Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.19 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN
TẠ THỊ QUỲNH NHƯ

TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
••

V

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

••

TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2020


ÍW

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
TẠ THỊ QUỲNH NHƯ

TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
••
Ngành: Tài chính - Ngân hàng


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
••
Mã số: 8340201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS NGUYỄN THỊ CÀNH

TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2020


3

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của GS. TS Nguyễn Thị Cành. Các kết quả nghiên cứu và
kết luận trong luận văn là trung thực, không sao chép từ bất kỳ nguồn nào và dưới
bất kỳ hình thức nào. Trong quá trình làm, học viên có tham khảo them các tài liệu
liên quan nhằm khẳng định thêm sự tin cậy và cấp thiết của đề tài. Việc tham khảo
các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo theo
đúng quy định.
Học viên

TP. HCM, ngày 25 tháng 05 năm 2020


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt
Nghĩa đầy đủ
WB

Worldbank (Ngân hàng thế giới)


IMF

International Monetary Fund (Quỹ tiền
tệ quốc tế)

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng Trung Ương

ARDL

Autoregressive Distributed Lag (mô hình
phân phối trễ tự hồi quy)


DANH MỤC BẢNG BIỂU


MỤC LỤC


7

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do nghiên cứu
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế là một trong

những vấn đề nghiên cứu được các nhà hoạch định chính sách kinh tế tài chính quan
tâm hàng đầu trong những năm qua. Hiệu quả tích cực của phát triển tài chính đối
với tăng trưởng kinh tế được hỗ trợ bởi các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm và
được chấp nhận rộng rãi rằng thị trường tài chính hoạt động tốt có thể đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Nhận thấy
được vai trò của phát triển tài chính trong việc tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia đã
có những chính sách nỗ lực nhằm thay đổi sự phát triển tài chính của quốc gia đó
nhưng kết quả ở mỗi nơi là khác nhau. Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao có sự khác nhau
này và để trả lời cho câu hỏi đó thì việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
tài chính tại quốc gia đó là điều thiết thực. Vì vậy, nghiên cứu về các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển tài chính đang dần trở thành vấn đề được các nhà hoạch định
chính sách ở mỗi quốc gia quan tâm để đưa ra chính sách phù hợp dựa trên sức ảnh
hưởng của các yếu tố đó lên phát triển tài chính, từ đó nâng cao tăng trưởng kinh tế
bền vững tại quốc gia đó.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên tăng trưởng kinh tế luôn là mục
tiêu hàng đầu của Chính phủ. Do đó, để nâng cao tăng trưởng kinh tế thì việc nâng
cao phát triển tài chính là điều tất yếu vì phát triển tài chính sẽ ảnh hưởng tích cực
đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (Sajid Anwar và Lan Phi Nguyen, 2011). Hơn
nữa, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều bất định, tình hình trong nước cịn khó
khăn, do đó mục tiêu của các nhà chính sách hiện nay là tăng trưởng kinh tế giai
đoạn sau càng phải cao hơn, nhưng phải bền vững. Theo đó, hệ thống tài chính, với
vai trị huyết mạch của nền kinh tế, địi hỏi phải phát triển ở mức độ sâu hơn, hiện đại
hơn, song vẫn đảm bảo tính an tồn, lành mạnh trước những biến động của thị trường
tài chính tồn cầu (Trương Văn Phước, 2017). Từ đó, việc xem xét Các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển tài chính tại Việt Nam ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Đã
có các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về mối quan hệ tác động của một yếu tố


8


nào đó như kiều hối hay tăng trưởng kinh tế lên phát triển tài chính, tuy nhiên chưa
có một nghiên cứu tổng quát và cụ thể về các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài
chính. Vì vậy, trên đây là những lý do tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Các yếu tố
ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại Việt Nam” để nghiên cứu về vấn đề này.
1.2 Tổng quan các nghiên cứu trước
1.2.1

Các nghiên c ứu quốc tế

Đã có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới về đề tài các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển tài chính, chẳng hạn như:
Alan H. Gelb (1989) nghiên cứu “Chính sách tài chính, tăng trưởng và hiệu
quả” với bộ dữ liệu từ 34 quốc gia trong giai đoạn từ 1965 - 1985 bằng mơ hình
OLS. Các biến sử dụng trong mơ hình: biến phụ thuộc độ sâu tài chính được đo
lường bằng chỉ tiêu M3/GDP, các biến độc lập bao gồm: lãi suất tiền gửi thực, GDP
bình quân đầu người, lạm phát và 1 biến giả. Kết quả nghiên cứu cho thấy lãi suất
tiền gửi thực và GDP bình quân đầu người tác động dương lên độ sâu tài chính, trong
khi đó lạm phát có tác động ngược lại.
Seetanah, B., Padachi, K., Hosany, J., & Seetanah, B. (2010) nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính ở Mauritius. Bài viết sử dụng mơ hình
ARDL với chuỗi dữ liệu thời gian từ năm 1970 - 2008. Tác giả đã dùng 2 chỉ tiêu để
đo lường phát triển tài chính gồm: Nợ thanh khoản/GDP hay M3/GDP và tín dụng
khu vực tư nhân/GDP. Các biến độc lập bao gồm: độ mở thương mại, đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tỷ lệ đầu tư (tổng vốn cố định trong nước/GDP), tỷ lệ nhập học trung
học (secondary enrolment ratio - SER), lạm phát (CPI), GDP bình quân và biến giả
biểu thị số lần chính phủ Mauritian sử dụng chính sách tự do hóa tài chính. Kết quả
cho thấy độ mở thương mại và tự do hóa tài chính là yếu tố quyết định đến phát triển
tài chính tại Mauritius. Thêm vào đó, tỷ lệ đầu tư, GDP bình quân và SER cũng được
xem là những yếu tố quan trọng trong việc kích thích phát triển tài chính tại quốc gia
này. Trong khi đó, lạm phát có tác động ngược lại đối với phát triển tài chính cả

trong ngắn và dài hạn.
Omid Dehghan Nejad (2010) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển


9

tài chính ở Iran và liệu chính sách tài khóa có tác động đáng kể đến phát triển tài
chính ở Iran hay không? Luận văn sử dụng kiểm định đồng liên kết Johansen với
chuỗi dữ liệu thời gian từ năm 1965 - 2006. Biến phát triển tài chính được đo lường
bằng 3 chỉ tiêu: M2/GDP, Tín dụng nội địa khu vực tư nhân/GDP và Tín dụng khu
vực ngân hàng/GDP. Các biến độc lập gồm: độ mở thương mại, GDP bình quân, tiết
kiệm, lạm phát, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc và chỉ số hạn chế tài chính (Financial restraints
index). Kết quả nghiên cứu cho thấy: độ mở thương mại, tiết kiệm và tăng trưởng
kinh tế có tác động tích cực đến phát triển tài chính ở Iran. Đặc biệt, trong nghiên
cứu, tác giả chỉ ra rằng đối với trường hợp của Iran trong giai đoạn này, khi mà lạm
phát tăng lên một khoảng nhất định sẽ khuyến khích các hoạt động và cải thiện phát
triển tài chính hơn là kiềm hãm nó. Đồng thời, các yếu tố: áp chế tài chính và tỷ lệ dự
trữ bắt buộc có tác động ngược lại đối với phát triển tài chính ở Iran.
Paul Owusu Takyi và Camara Kwesi Obeng (2013) nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển tài chính tại Ghana. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận ARDL
với bộ dữ liệu theo quý trong giai đoạn từ 1998 -2010. Biến phát triển tài chính sử
dụng trong bài là tín dụng nội địa cho khu vực tư nhân/GDP. Các biến độc lập bao
gồm: lạm phát, độ mở thương mại, GDP bình quân đầu người, lãi suất, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc và nợ công. Kết quả cho thấy độ mở thương mại và GDP bình quân đầu
người là yếu tố quan trọng đến phát triển tài chính ở Ghana. Lạm phát, lãi suất và dự
trữ bắt buộc tác động tiêu cực đến sự phát triển tài chính kể cả trong ngắn hạn và dài
hạn. Nợ cơng của chính phủ khơng có tác động kể cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Syed Hassan Raza, Hina Shahzadi & Misbah Akram (2014) nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính dựa trên số liệu bảng của 27 nước phát
triển và 30 nước đang phát triển giai đoạn 1990 - 2012. Biến phát triển tài chính

được đo lường bằng chỉ số tín dụng nội địa khu vực tư nhân (% of GDP). Các biến
độc lập bao gồm: tăng trưởng dân số, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, tăng trưởng
GDP, độ mở thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài (% of GDP), chi tiêu của Chính
phủ (% of GDP), chỉ số dân chủ (index of democracy) và chỉ số pháp luật (index of
rule of law). Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng kiểm định Hausmen để


10

kiểm tra xem việc sử dụng mơ hình hiệu ứng cố định (FEM) hay mơ hình hiệu ứng
ngẫu nhiên (REM) là phù hợp. Kết quả cho thấy việc sử dụng mơ hình FEM là phù
hợp hơn và mơ hình này cũng cho ra được kết quả nghiên cứu ngoài trừ hai yếu tố:
đầu tư trực tiếp nước ngoài và chỉ số pháp luật thì các yếu tố khác đều ảnh hưởng
đáng kể đến phát triển tài chính tại các quốc gia này.
Norlita Binti Zainudin và Nurnaddia Binti Nordin (2017) nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại 4 quốc gia Asean. Bài viết sử dụng dữ liệu
bảng gồm 4 nước: Malaysia, Singapore, Thái Lan và Philippin giai đoạn 1987 2013. Tác giả dùng 2 phương pháp bao gồm: Ước tính gộp bình phương tối thiểu
(POLS) và mơ hình hồi quy dường như khơng liên quan (SUR) để điều tra các yếu tố
tác động đến phát triển tài chính tại 4 nước này. Các biến trong bài viết gồm: biến
phụ thuộc phát triển tài chính được đo lường bằng tín dụng nội địa khu vực tư nhân
(% of GDP), các biến độc lập gồm: GDP bình quân, lãi suất, lạm phát và độ mở
thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy: nếu dùng POLS sẽ đưa ra kết quả là yếu tố
tác động đáng kể đến phát triển tài chính của 4 nước này là thu nhập và được hỗ trợ
bằng yếu tố độ mở thương mại. Nếu dùng SUR sẽ cho kết quả là thu nhập là yếu tố
tác động đáng kể đến phát triển tài chính ở Singapo và Thái Lan, cịn độ mở thương
mại là yếu tố tác động chính ở Malaysia và Philippin.
Ramez Abubakr Badeeb và Hooi Hooi Lean (2017) nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển tài chính tại Yemen, bằng chứng từ phương pháp tiếp cận thành
phần chính (PCA). Bài viết sử dụng bộ dữ liệu từ năm 1980-2012. Trong bài viết
này, phát triển tài chính được đo lường theo 4 chỉ tiêu: M2/GDP, Tín dụng nội địa

của khu vực tư nhân/GDP, Tiền gửi/GDP và chỉ tiêu cuối: dùng PCA dựa trên 3 chỉ
tiêu kia. PCA được đo lường như sau: Các thành phần chính của một tập hợp các
biến được thu được bằng cách tính tốn phân tách giá trị Eigen của ma trận phương
sai quan sát được. Thành phần chính đầu tiên là tổ hợp tuyến tính độ dài đơn vị của
các biến ban đầu với phương sai tối đa. Các thành phần chính tiếp theo tối đa hóa
phương sai giữa các kết hợp tuyến tính có độ dài đơn vị trực giao với các thành phần
trước đó. Bài viết chỉ ra rằng: tăng trưởng kinh tế, nguồn tài nguyên thiên nhiên, độ


11

mở thương mại và lạm phát là các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại
Yemen. Trong đó: tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại tác động dương và
nguồn tài nguyên tác động âm đến phát triển tài chính. Bên cạnh đó, tác động của
lạm phát âm hay dương sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn chỉ tiêu của phát triển tài
chính.
Shabbir, B., Jamil, L., Bashir, S., Aslam, N., & Hussain, M. (2018) nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính - trường hợp Pakistan. Dữ liệu
được thu thập từ năm 1995 - 2015 với các biến bao gồm: biến phụ thuộc phát triển
tài chính đo lường bằng chỉ tiêu tín dụng nội địa khu vực tư nhân/ GDP, các biến độc
lập là: lạm phát, độ mở thương mại, vốn hóa thị trường, lãi suất đầu tư (investment
rate) và lãi suất thực. Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều
với phát triển tài chính trong khi các biến cịn lại tác động cùng chiều.
Ngồi những nghiên cứu kể trên, các nhà khoa học trên thế giới cũng đã có
nhiều nghiên cứu về mối quan hệ/tác động qua lại giữa phát triển tài chính và 1 yếu
tố cụ thể nào đó, ví dụ như:
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và phát triển tài chính tại Thổ Nhĩ
Kì (Nurettin Ozturk & Kadir Karagoz, 2012). Trong bài viết này, tác giả sử dụng
phương pháp ARDL với bộ dữ liệu từ năm 1971-2009. Bài viết gồm các biến: phát
triển tài chính được đo lường bằng 2 chỉ tiêu là: tín dung nội địa khu vực tư

nhân/GDP và M2/GDP; lạm phát được đo lường bằng chỉ số CPI và 1 biến kiểm sốt
là GDP bình qn đầu người. Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát có tác động tiêu
cực đến phát triển tài chính tại quốc gia này. Và đây cũng là kết quả nghiên cứu mà
Haroon Khan (2015) chứng minh được đối với trường hợp của Pakistan. Nhưng cũng
có nghiên cứu cho rằng lạm phát có tác động tích cực đối với phát triển tài chính
trong thời gian ngắn đối với các nhóm nền kinh tế có lạm phát thấp hoặc các quốc
gia có thu nhập (Dong Hyeon Kim & Shu Chin Lin, 2010).
R. W. Hafer (2013) nghiên cứu về tự do kinh tế và phát triển tài chính với bộ
dữ liệu từ năm 1980-2009 của 81 quốc gia. Bài viết bao gồm biến phụ thuộc: phát
triển tài chính được đo lường bằng 3 chỉ tiêu: Nợ phải trả/GDP, %tài sản NHTM/(tài


12

sản NHTM + tài sản NHTW) và tín dụng tư nhân/GDP. Các biến độc lập bao gồm:
pháp lý (legal), log GDP/người và tự do kinh tế. Biến tự do kinh tế trong bài được
lấy từ “the Economic Freedom of the World Index” của Gwartney (2010). Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng quốc gia có mức độ tự do kinh tế năm đầu cao hơn thì mức độ
phát triển tài chính lớn hơn trong những năm tiếp theo.
Hatem Abdulkadhim và cộng sự (2014) nghiên cứu “Phát triển tài chính, Độ
mở thương mại và Tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng tại Oman (1972-2012)”. Bài
nghiên cứu sử dụng mơ hình VAR thơng qua kiểm định nhân quả Engle - Granger
với bộ dữ liệu từ năm 1972-2012 tại Oman. Các biến trong bài đều được lấy logarit
tự nhiên bao gồm: tăng trưởng kinh tế được đo bằng “real GDP in local currency”,
phát triển tài chính được đo lường bằng tín dụng nội địa khu vực tư nhân/GDP và
biến độ mở thương mại được đo bằng %độ mở thương mại/GDP. Kết quả bài viết
cho thấy cú shock về mở cửa thương mại sẽ tác động đến phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, bài viết cịn chỉ ra rằng các chính sách kinh tế nhằm mở
cửa thương mại có tác động đáng kể về mặt thống kê đối với sự phát triển tài chính
và tăng trưởng kinh tế.

1.2.2 Các nghiên cứu Việt Nam
Tại Việt Nam, trong sự tìm hiểu của tác giả chưa có bài viết đi vào chủ đề:
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều bài
viết nghiên cứu về mối quan hệ/tác động qua lại giữa phát triển tài chính và 1 yếu tố
cụ thể nào đó, ví dụ như:
Sajid Anwar & Lan Phi Nguyen (2011) nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát
triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu bảng gồm
61 tỉnh thành Việt Nam giai đoạn từ năm 1997-2006 dựa trên mơ hình tăng trưởng
nội sinh, tác giả chỉ ra rằng phát triển tài chính tạo điều kiện giúp tăng trưởng kinh tế
Việt Nam.
Phạm Thị Hoàng Anh (2015) nghiên cứu về tác động của kiều hối
(remittances) lên phát triển tài chính ở Việt Nam. Bài viết sử dụng bộ dữ liệu theo
quý từ năm 1996-2010 bằng phương pháp VAR. Trong đó, có 2 chỉ tiêu phát triển tài


13

chính được sử dụng là: tăng trưởng tín dụng (credit growth) và tăng trưởng tiền gửi
(deposit growth). Các biến còn lại là: GDP, lãi suất cho vay và kiều hối (remittances).
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiều hối chảy về nước có sẽ làm tăng tiền gửi ngân
hàng nhưng mức tăng khơng cao.
Hồng Thị Phương Anh và Đinh Tấn Danh (2016) nghiên cứu “Tác động của
phát triển tài chính đến phát triển kinh tế: Bằng chứng tại các quốc gia khu vực châu
Á”. Nghiên cứu sử dụng mơ hình DOLS với bộ dữ liệu của 29 quốc gia trong khu
vực châu Á từ năm 1996-2013. Các biến trong mơ hình bao gồm: biến phụ thuộc là
phát triển kinh tế được đo lường bằng log của GDP/người (LOGGDP); các biến độc
lập là: phát triển tài chính được đo lường bằng logarit tự nhiên của tín dụng khu vực
tư nhân/GDP (PRV), quy mơ chính phủ (GOV), độ mở thương mại (OPEN) và lạm
phát (INF). Kết quả nghiên cứu cho thấy trong điều kiện cân bằng giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế thì phát triển tài chính có tác động tích cực đến phát

triển kinh tế. Điều này đúng cho cả hai trường hợp các quốc gia có thu nhập thấp và
các quốc gia có thu nhập cao. Hơn nữa, mức thu nhập của các quốc gia cũng có tác
động khác nhau đến mối quan hệ giữa tài chính và kinh tế. Cụ thể các quốc gia có
thu nhập thấp hơn thì phát triển tài chính dẫn đến phát triển kinh tế mạnh hơn. Bên
cạnh đó, nếu có một sự mất cân bằng giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế
thì việc gia tăng phát triển tài chính sẽ có tác động tiêu cực, làm giảm đi mức độ tăng
trưởng kinh tế.
Từ tổng quan các nghiên cứu trên, tác giả sẽ kế thừa mơ hình phân phối trễ tự
hồi quy (ARDL) đã được áp dụng trong nghiên cứu của Paul Owusu Takyi và
Camara Kwesi Obeng (2013). Tác giả sử dụng biến tự do kinh tế thay thế cho biến
dự trữ bắt buộc của mơ hình Paul Owusu Takyi và Camara Kwesi Obeng (2013) do
tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở Việt Nam là cố định, được áp dụng theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và như vậy nếu để biến này trong mơ hình có thể khơng
đem lại kết quả mong muốn. Bên cạnh đó, biến tự do kinh tế đã từng được R. W.
Hafer (2013) đưa vào nghiên cứu và chứng minh là có tác động tích cực đến phát
triển tài chính tại 81 quốc gia. Do đó, việc thêm biến này là phù hợp với ngành và


14

góp phần phát triển thêm mơ hình nghiên cứu tại Việt Nam.
1.3 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm xác định Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài
chính tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm kích thích, nâng cao phát
triển tài chính.
Mục tiêu cụ thể như sau:
- Phân tích Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại Việt Nam. Xây
dựng mơ hình định lượng để kiểm định các yếu tố này.
- Sau khi xác định được các yếu tố ảnh hưởng sẽ đưa ra một số kiến nghị dựa
trên các yếu tố này để kích thích, nâng cao phát triển tài chính tại Việt Nam.

Để làm rõ những mục tiêu ở trên, cần trả lời những câu hỏi sau đây:
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phát triển tài chính ở Việt Nam? Nếu có
tác động là tác động tích cực hay tiêu cực?
- Làm thế nào để nâng cao phát triển tài chính tại Việt Nam?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
phát triển tài chính và Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại Việt Nam.
Chỉ tiêu đo lường phát triển tài chính là tín dụng nội địa khu vực tư nhân/GDP.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Số liệu về chỉ tiêu phát triển tài chính: tín dụng nội địa
khu vực tư nhân/GDP và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính của Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Số liệu được sử dụng từ năm 1995 - 2018.


1.5 Phương pháp nghiên cứu
1.5.1

Phương pháp nghiên cứu:

Bài viết sử dụng kết hợp giữa phương pháp định tính và định lượng để làm rõ
các vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp định tính: Dùng phương pháp tổng quan lịch sử: tổng lược các
nghiên cứu trước liên quan đến phát triển tài chính, từ đó nhận diện khoảng trống cần
nghiên cứu tiếp và xác định các biến phù hợp cho bài viết (Các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển tài chính tại Việt Nam).
- Phương pháp định lượng: Áp dụng phương pháp ARDL để kiểm định lại mối
quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng lên phát triển tài chính ở Việt Nam, cụ thể:
+ Phương pháp ước lượng mơ hình: Áp dụng mơ hình phân phối trễ tự hồi quy
ARDL (AutoRegressive Distributed Lag là sự kết hợp giữa mơ hình tự hồi quy vector
VAR và mơ hình hồi quy bình phương nhỏ nhất OLS) với phương pháp kiểm định

đường bao (Bound test) đã được sử dụng trong nghiên cứu của Paul Owusu Takyi và
Camara Kwesi Obeng (2013) nhằm xác định đồng liên kết giữa các biến, tức là tìm
mối quan hệ dài hạn giữa các yếu tố ảnh hưởng và phát triển tài chính. Tiếp theo, sử
dụng mơ hình hiệu chỉnh sai số của ARDL đã được dùng trong nghiên cứu của Paul
Owusu Takyi và Camara Kwesi Obeng (2013) để kiểm tra mối quan hệ trong ngắn
hạn giữa các yếu tố này và phát triển tài chính.
+ Phần mềm excel được sử dụng để xử lý số liệu ban đầu của dữ liệu và dùng
phần mềm Eview 10 để phân tích định lượng các nội dung đề cập ở trên.
1.5.2

Nguồn số liệu

Bài nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu theo năm, từ năm 1995-2018, được lấy từ
trang web của World Bank (WB) và tradingeconomics.com, riêng biến tự do kinh tế
lấy từ trang web: Biến phụ thuộc là phát triển
tài chính (FD). Các biến độc lập bao gồm: độ mở thương mại (TO), lạm phát (INF),
GDP bình quân đầu người (GDP), lãi suất thực (IR), nợ công (GB) và tự do kinh tế
(EF). Nguồn số liệu và cách đo lường được trình bày cụ thể như sau:
Biến

Cách đo lường

Nguồn


FD

Tín dụng nội địa khu vực tư

WB


nhân/GDP (%)
TO

Tổng giá trị xuất nhập khẩu/GDP

WB

(%)
INF

Tỷ lệ lạm phát

WB

GDP

GDP/người (%)

WB

IR

Lãi suất

WB

GB

Tỷ lệ nợ công/GDP (%)


WB, tradingeconomics.com

EF

Tự do kinh tế (%)

/>
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu
Đề tài đem lại những ý nghĩa, cụ thể như sau:
- Về mặt lý luận: tác giả tổng hợp lại một số nghiên cứu cùng chủ đề về các
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính. Từ đó cho người đọc thấy được tổng quan
lý thuyết và mô hình nghiên cứu đã được áp dụng để nghiên cứu về đề tài này.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà làm chính sách nhận
thấy các yếu tố nào ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của chúng đến phát triển tài
chính tại Việt Nam, từ đó có sự kiểm sốt và điều chỉnh sao cho các yếu tố này tạo ra
những tác động tích cực đến phát triển tài chính của Việt Nam.
1.7 Kết cấu đề tài
Kết cấu đề tài gồm 5 chương và được trình bày thứ tự như sau:
Chương 1: Giới thiệu.
Giới thiệu lý do chọn đề tài, mục tiêu và vấn đề nghiên cứu, phương pháp,
phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa và cấu trúc của luận văn.
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển tài chính.
Trình bày cơ sở lý thuyết và các khái niệm liên quan, giới thiệu những nghiên
cứu trước. Từ đó đề xuất mơ hình nghiên cứu cho đề tài.
Chương 3: Quy trình, phương pháp ước lượng và dữ liệu.
Trình bày các bước của quy trình nghiên cứu, phương pháp ước lượng mô



hình và mơ tả dữ liệu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
Trình bày kết quả thực hiện và so sánh với các nghiên cứu trước.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
Tóm lược các kết quả nghiên cứu và đưa ra một số hàm ý chính sách dựa trên
các kết quả đó. Hạn chế đề tài.


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
2.1 Các khái niệm liên quan
2.1.1 Phát tri ể n tài chính
❖Đã có rất nhiều khái niệm liên quan đến phát triển tài chính, cụ thể như sau:
Theo Merton và Bodie (1995), phát triển tài chính là một q trình thành lập
các định chế nhằm mục đích tăng cơ sở thơng tin, tăng cường khả năng phân tích của
hệ thống tài chính và đáp ứng các nhu cầu mới của nhà kinh doanh, hộ gia đình, v.v..
thơng qua việc đa dạng hóa các loại cơng cụ, hợp đồng tài chính.
Theo Chee-Keong Choong và Sok-Gee Chan (2011), phát triển tài chính
thường được định nghĩa là sự cải thiện về chất lượng, số lượng và hiệu quả dịch vụ
của các trung gian tài chính.
Theo Nguyễn Thị Cành (biên soạn, 2011, 282), “phát triển tài chính liên quan
đến phát triển hệ thống tài chính bao gồm phát triển các tổ chức tài chính, phát triển
các thị trường tài chính và các cơng cụ tài chính, phát triển các định chế và cơ sở hạ
tầng tài chính”.
Theo Martin Cihák và cộng sự (2012), phát triển tài chính có thể được định
nghĩa là sự cải thiện về chất lượng 5 chức năng quan trọng của hệ thống tài chính bao
gồm: Cung cấp và xử lý thông tin về các khoản đầu tư tiềm năng cũng như phân bổ
vốn dựa trên những đánh giá này; Giám sát cá nhân và doanh nghiệp, quản trị doanh
nghiệp sau khi phân bổ vốn; Thuận lợi cho quá trình giao dịch, đa dạng hóa và quản lý
rủi ro; Huy động và tiết kiệm vốn; Hỗ trợ quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các

cơng cụ tài chính.
Theo Worldbank, phát triển tài chính xảy ra khi các cơng cụ tài chính, thị
trường tài chính và trung gian tài chính làm giảm bớt những tác động của các chi phí
như: chi phí thơng tin, chi phí thực thi hợp đồng hay chi phí thực hiện giao dịch; do đó
thực hiện tốt hơn việc cung cấp chức năng quan trọng của khu vực tài chính đối với
nền kinh tế.
❖ về đo lường, Worldbank đưa ra khung đo lường phát triển tài chính dựa trên
4 khía cạnh của một hệ thống tài chính bao gồm: độ sâu tài chính, sự tiếp cận tài


chính, hiệu quả tài chính và sự ổn định tài chính.
“Độ sâu tài chính” phản ánh quy mơ của trung gian tài chính và thị trường tài
chính trong tương quan với nền kinh tế. Độ sâu tài chính càng cao càng cho thấy khả
năng của thị trường tài chính trong việc huy động và đáp ứng nhu cầu về vốn cho các
hoạt động kinh tế (Chu Minh Hội, 2017, 33).
Một số chỉ tiêu đo lường độ sâu tài chính có thể kể đến: M2/GDP, M3/GDP, tín
dụng tư nhân/GDP. Trong đó, chỉ tiêu tín dụng tư nhân/GDP thường được sử dụng
rộng rãi trong nghiên cứu vì chỉ tiêu này phản ánh tốt mức độ phát triển tài chính vì
khơng bao gồm tín dụng nhà nước (Nguyễn Thị Cành, 2011).
“Tiếp cận tài chính” hay tài chính tồn diện là một vấn đề đã và đang được
quan tâm rất nhiều trên toàn thế giới, đăc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên,
hiện chưa có một khái niệm thống nhất về vấn đề này. Một số chỉ tiêu đo lường “Tiếp
cận tài chính” hay tài chính tồn diện có thể kể đến như:
+ Số chi nhánh ngân hàng thương mại/100.000 người trưởng thành: tỷ lệ này
thể hiện mức độ bao phủ của hệ thống ngân hàng so với quy mô dân số, từ đó phản
ánh tính sẵn có cũng như khả năng đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu của người
dân về các dịch vụ của ngân hàng (Chu Minh Hội, 2017, 34).
+ Tỷ lệ % doanh nghiệp được cấp hạn mức tín dụng: Chỉ tiêu này cho biết khả
năng một doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn tín dụng cho các hoạt động sản
xuất, đầu tư. Tỷ lệ này cảng cao cho thấy các doanh nghiệp càng thuận lợi hơn trong

việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng (Chu Minh Hội, 2017, 35).
+ Một số chỉ tiêu đo lường tiếp cận tài chính trên thị trường tài chính như: tỷ lệ
vốn hóa thị trường ngồi 10 cơng ty lớn nhất, lợi suất trái phiếu chính phủ ( 3 tháng và
10 năm),...
Về Hiệu quả tài chính, thước đo sẽ xem xét đối với hai khía cạnh: thị trường
tài chính và trung gian tài chính:
Đối với thị trường tài chính, các thước đo về hiệu quả sẽ tập trung nhiều hơn
vào việc đo lường các giao dịch hơn là chi phí giao dịch. Một thước đo cơ bản về hiệu
quả trong thị trường chứng khoán là tỷ lệ doanh thu trên vốn hóa trong thị trường.
Logic của việc sử dụng biến này là doanh thu càng cao (thanh khoản càng cao), thị


trường càng hiệu quả.
Đối với các trung gian tài chính, hiệu quả chủ yếu được xây dựng để đo lường
chi phí tín dụng trung gian. Một số thước đo về hiệu quả các tổ chức tài chính như là:
tỷ lệ chi phí hoạt động so với tổng tài sản, thu nhập lãi thuần, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi
trên tổng thu nhập (Martin Cihák et al., 2012).
Ổn định tài chính là một đặc tính quan trọng của khu vực tài chính. Theo WB,
một hệ thống tài chính ổn định có khả năng phân bổ hiệu quả các nguồn lực, đánh giá
và quản trị rủi ro tài chính, duy trì mức độ việc làm gần với tỷ lệ tự nhiên của nền kinh
tế, loại bỏ những biến động giá tương đối của tài sản thực hoặc tài sản tài chính mà sẽ
ảnh hưởng đến mức độ ổn định tiền tệ hoặc việc làm. Một hệ thống tài chính ở trong
phạm vi ổn định khi nó làm tiêu tan sự mất cân đối tài chính do nội sinh hoặc do kết
quả của các sự kiện bất lợi và không lường trước.
Tầm quan trọng của ổn định tài chính, theo WB, được minh họa rõ nhất trong
những giai đoạn tài chính bất ổn định. Trong những thời kỳ này, các ngân hàng không
sẵn lịng tài trợ cho các dự án có lợi nhuận. Giá trị tài sản chệch quá mức so với giá trị
nội tại và các khoản thanh tốn có thể khơng đến đúng hạn. Những bất ổn lớn có thể
dẫn đến việc người gửi tiền ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng, siêu lạm phát hoặc sự sụp độ
của thị trường chứng khốn. Nó cũng có thể làm lung lay niềm tin vào hệ thống tài

chính cũng như nền kinh tế.
Một chỉ số quan trọng để đo lường ổn định tài chính là hệ số z-score. Ngồi ra
cịn có một số chỉ tiêu khác như: tỷ lệ chất lượng tài sản, tỷ lệ thanh khoản (đối với tổ
chức tài chính) hay mức độ biến động của chỉ số giá chứng khoán, tỷ số giá/thu nhập
(đối với thị trường tài chính).
2.1.2 Độ mở thương mại:
- Độ mở thương mại được dùng để chỉ quy mô tương đối của khu vực ngoại
thương trong một nền kinh tế.
- Theo Worldbank, độ mở thương mại được đo lường bằng % của tổng giá trị
xuất khẩu và nhập khẩu của hàng hóa và dịch vụ cho tổng sản phẩm quốc nội.
2.1.3 Lạm phát:
Theo Friedman và những nhà kinh tế khác: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh


và kéo dài, lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ - lạm phát bao giờ
và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Theo Nguyễn Như Ý (2008) tổng hợp, lạm phát được hiểu là tình trạng mức
giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định, được đo
lường bằng tỷ lệ lạm phát.

Tỷ lệ lạm phát = ChẰSỐ^\ c^sỗgiảt-1

xioo

Chỉ sơ giảtt_1

- Có ba loại chỉ số giá được sử dụng để tính tỷ lệ lạm phát:
+ Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)
+ Chỉ số giá hàng sản xuất (PPI)
+ Chỉ số giảm phát theo GDP

2.1.4 GDP bình quân đầu người (GDP per capital growth, annual %)
GDP bình quân đầu người (GDP) được tính bằng tỷ lệ tổng sản phẩm quốc nội
trên tổng dân số và là một chỉ số về mức sống của một quốc gia dựa trên đồng nội tệ
không đổi (Paul Owusu Takyi & Camara Kwesi Obeng, 2013).
2.1.5 Lãi suất
Theo Keynes, lãi suất là sự trả cơng cho số tiền vay cịn Adebiyi (2002) định
nghĩa lãi suất là lợi nhuận hoặc lợi tức của vốn chủ sở hữu hoặc chi phí cơ hội của
việc trì hoãn tiêu dùng hiện tại trong tương lai.
Theo IMF (1983), lãi suất được coi là lợi nhuận trên tài sản tài chính đóng vai
trị là động lực cho người tiết kiệm. Lãi suất thực hiện các chức năng quan trọng khác
nhau và nó ảnh hưởng đến các quyết định và giá cả của nền kinh tế như tỷ giá hối đoái
và mức lương cơ bản.
Ibimodo (2005) định nghĩa lãi suất, là khoản thanh tốn tiền th cho việc sử
dụng tín dụng của người vay và trả lại cho việc chia tay với thanh khoản của người
cho vay. Giống như các mức giá khác, lãi suất thực hiện chức năng phân phối bằng
cách phân bổ nguồn cung tín dụng hạn chế trong số nhiều nhu cầu cạnh tranh.
Như vậy, ta có thể thấy rằng chức năng cơ bản của lãi suất trong một nền kinh
tế trong đó các tác nhân kinh tế cá nhân quyết định xem họ có nên vay, đầu tư, tiết
kiệm hoặc tiêu dùng hay không.


2.1.6 Nợ công:
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách
tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia
phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công
thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính
phủ. Tuy nhiên, nợ cơng hồn tồn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ
khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ
của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận
của nợ quốc gia mà thôi. (Theo misa.com.vn)

Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ
của bốn nhóm chủ thể bao gồm:
- Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương;
- Nợ của các cấp chính quyền địa phương;
- Nợ của Ngân hàng trung ương;
- Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người
chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam được ban hành tại Luật Quản lý nợ công
số 20/2017/QH14, nợ cơng được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được
Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương, cụ thể như sau:
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định
của pháp luật. Nợ Chính phủ khơng bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền
phát hành.


Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được
đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế.
2.1.7 Tự do kinh tế:
- Chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedom) được công bố thường niên bởi The
Wall Street Journal và The Heritage Foundation để đo lường chính sách tự do kinh
doanh ở các quốc gia trên thế giới.
- Chỉ số này được đánh giá dựa trên 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế bao

gồm: Tự do kinh doanh (Business Freedom), Tự do thương mại (Trade Freedom), Tự
do tiền tệ (Monetary Freedom), Độ lớn của nhà nước (Government Size), Tự do công
khố (Fiscal Freedom), Quyền tư hữu (Property Rights), Tự do đầu tư (Investment
Freedom), Tự do tài chính (Financial Freedom), Tự do không bị tham nhũng
(Freedom from Corruption) và Tự do lao động (Labor Freedom).
- Mức độ tự do của nền kinh tế thể hiện qua điểm tổng thể của chỉ số, cụ thể
như sau:
+ 80 - 100 điểm: Tự do
+ 70,0 - 79,9 điểm: Gần như tự do
+ 60,0 - 69,9 điểm: Tự do trung bình
+ 50,0 - 59,9 điểm: Hầu như không tự do
+ 0 - 49,9 điểm: Đàn áp
2.2 Tổng lược các nghiên cứu trước
2.2.1 Tổng quan các nghiên cứu trước về tác động của các yếu tố đến phát triển
tài chính
❖ Tác động của độ mở thương mại đến phát triển tài chính:
Độ mở thương mại là một trong các yếu tố có ảnh hưởng đến phát triển tài
chính và đã có nhiều nghiên cứu với các ý kiến khác nhau về sự tác động của nó lên
phát triển tài chính.
Một trong những nghiên cứu đầu tiên có thể kể đến nghiên cứu của Newbery
và Stiglitz (1984), theo đó bài nghiên cứu cho rằng sự mở cửa thương mại ảnh hưởng
đến sự phát triển tài chính bởi vì tự do thương mại sẽ dẫn đến sự không chắc chắn và
không thống nhất trong thu nhập của các đại lý, từ đó làm tăng nhu cầu về bảo hiểm


và các dịch vụ tài chính khác và do đó làm tăng quy mơ của hệ thống tài chính. Ở một
vài nghiên cứu khác, các tác giả cũng chứng minh được độ mở thương mại có tác
động tích cực đến phát triển tài chính ở một số quốc gia, ví dụ như: Omid (2010) với
trường hợp của Iran, Paul & Camara (2013) trong trường hợp của Ghana và Ramez &
Hooi (2017) đối với trường hợp của Yemen,...

Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu khác cho thấy sự khơng tác động hoặc
tác động ngược lại của độ mở thương mại lên phát triển tài chính có thể kể đến như:
Quy Toan & Levchenko (2004) trong bài viết: “Thương mại và phát triển tài
chính” cho rằng độ mở thương mại sẽ tác động khác nhau lên phát triển tài chính giữa
nước giàu và nước nghèo. Ở các nước giàu, độ mở thương mại sẽ tác động tích cực
đến sự phát triển tài chính vì các nước này chun về hàng hóa phụ thuộc tài chính.
Trong khi đó, độ mở thương mại tăng sẽ làm suy giảm quy mô của hệ thống tài chính
ở các nước nghèo, vì họ nhập khẩu hàng hóa phụ thuộc tài chính thay vì sản xuất
trong nước.
Hay nghiên cứu của Dogga, Suresh and Amaresh (2014) về “Độ mở thương
mại, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế - Trường hợp Ấn Độ (1971-2012)” lại
cho rằng: độ mở thương mại không tác động đến cả phát triển tài chính và tăng trưởng
sản lượng trong nước nên tốt hơn là triển khai các nguồn lực để tạo ra nhu cầu nội địa
bền vững thay vì tập trung nhiều hơn vào mặt trận bên ngồi nói chung và độ mở
thương mại nói riêng.
❖ Tác động của lạm phát đến phát triển tài chính:
Lạm phát đã được các nhà nghiên cứu chứng minh là có tác động đến phát triển
tài chính và hầu hết các kết quả đều cho rằng lạm phát càng cao thì càng giảm phát
triển tài chính. Minh chứng cho điều đó, trong bài nghiên cứu “Chính sách tài chính,
tăng trưởng và hiệu quả” Alan H. Gelb (1989) đã chỉ ra rằng lạm phát có tác động âm
lên độ sâu tài chính. Tương tự, Paul Owusu Takyi và Camara Kwesi Obeng (2013)
trong bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại Ghana” đã
đưa ra kết luận rằng lạm phát tác động tiêu cực đến phát triển tài chính tại Ghana cả
trong ngắn hạn và dài hạn. Và Shabbir, B., Jamil, L., Bashir, S., Aslam, N., & Hussain,
M. (2018) cũng đưa ra kết quả như vậy khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát


triển tài chính - trường hợp Pakistan.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, lạm phát cũng được chứng minh có tác
động cùng chiều với phát triển tài chính. Có thể kể đến nghiên cứu của Khan (2002)

về đề tài “Lạm phát, độ sâu tài chính và tăng trưởng kinh tế”, tác giả chỉ ra rằng với
một mức tỷ lệ lạm phát (thấp hơn 5% đối với các nước công nghiệp và 18% đối với
các nước đang phát triển), sự gia tăng khiêm tốn trong lạm phát có thể khuyến khích
hoạt động và thúc đẩy phát triển tài chính.
Trong luận văn nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính ở
Iran và liệu chính sách tài khóa có tác động đáng kể đến phát triển tài chính ở Iran hay
không?”, Omid (2010) đã chỉ ra rằng, tại Iran trong giai đoạn 1965-2006, lạm phát
tăng lên một khoảng nhất định sẽ khuyến khích các hoạt động và cải thiện phát triển
tài chính hơn là kiềm hãm nó.
Ramez Abubakr Badeeb và Hooi Hooi Lean (2017) nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển tài chính tại Yemen, bằng chứng từ phương pháp tiếp cận thành
phần chính (PCA) lại cho rằng việc lạm phát ảnh hưởng đến phát triển tài chính theo
cùng chiều hay ngược chiều là do việc lựa chọn chỉ tiêu đo lường phát triển tài chính
trong bài, cụ thể lạm phát tác động tiêu cực đến phát triển tài chính nếu lựa chọn chỉ
tiêu tín dụng tư nhân/GDP nhưng sẽ tác động tích cực nếu lựa chọn chỉ tiêu đo lương
là: M2/GDP hay tiền gửi/GDP.
❖ Tác động của GDP bình qn đến phát triển tài chính:
Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng thu nhập bình quân đầu người sẽ tác
động tích cực đến phát triển tài chính.
Nghiên cứu của Alan. H. Gelb (1989) về “Chính sách tài chính, tăng trưởng và
hiệu quả” là một trong những nghiên cứu đầu tiền chứng minh việc tác động của thu
nhập bình quân đầu người lên phát triển tài chính là tích cực.
Tương tự, trong bài viết “Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính tại
Ghana”, Paul Owusu Takyi và Camara Kwesi Obeng cũng chứng minh được mối quan
hệ giữa thu nhập bình quân và phát triển tài chính là tương quan dương.
❖ Tác động của nợ cơng đến phát triển tài chính:
Ngược lại thu nhập bình quân đầu người, hầu hết các nghiên cứu lại cho rằng



×