiểu phải có một bên là cá nhân hay pháp nhân nước ngồi.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, cá nhân nước ngoài được hiểu là “người nước
ngoài”. Người nước ngoài là người mang quốc tịch của nước khác với nước mà họ
hiện đang sinh sống. Điều 3 khoản 2 Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006
Quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ Luật dân sự về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi quy định: “Người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt
Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch”. Theo
khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 thì: “Người nước ngồi cư trú ở Việt
Nam là cơng dân nước ngồi và người khơng quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở
Việt Nam”.
Như vậy, người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và của nhiều
quốc gia khác là dựa vào dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa, bao gồm ba nhóm sau:
Người khơng có quốc tịch; Người mang nhiều quốc tịch nhưng khơng có quốc tịch
Việt Nam; Người mang quốc tịch của nước khác.

Khái niệm “người nước ngoài” hiểu theo nghĩa rộng trong một số văn bản pháp
quy không dùng để chỉ cá nhân nước ngồi mà cịn để chỉ pháp nhân nước ngồi,
đơi khi cịn dùng để chỉ cả quốc gia nước ngồi. Thuật ngữ người nước ngoài
thường được sử dụng theo nghĩa dùng để chỉ cơng dân nước ngồi hay cá nhân

8


nước ngồi hoặc thậm chí cả người khơng quốc tịch. Các cách hiểu như trên chỉ
mang tính quy ước.7
Theo quy chế pháp lý dân sự, người nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ
thống pháp luật là pháp luật nước mà họ là công dân và pháp luật nước sở tại; đồng
thời luôn được Nhà nước mà họ mang quốc tịch bảo hộ về mặt ngoại giao khi quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Năng lực chủ thể của người nước ngoài
Pháp luật mỗi nước khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về xác định
năng lực chủ thể và đồng thời, quốc gia phải tôn trọng những quy định này. Khi
cơng dân có năng lực chủ thể theo hệ thống pháp luật quốc gia mình thì năng lực
chủ thể đó cũng phải được các quốc khác khác thừa nhận và tôn trọng.
Theo thực tiễn hệ thống pháp luật hiện nay, các nước có cách hiểu khác nhau về
khái niệm năng lực pháp luật và năng lực hành vi dẫn đến quy định pháp luật cũng
khác nhau. Theo pháp luật của các nước trong hệ thống Common Law thì năng lực
chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi, điển hình là Hoa Kỳ,
Ôxtrâylia, Canađa, Ấn Độ,…Theo pháp luật của các nước trong hệ thống Civil law
tiêu biểu là Pháp thì cả hai khái niệm trên được hiểu là “năng lực pháp luật nói
chung” và năng lực thực hiện nghĩa vụ. Pháp luật của Bỉ, Bungari, Đức,…cũng quy
định tương tự. Cách hiểu ngày nay khơng cịn phổ biến và nhiều nước theo hệ thống
Civil Law cũng đã quy định trong pháp luật quốc gia năng lực chủ thể bao gồm
năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ví dụ: Liên Bang Nga và Việt Nam.8
Khi xét đến một chủ thể nhất định, đầu tiên phải xét đến năng lực pháp luật dân

sự và năng lực hành vi dân sự:
Năng lực pháp luật dân sự của người nước ngồi
Trong khoa học pháp lí Việt Nam hiện nay, năng lực pháp luật dân sự được
hiểu là khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân sự và gánh vác các nghĩa
vụ dân sự.9 Khoản 1 Điều 673 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Năng lực pháp luật

7

Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM, Bành Quốc Tuấn: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 97.
8

Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM, Bành Quốc Tuấn: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 97.
9

Khoản 1 Điều 16 Bộ Luật dân sự 2015.

9


dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch”.
Điều này quy định cá nhân là công dân của quốc gia nào thì năng lực pháp luật sẽ
được xác định theo pháp luật của quốc gia đó. Đây là quy định cơ bản và được áp
dụng phổ biến trong Tư pháp quốc tế của nhiều nước trên thế giới. Quy định này
đưa ra quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người
nước ngồi đó mang quốc tịch.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 673 Bộ Luật dân sự 2015 còn xác định năng lực pháp
luật của người nước ngồi “Người nước ngồi tại Việt Nam có năng lực pháp luật
dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định

khác”. Pháp luật nước ta áp dụng nguyên tắc đãi ngộ như cơng dân Việt Nam cho
người nước ngồi khi xác định năng lực pháp luật dân sự. Việc áp dụng này đương
nhiên còn tùy vào những điều kiện nhất định.
Chế độ đãi ngộ công dân (National Treatment): Nội dung của chế độ này thể
hiện người nước ngoài tại một nước sở tại được hưởng các quyền cũng như thực
hiện các nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng
trong tương lai (trừ những ngoại lệ theo quy định của pháp luật trong các trường
hợp cụ thể). Chế độ đãi ngộ này được quy định trước hết trong pháp luật quốc gia,
ngồi ra cịn quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương, nhất
là các hiệp định Tương trợ tư pháp, các công ước quốc tế về thương mại, hàng
hải…Nội dung cơ bản các công ước này đều lấy nguyên tắc đãi ngộ như công dân
làm nền tảng bảo hộ trên cơ sở “có đi có lại”.10
So với cơng dân Việt Nam thì năng lực pháp luật của người nước ngồi theo
pháp luật Việt Nam sẽ bị hạn chế một số quyền như quyền đi lại, cư trú, quyền hành
nghề,… Đồng thời, khơng phải trong mọi trường hợp, người nước ngồi đều có
năng lực pháp luật dân sự như cơng dân Việt Nam. Chẳng hạn như quyền được
phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội, công an dành riêng cho công
dân Việt Nam (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Quy định trên cho thấy quan điểm
tôn trọng pháp luật nước mà người nước ngoài mang quốc tịch. Trường hợp khi ở
Việt Nam, người nước ngoài rơi vào hoàn cảnh pháp lý nào đó mà quốc tịch của họ
khơng được xác định một cách rõ ràng hoặc khơng cịn quốc tịch, còn quốc tịch
nhưng năng lực pháp lý theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch lại ở
tình trạng thấp hơn hoặc bị hạn chế so với năng lực pháp lý của công dân Việt Nam,

10

Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM, Bành Quốc Tuấn: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 104.

10



thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép người nước ngồi đó được hưởng quy chế
pháp lý như cơng dân Việt Nam.
Ví dụ: Tịa án Việt Nam giải quyết tranh chấp về hợp đồng giữa cá nhân là công
dân Việt Nam và công dân Hoa Kỳ (đang cư trú tại Việt Nam). Trường hợp này, khi
xem xét năng lực pháp luật của cơng dân Hoa Kỳ, ngồi căn cứ vào pháp luật Hoa
Kỳ (luật của nước mà họ mang quốc tịch), thì theo pháp luật Việt Nam, cơng dân
Hoa Kỳ này cịn có năng lực pháp luật như cơng dân Việt Nam.
Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài
Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài ở các nước được xác định theo
những nguyên tắc khác nhau. Các nước áp dụng Luật quốc tịch cho quy chế nhân
thân thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài mang quốc tịch để xác
định năng lực hành vi dân sự của người nước ngồi, cịn các nước áp dụng Luật nơi
cư trú cho quy chế nhân thân thì sẽ áp dụng pháp luật nơi người nước ngoài cư trú
để xác định năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài.11
Tại Việt Nam, Điều 19 Bộ Luật dân sự 2015 “Năng lực hành vi dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Khoản 1 Điều 674 Bộ Luật dân sự 2015 quy định “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có
quốc tịch trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này”. Vậy, người có khả năng
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự sẽ do pháp luật
của nước mà họ mang quốc tịch quy định. Quy định này vừa đảm bảo tôn trọng chủ
quyền, vừa thuận tiện cho các giao dịch dân sự của người nước ngoài khi xác lập,
thực hiện tại Việt Nam. Từ sự hợp lý đó mà việc xác định năng lực hành vi của
người nước ngoài theo “luật quốc tịch” cũng là nguyên tắc được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng.12
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 674 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp
người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực
hành vi dân sự của người nước ngồi đó được xác định theo pháp luật Việt Nam”.

Như vậy, với quy định này sẽ điều chỉnh, giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các
quan hệ phát sinh từ các giao dịch dân sự mà người nước ngoài xác lập, thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam.
11

Lê Thị Nam Giang (2010), Tư Pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM, tr. 75.

12

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội 2017, tr. 113.

11


Theo quy định tại điều này, khi người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự ở Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của người nước ngồi sẽ
khơng được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Đây là
trường hợp duy nhất không điều chỉnh theo pháp luật của nước mà người đó có
quốc tịch.
Ngồi các quy định trên, trong các Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý mà
Việt Nam kí kết với các nước cũng có quy định cụ thể. Chẳng hạn: khoản 1 Điều 19
Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Năng lực hành vi của
cá nhân được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà người đó là công dân”.
Khoản 1 Điều 17 Hiệp định Tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy
định “Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự sẽ tuân theo pháp luật của
Nước ký kết mà cá nhân đó là công dân”. Như vậy, trong Hiệp định tương trợ Tư
pháp Việt Nam kí kết với các nước, cụ thể, năng lực hành vi dân sự của người nước
ngoài được xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người đó là cơng dân.

Trường hợp khi người nước ngồi thực hiện các giao kèo nhỏ hoặc giao dịch dân sự
hằng ngày nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thì năng lực hành vi dân sự xác định
tuân theo pháp luật của nước ký kết nơi thực hiện các giao dịch dân sự đó.13
Năng lực chủ thể đối với trường hợp người không quốc tịch và người nhiều
quốc tịch
Người không quốc tịch là người khơng có quốc tịch của quốc gia nào nguyên do
có thể là do họ bị tước hoặc xin thôi quốc tịch để nhập quốc tịch của một nước khác
nhưng vẫn chưa có quốc tịch của nước đó. Tình trạng này làm cho khả năng tham
gia các quan hệ xã hội của họ trở nên rất hạn chế.14
Người hai hay nhiều quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng lúc
mang hai hay nhiều quốc tịch của nhiều quốc gia khác nhau. Đây là nguyên nhân
gây khó khăn trong việc các nước thực hiện quyền và nghĩa vụ, đồng thời, người
nhiều quốc tịch cũng khơng có khả năng thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của họ
đối với các nước mà họ mang quốc tịch.
13

Khoản 1 Điều 21, Hiệp định Tương trợ tư pháp dân sự và hình sự giữa nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa Ba Lan; khoản 2 Điều 17 Hiệp định Tương trợ tư pháp dân sự và hình sự giữa
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
14

Trường Đại học Luật TP. HCM, Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia
Việt Nam 2014, tr. 113.

12


Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có
quốc tịch thì:
Đối với cá nhân có nhiều quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước

nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Bộ Luật dân sự 2015 đã bổ sung vào nguyên tắc này yếu tố “vào thời điểm phát sinh
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi” đã thể hiện được sự gắn kết giữa mối quan
hệ dân sự với nơi cư trú của người không quốc tịch và sẽ dễ dàng hơn trong việc
chọn luật áp dụng khi họ thay đổi nhiều nơi cư trú.
Đối với cá nhân khơng có quốc tịch thì “pháp luật áp dụng là pháp luật của
nước nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào
thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thì pháp luật áp dụng là
pháp luật của nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó nhất”. Như vậy thì pháp
luật của nước nơi cá nhân cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi được áp dụng đối với cá nhân khơng có quốc tịch. Trường hợp có nhiều
nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có
quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất.
Đây là nội dung được sửa đổi so với Bộ Luật dân sự 2005. Cụ thể, Bộ Luật dân
sự 2005 tại khoản 1 Điều 760 quy định khi một người khơng có nơi cư trú thì sẽ “áp
dụng pháp luật Việt Nam”, cịn Điều 672 Bộ Luật dân sự 2015 quy định nếu không
xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi thì sẽ áp dụng pháp luật nước nơi có “mối liên hệ gắn bó nhất”. Mối liên hệ
này có thể hiểu là nơi người đó có quan hệ gia đình, tài sản, thậm chí là nơi làm việc
thường xun của người đó.15
Nhìn chung, khái niệm “mối liên hệ gắn bó nhất” hay những khái niệm tương tự
còn “mơ hồ” và chưa chỉ ra được chính xác một hệ thống pháp luật cụ thể sẽ được
áp dụng. Vì vậy, “mối liên hệ gắn bó nhất” nên được hiểu là một học thuyết hay
một cách tiếp cận hơn là một hệ thuộc pháp luật trong quy phạm xung đột.16

15

Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học - Những điểm mới của Bộ Luật dân sự năm 2015 (sách chuyên khảo, xuất

bản lần thứ 2, có bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, 2016, tr. 606.
16

Nguyễn Thanh Tú, Hồng Ngọc Bích: Mối liên hệ gắn bó nhất trong xác định pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2016, số 3 (335), tr. 42-43.

13


Pháp luật của nước được coi là gắn bó nhất được xác định theo từng trường
hợp, hoàn cảnh, từng loại quan hệ nhất định. Ví dụ: có thể là nơi tồn tại bất động
sản trong quan hệ sở hữu, nơi kí kết hợp đồng trong quan hệ hợp đồng. 17 Để đảm
bảo tính dự đốn trước, tránh những kẻ hở trong Tư pháp quốc tế, quốc gia có mối
liên hệ gắn bó nhất cần được xác định từ trước, mang tính phân loại theo từng nhóm
quan hệ pháp luật liên quan hoặc sử dụng phương pháp suy đoán. Suy đoán này có
thể thay đổi nếu chứng minh được pháp luật của quốc gia khác có mối liên hệ gắn
bó hơn.18 Quy định này đảm bảo tính khách quan và đồng thời thể hiện sự bình
đẳng giữa hệ thống pháp luật các nước. Chẳng hạn, Bộ Luật dân sự 2015 cũng xác
định mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể.19
So với Điều 760 Bộ Luật dân sự 2005, Điều 672 Bộ Luật dân sự 2015 còn bổ
sung “Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân
có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch
Việt Nam thì pháp luật áp dụng là pháp luật Việt Nam”. Quy định này hồn tồn
phù hợp bởi khi là cơng dân Việt Nam thì ln chịu sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam.
Việc xác định người nước ngồi khơng có, mất, hạn chế năng lực hành vi dân
sự; mất tích hoặc chết:
Từ những năm 1980, vấn đề này đã xuất hiện trong tất cả các Hiệp định Tương
trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đồng thời trong nước, hiện

nay việc xác định một cá nhân khơng có, mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
xác định một cá nhân mất tích hoặc chết là những việc rất cần thiết và thường xuyên
trong Bộ luật dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng.
Khoản 3 Điều 674 Bộ Luật dân sự 2015 quy định“Việc xác định cá nhân bị mất
năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam”; Đây là quy
định mới bổ sung so với Điều 762 Bộ Luật dân sự 2005. Bộ Luật dân sự 2015
không quy định về việc xác định pháp luật áp dụng đối với người khơng có, mất,
hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nước ngoài mà thay vào đó là quy định về
vấn đề điều chỉnh khi cá nhân bị mất, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
17

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội, 2017, tr. 116.

18

Nguyễn Thanh Tú, Hồng Ngọc Bích: Mối liên hệ gắn bó nhất trong xác định pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2016, số 3 (335), tr. 43.
19

Xem khoản 2 Điều 683 Bộ Luật dân sự 2015.

14


hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam. Bộ Luật dân sự 2015 đã loại bỏ
trường hợp xác định người khơng có năng lực hành vi dân sự và bổ sung trường hợp
“khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”, việc bổ sung trên là hợp lý, phù hợp
với nhu cầu thực tiễn.

Điều 675 Bộ Luật dân sự 2015 “1. Việc xác định một cá nhân mất tích hoặc
chết tuân theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch vào thời điểm trước khi
có tin tức cuối cùng về người đó, trừ quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Việc xác định tại Việt Nam một cá nhân mất tích hoặc chết theo pháp luật Việt
Nam”. So với Bộ Luật dân sự 2005, cụm từ “vào thời điểm trước khi có tin tức cuối
cùng về việc mất tích hoặc chết” được thay bằng “vào thời điểm trước khi có tin tức
cuối cùng về người đó” đã mở rộng phạm vi xác định thơng tin cá nhân của người
đó. Đồng thời, đối với khoản 2 Điều 675 pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng cho
mọi trường hợp khi xác định tại Việt Nam việc mất tích hay chết của cá nhân mà
khơng cần xem xét nơi cư trú của họ.
Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15-11-2006 Quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ Luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi quy định tại
khoản 5 Điều 3: “Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp
luật nước ngoài”. Tại Điều 3 khoản 1 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi bổ
sung 2014) quy định “Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không
phải là Việt Nam”. Như vậy, theo luật Quốc tịch Việt Nam, bất kì quốc tịch của
nước nào khác khơng phải là Việt Nam thì được xác định là quốc tịch nước ngồi.
Tiêu chí xác định quốc tịch cũng khác nhau giữa các nước. Ví dụ: Các nước
theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng
kí điều lệ; các nước ở khu vực Ả Rập như Ai Cập, Xyri…xác định quốc tịch của
pháp nhân theo nơi kinh doanh sản xuất chính của pháp nhân.
Khoản 1 Điều 676 Bộ Luật dân sự 2015 quy định “Quốc tịch của pháp nhân
được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập”. Ví dụ: Tập đồn
SamSung của Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam thì sẽ là một pháp nhân có quốc
tịch pháp nhân nước ngồi chứ khơng phải quốc tịch pháp nhân Việt Nam.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân: khoản 2 và khoản 3 Điều 676 Bộ
Luật dân sự 2015 quy định: “2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân; tên gọi
của pháp nhân; đại diện theo pháp luật của pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại,
giải thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách
15



nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp
nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều này”
3. Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt
Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngồi đó được xác định
theo pháp luật Việt Nam”. Vậy thì năng lực pháp luật dân sự của một pháp nhân
được xác định theo pháp luật của quốc gia mà pháp nhân đó có quốc tịch.
Quốc tịch của pháp nhân là nơi có pháp nhân có quan hệ gắn bó nhất, thể hiện
mối liên hệ ràng buộc vững chắc về mặt pháp lý giữa một pháp nhân với một Nhà
nước nhất định. Việc một pháp nhân dù có hoạt động trên bất kì một lãnh thổ nào
thì cũng sẽ chịu sự tác động ít nhiều từ phía Nhà nước mà pháp nhân mang quốc
tịch. Năng lực pháp luật, tên gọi, vấn đề đại diện, việc tổ chức, tổ chức lại pháp
nhân…đều được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch.
Tuy nhiên, trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự được xác định theo pháp luật Việt
Nam. Ví dụ: SamSung của Hàn Quốc thiết lập quan hệ, thực hiện giao dịch tại Việt
Nam thì năng lực dân sự của tổ chức này được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Tương tự với quy định trên tại khoản 3 Điều 17 Hiệp định Tương trợ tư pháp về
dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
tuân theo pháp luật của nước ký kết nơi pháp nhân đó được thành lập”.
“Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài”;
Quy định này xác định mọi giao dịch dân sự xảy ra tại nước ngoài mà chủ thể là
cá nhân hay pháp nhân Việt Nam thì đều thuộc về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi. So với Bộ Luật dân sự 2005 thì nay quy định tại Bộ Luật dân sự 2015 đã bổ
sung sự kiện là “thực hiện” và quy định ngắn gọn đối với nơi phát sinh các sự kiện
là “xảy ra ở nước ngoài”.

Xác lập được hiểu là các bên thiết lập quan hệ với nhau bằng văn bản, hợp đồng
miệng hoặc các hình thức khác và thể hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.

16


Thay đổi là khi đã xác lập quyền và nghĩa vụ trước đó tại nước ngồi và sau đó
thay đổi trên cơ sở nguyên tắc chung của các bên đã đặt ra.
Thực hiện quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài xảy ra ở nước ngoài là việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đã được các bên là tổ chức, cá nhân Việt Nam xác lập
tại nước ngoài và đồng thời việc thực hiện trên không trái với quy định của nước sở
tại đó.
Chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi tại nước ngồi là việc các bên là
cá nhân Việt Nam, tổ chức Việt Nam chấm dứt quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo
quy định của nước đó.
“Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi”;
Đối tượng của quan hệ dân sự có thể là tài sản ở nước ngoài. Các bên tham gia
cả hai đều là cá nhân, cả hai bên đều là pháp nhân, hoặc cả hai là cá nhân Việt Nam
với pháp nhân Việt Nam. So với Bộ Luật dân sự 2005, Điều 758 Bộ Luật dân sự
2005 sử dụng cụm từ “tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”, và nay đã
được thay thế bằng cụm “đối tượng quan hệ đó ở nước ngồi” thật sự đã xác định
được phạm vi điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta cụ thể hơn
và khoa học hơn.
Các bên tham gia là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam được hiểu là
trong một giao dịch dân sự xảy ra ở nước ngoài dù là cả hai bên đều là cá nhân
người Việt Nam hoặc cả hai đều là pháp nhân Việt Nam hoặc cả hai đều là cá nhân
người Việt Nam với pháp nhân Việt Nam đi nữa thì cũng đều thuộc về quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi tại điểm c, khoản 2 Điều 663 Bộ Luật dân sự 2015 điều
chỉnh. Quy phạm này thể hiện tính “hiệu lực về khơng gian” của giao dịch dân sự là

phải ở nước ngồi chứ khơng phải là trong nước. Đây là quy định mới rất tiến bộ và
khoa học, làm cơ sở chuẩn xác để áp dụng thống nhất từ trung ương đến địa phương
trong q trình thực hiện pháp luật.20
Ví dụ: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa A và B (đều là công dân Việt
Nam) nhưng tranh chấp về quyền sở hữu khu căn hộ tại Anh. Như vậy, quan hệ dân
sự này được xác định là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi vì các bên trong quan
20

Hồ Xuân Thắng: Xác định phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo Bộ luật dân sự 2015 và tính
đồng bộ của nó trong pháp luật hiện hành ở nước ta, Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM - Khoa Luật, Kỷ
yếu hội thảo khoa học pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tháng 11/2017, tr. 62-72.

17


hệ trên đều là cá nhân Việt Nam tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, đối tượng là
căn hộ tại Anh.
1.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
1.2.1 Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Pháp luật là tổng thể các quy phạm do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể
hiện ý chí Nhà nước, phản ánh nhu cầu khách quan của sự vận động và phát triển
của các quan hệ xã hội.21 Theo quan điểm Mác-Lênin thì pháp luật chính là chuẩn
mực của xã hội và mang tính quyền lực nhà nước; Là công cụ mà giai cấp cầm
quyền sử dụng để thực hiện chức năng quản lý và hợp pháp hóa quan hệ thống trị
đối với xã hội.22
Để thiết lập trật tự, kỉ cương, đảm bảo cho xã hội vận động, tồn tại, phát triển
thì phải sử dụng những cơng cụ điều chỉnh như tập quán, các quy định của các tổ
chức xã hội, đạo đức,…và hơn cả là pháp luật.
Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh những
quan hệ xã hội cơ bản mang tính chất phổ biến, quan trọng. Song song đó, pháp luật

vừa điều chỉnh, vừa sắp xếp các quan hệ xã hội vào khuôn khổ trật tự, bảo vệ các
quan hệ đó và phát triển chúng theo một định hướng nhất định.
Điều chỉnh pháp luật là quá trình tác động có định hướng và có mục đích của
pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh nhằm tổ chức lại các quan hệ xã hội,
đảm bảo chúng phát triển, đạt được các mục đích đề ra.23
Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi bao gồm hệ thống
quy phạm pháp luật có đặc tính chung, mang tính chất bắt buộc đối với các chủ thể
khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, căn cứ vào các
quy định pháp luật trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các mệnh lệnh
trong những tình huống mà pháp luật đã dự liệu.

21

Trường Đại học Luật TP. HCM: Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia
Việt Nam, 2014, tr. 68.
22

Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2015, tr. 96.
23

Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2015, tr. 230.

18


1.2.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội cơ bản, điển hình, phổ

biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật.24
Các quan hệ do Tư pháp quốc tế điều chỉnh rất rộng, bao gồm chủ yếu các quan
hệ dân sự như: Quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngồi; Quan hệ hơn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngồi; Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài; Quan hệ hợp đồng
như mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế…; Các quan
hệ tố tụng dân sự,…
Những quan hệ này thường là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, đồng
thời có hai đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là các quan hệ dân sự.
Thứ hai, đó là các quan hệ có yếu tố nước ngồi.
Quan hệ dân sự là đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế theo nghĩa rộng.
Quan hệ dân sự do Tư pháp quốc tế điều chỉnh ln ln có yếu tố nước ngoài. Như
vậy, đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế Việt Nam là các quan hệ dân sự
(theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi.
Có thể hiểu một cách đầy đủ rằng quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư
pháp quốc tế là quan hệ cùng một lúc phải thỏa mãn hai điều kiện là có tính “quốc
tế” (thuật ngữ này có nghĩa là tất cả các quan hệ dân sự vượt ra ngoài phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia hoặc có người nước ngồi tham gia và được điều chỉnh bởi
nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau có liên quan trong quan hệ
đó) và phải là “quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng”.25

24

Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2015, tr. 232.
25

Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Ngọc Lâm: Về việc xác định các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngồi trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 3/2004, số 191, tr. 74.


19


Tại Việt Nam, quan điểm về đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là tương
đối thống nhất. Quan điểm này được thừa nhận và thể hiện trong nhiều giáo trình
Tư pháp quốc tế ở Việt Nam.26
Tuy nhiên, lý luận về Tư pháp quốc tế của nhiều nước còn thừa nhận tư pháp
quốc tế không chỉ điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi mà còn điều
chỉnh một số quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế. Chẳng
hạn như các quan hệ tố tụng dân sự liên quan đến tòa án của quốc gia khi giải quyết
các vấn vụ việc dân sự như thẩm quyền của tịa án, cơng nhận và thi hành các bản
án tịa án nước ngồi,…
Như vậy, phạm vi những quan hệ là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
rộng, hẹp còn phụ thuộc vào quan điểm của mỗi nước về phạm vi điều chỉnh của tư
pháp quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh
Tại Việt Nam, Liên Bang Nga và một số nước khác đối tượng điều chỉnh của
Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo nghĩa rộng, do đó,
phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế xác định rất rộng bao gồm các vấn đề liên
quan đến xung đột pháp luật, đến địa vị pháp lí của các chủ thể, các quan hệ về
quyền sở hữu có yếu tố nước ngồi, thừa kế có yếu tố nước ngồi, hợp đồng có yếu
tố nước ngồi, thanh tốn quốc tế, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quan hệ
tố tụng dân sự, trọng tài thương mại quốc tế. Một số tác giả Việt Nam có đề cập đến
vấn đề xung đột pháp luật, xác định thẩm quyền xét xử, quy chế pháp lý của người
nước ngoài, công nhận và thi hành bản án, quyết định nước ngồi.27 Tuy nhiên, tác
giả khơng đi sâu vào vấn đề quốc tịch.
Tại Anh, Mĩ, Singapore, Úc và một số nước khác, Tư pháp quốc tế được nghiên
cứu dưới góc độ luật xung đột. Trong đó tập trung vào ba vấn đề là xác định thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp các các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi; vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng; vấn đề công nhận, thi hành bản án,

quyết định của tịa án nước ngồi, quyết định của trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên,
26

Đoàn Năng (2001): Một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế (sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, tr. 9-11; Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2010): Tư pháp quốc tế Việt Nam - Quan hệ dân sự, lao
động, thương mại có yếu tố nước ngồi, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Hà Nội; Trường Đại học Cơng
Nghệ TP. HCM, Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, TP. HCM, tr. 8.
27

Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001.

20


×