Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Quyền và nghĩa vụ của hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự qua thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh đắk lắk (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.6 KB, 57 trang )

ịl

...
ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHƠ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜN G ĐẠI HỌ C KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ NHỊ

QUYỀ V Ĩ VỤ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG PHÁP LUẬT T TỤNG DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
••••
ÁP DỤ RÊ ỊA BÀN TỈ ẮK LẮK
••

LUẬ VĂ

SĨ L ẬT H C

TP. H CHÍ MINH - 2019


ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHƠ HỒ CHÍ MINH
RƯỜ I H C KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ NHỊ

QUYỀ V Ĩ VỤ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG PHÁP LUẬT T TỤNG DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
••••
ÁP DỤ RÊ ỊA BÀN TỈ ẮK LẮK
••


Luật dân sự và Tố tụng dân sự
60.38.01.03

L Ậ VĂ SĨ LUẬT H C

ƯỜ Ư S NGƠ HỒNG OANH

TP. - 2019


LỜI
Người viết xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của chính người viết, các
số liệu, các nội dung hoặc tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ
ràng, các phân tích, đánh giá hoặc phát hiện trong luận văn thạc sĩ này là kết quả
nghiên cứu của chính người viết.
TÁC GIẢ

NGUYỄN THỊ NHỊ


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Diễn giải

TTDS

Tố tụng dân sự


2
3

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

HTND

Hội thẩm nhân dân

4

TAND

Tòa án nhân dân

1


MỤC LỤC
LỜ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


6


MỞ ẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công đã ghi thêm một trang sử vẻ vang, chói lọi
của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Để giữ được thành quả cách mạng
non trẻ lúc bấy giờ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng h a dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã nhanh chóng tổ chức, xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng, để duy trì ổn
định trật tự xã hội, thực thi quyền lực Nhà nước, trong đó có T a án. Ngày 13/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký an hành sắc lệnh số 33C thiết lập các Tòa án quân sự,
đánh dấu sự ra đời của Ngành Tòa án Việt Nam. Sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh
tế, đời sống của nhân dân ngày càng phát triển về mọi mặt, chính trị trong nước được
ổn định. Đạt được kết quả trên là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết
của toàn Đảng toàn dân ta. Bên cạnh những thành tựu kinh tế, chính trị, tình hình tội
phạm, vi phạm pháp luật và các tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức diễn ra ngày
càng đa dạng và phức tạp. Các loại tội phạm xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như:
Xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
quyền sở hữu của công dân... Các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp hơn: Như
quan hệ nhân thân; quan hệ tài sản; quan hệ lao động; quan hệ hơn nhân gia đình,
quan hệ trong lĩnh vực kinh tế.. Vì vậy hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối
quan hệ dân sự, hình sự, hành chính, thương mại.được Quốc hội hết sức quan tâm,
ban hành và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều chế định pháp luật không đi
trước đón đầu được, đây là những vướng mắc cho quá trình quản lý và duy trì trật tự
xã hội hiện nay.
Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước những năm qua,
ngành Tư pháp nước ta đã từng ước hoàn thiện, nâng cao chất lượng xét xử theo tinh
thần Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Lịch sử
phát triển của nền tư pháp nước ta từ năm 1945 đến nay cho thấy, Hội thẩm giữ vai
trò rất quan trọng trong trong hoạt động xét xử của Tòa án. Cụ thể: Khi tham gia xét



7

xử hội thẩm được quyền nghiên cứu hồ sơ, được quyền đề xuất với Chánh án, Thẩm
phán ban hành các quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án và đặc biệt là
ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội
đồng xét xử, đảm bảo việc tuyên án của T a án đúng pháp luật. Đội ngũ Hội thẩm
qua nhiều thế hệ đã cùng với các Thẩm phán luôn luôn song hành với nhau để thực
hiện nhiệm vụ cao cả, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, ảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, các tổ chức xã hội. Sự hiện diện của HTND
trong xét xử và kết quả hoạt động của Hội thẩm lại càng thêm khẳng định rằng, nhân
dân ln phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư pháp, thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Quá trình tổng kết hoạt động xét xử hàng năm, hầu hết các bản án, các
quyết định của T a án được an hành đúng pháp luật, hồn tồn khách quan, dân chủ,
đạt tình, đạt lý, bản án tun có tính thuyết phục cao. Những thành tựu trong quá
trình xét xử của cơ quan t a án với sự tham gia tích cực và có hiệu quả của HTND đã
tơn vinh thêm vị trí, vai trị và uy tín của T a án, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thực tiễn cơng tác xét xử cịn có
tồn tại cho thấy khơng ít Hội thẩm chưa phát huy hết khả năng quyền và nghĩa vụ
của mình. Việc khơng phát huy hết vai trò của HTND là do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong đó có thể kể đến:
- Nhiều HTND xem việc tham gia xét xử tại Tịa án chỉ là cơng tác kiêm
nhiệm nên không chuẩn bị thời gian nghiên cứu hồ sơ dẫn đến không nắm bắt được
các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hậu quả là khi tham gia xét xử phụ thuộc rất nhiều
vào ý kiến của Thẩm phán - Chủ Tọa phiên tịa.
- Trình độ nhận thức về pháp luật chưa cao: Không thiếu những vị HTND do
trình độ nhận thức về pháp luật và kiến thức xã hội còn hạn chế nên trong quá trình
tham gia xét hỏi khơng đặt ra được những câu hỏi sát với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn hay yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

dẫn đến không làm sáng tỏ được các tình tiết của vụ án. Do đó khơng phát huy được
hết quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm khi tham gia xét xử được quy định tại điều 49


8

của BLTTDS.
- Ngồi ra cịn có nhiều ngun nhân bất cập khác dẫn đến việc các Hội thẩm
khi tham gia phiên Tịa khơng phát huy hết quyền và nghĩa vụ của mình đó là: Bất
cập trong việc bổ nhiệm hội thẩm; chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với HTND còn
chưa phù hợp, hoạt động của HTND chỉ dựa vào ý thức trách nhiệm của cá nhân dẫn
đến tâm lý của các hội thẩm khi tham gia xét xử theo hướng “tham gia cho có” hoặc
có nhiều hội thẩm khơng muốn tham gia xét xử.
Vì vậy, cần xem xét lại một cách khách quan các quy định của pháp luật về
chế định pháp luật về HTND và thực tiễn công tác xét xử với sự tham gia của HTND
để có một cái nhìn tổng quan về quyền và nghĩa vụ của HTND trong hoạt động xét
xử của T a án, cũng như mong muốn tìm ra một số nguyên nhân, hạn chế trong hoạt
động xét xử của HTND hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của HTND trong hoạt động xét xử của Tịa án. Do đó
học viên chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của HTND trong pháp luật TTDS qua thực
tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ luật dân sự và TTDS.
2. Tình hình nghiên cứu
“Quyền và nghĩa vụ của HTND” không c n là vấn đề mới, trong thời gian qua
đã có rất nhiều những bài viết, những cơng trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề có
liên quan đến HTND như:
- Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nhung San “Khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS”, năm 1995, Đại học luật Hà
Nội;
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Hồng Phương “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, năm 2011, Đại học quốc gia Hà

Nội.
- Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Huệ “Nâng cao vai tr của Thẩm phán và
HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự”, năm 2015, Đại học quốc
gia Hà Nội;


9

- Luận văn thạc sĩ của Hồ Thị Minh Hạnh “Vị trí vai trị của HTND trong
hoạt động xét xử từ thực tiễn TAND tỉnh Thanh Hóa”, năm 2017, Đại học luật Hà
Nội;
- Cao Việt Thắng (2010), Bàn về vai trò của chế định HTND ở nước ta hiện
nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật;
- Trần Văn Kiểm (2011), “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và
HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 1(186);
- Đỗ Thị Phương (2012), “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử của Tòa án”, đề tài nghiên cứu khoa học, Viện khoa học xét xử - TAND tối cao;
Những cơng trình nghiên cứu kể trên là các tài liệu tham khảo hữu ích giúp
cho quá trình thực hiện Luận văn của tác giả. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu
trên hầu như nghiên cứu về những vấn đề chung, cơ ản các quy định về chế định của
HTND như khái niệm HTND, tiêu chuẩn HTND, thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm, nhiệm kỳ HTND, trách nhiệm và quyền hạn của HTND. Chưa có cơng trình
nghiên cứu chun sâu giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của HTND và thực tiễn áp dụng quyền và nghĩa vụ của HTND trên thực tế vẫn
còn nhiều bất cập và đưa ra những giải pháp thích hợp để được thực thi có hiệu quả
hơn. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài “Quyền và nghĩa vụ của HTND trong
pháp luật TTDS qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là điều cần thiết.
3 i tượng và mục đíc của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài là quyền và

nghĩa vụ của HTND trong pháp luật TTDS. Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, luận
văn nêu lên những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của HTND, có sự so sánh về
cơ sở pháp lý qua các thời kỳ, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta hiện nay và việc áp
dụng trong thời gian tới tại Việt Nam. Những khó khăn và thuận lợi tác động tới việc
áp dụng, từ đó đưa ra một số kiến nghị hồn thiện góp phần vào q trình nghiên cứu
cũng như trên thực tế.


10

4 ơ ở lý luậ v p ươ p áp iê cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm định hướng của Đảng về quyền và nghĩa vụ của
HTND tham gia hoạt động xét xử của Tòa án.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến cụ thể:
Nghiên cứu, tổng hợp các quy định của pháp luật, các cơng trình nghiên cứu
hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của HTND trong pháp luật TTDS tại Chương 1;
So sánh các quy định pháp luật về HTND qua các thời kỳ, so sánh chế định
HTND với các quy định về chế độ Bồi thẩm đoàn trong luật của nước ngoài như Hàn
Quốc, Hoa Kỳ tại Chương 1;
Nghiên cứu, tổng hợp, thống kê các bản án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị
án, báo cáo tổng kết hoạt động của HTND; Khảo sát thực tế, quan sát việc thực hiện
các quy định của Thẩm phán, HTND được đúng không tại Chương 2.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung quyền và nghĩa vụ của HTND trong pháp luật
TTDS Việt Nam, luận văn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này trên phương diện lập
pháp và việc áp dụng trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những kiến nghị hồn
thiện, góp phần đảm bảo quyền và nghĩa vụ khi tham gia xét xử của HTND với tư
cách là người đại diện cho tiếng nói của xã hội, của nhân dân vào trong hoạt động

xét xử các vụ án dân sự tại Tòa án.
6. Kết cấu luậ vă
Luận văn có kết cấu gồm lời mở đầu, kết luận và được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quyền và nghĩa vụ của HTND
trong pháp luật TTDS Việt Nam.
Chương
2:trong
Thựchoàn
tiễn
thực
thi pháp
về quyền
và nghĩa
vụ
của HTND
các
kiến
nghị
phápthiện.
luật TTDS
trênluật
địa bàn
tỉnh Đắk
Lắk và


CHƯƠNG 1
Ữ VẤ Ề LÝ L Ậ VỀ YỀ V Ĩ VỤ Ủ
HTND R Á L Ậ TTDS V Ệ
1.1.


ái iệm v vai trò của HTND tro oạt độ t tụ của TAND

9 • • 9
• 9

1.1.1.

Khái niệm HTND trong TTDS

HTND là một chế định có vai tr quan trọng trong hoạt động xét xử của Tồ án
nói chung và hoạt động xét xử các vụ án dân sự nói riêng. Hội thẩm nhân dân là
người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Toà án. Tiếng nói
của Hội thẩm nhân dân trong q trình xét xử của Tồ án là tiếng nói của nhân dân.
Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của T a án được thể hiện
tập trung nhất thông qua chế định về HTND. Chế định Hội thẩm là sự bảo đảm
nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể
hiện bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là một chế định được ghi nhận trong tất cả các bản
Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Hội thẩm nhân dân” được hiểu là “ g i i đ ng nh n n
u a ng h i gian nh định ng v i h h n à nhi vụ vụ n y a địa h ng”2. Qua nội dung khái
niệm trên có thể thấy, Hội thẩm nhân dân là người được Hội đồng nhân dân ầu theo
nhiệm kỳ để thực hiện nhiệm vụ của họ cùng với Thẩm phán xét xử các vụ án thuộc
thẩm quyền của Toà án.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “Hội thẩm nhân dân” xuất phát từ thuật
ngữ “Hội thẩm”. Theo khoản 2, Điều 1, Pháp lệnh số 02 2002 PL- BTVQH 11, ngày
04 tháng 10 năm 2002 của an Thường vụ Quốc hội về Thẩm phán và Hội thẩm Toà
án nhân dân sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân
được định nghĩa, “ i h à ng i đ u h h uy định ủa h uậ đ à nhi vụ nh ng vụ n hu h uyền

ủa à n”.
2 Từ điển tiếng việt phổ thơng, NXB thành phố Hồ Chí Minh - 2002, chủ biên TS. Chu Bích

Thu.


Thuật ngữ “Hội thẩm” theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND ao gồm
“Hội thẩm nhân dân” và “Hội thẩm quân nhân”.
Với quy định trên, “Hội thẩm nhân dân”, thuộc hệ thống Toà án nhân dân
được hiểu là người được ầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử
những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân “Hội thẩm quân nhân” được
hiểu là người được cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ
án thuộc thẩm quyền xét của Toà án quân sự.
Tại Điều 3, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định: “ h đ u HTND
đ hự hi n đối v i à n nh n n địa h ng ”
Tham gia hoạt động xét xử tại Toà án nhân dân là các Hội thẩm được nhân
dân tín nhiệm được ầu lên, c n tham gia hoạt động xét xử tại Toà án quân sự là các
hội thẩm được đề cử.
h vậy, H i th m nhân dân trong tố tụng dân sự à ng i đ u h uy định ủa h uậ đ
à nhi vụ nh ng vụ n n ự hu h uyền ủa à n.
1.1.2.

Vai trò của HTND trong hoạt động xét xử của TAND

Do điều kiện sống, sinh hoạt, HTND là người gần dân nhất có điều kiện nắm
ắt và hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Là người làm việc, công tác trong rất
nhiều ngành nghề, lĩnh vực của xã hội nên HTND tích lu được khá nhiều kiến thức
chuyên môn trong các lĩnh vực. Với những kinh nghiệm sống và kiến thức của mình,
HTND giúp Thẩm phán đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, tồn
diện, chính xác hơn Giúp Hội đồng xét xử có thêm cơ sở cân nhắc trước khi đưa ra

quyết định. Như vậy có thể thấy HTND vừa là người đại diện cho nhân dân xác định
sự thật của vụ án một cách khách quan, vừa là người đại diện cho nhân dân phán xét
vụ án.
Việc đưa HTND vào Hội đồng xét xử sơ thẩm chính là đưa tiếng nói từ phía
xã hội vào trong q trình xét xử của Tồ án. Bởi lẽ, pháp luật chỉ là những khuôn
mẫu chung khá cứng nhắc được xây dựng trên sự đồng thuận theo t lệ mà xã hội
chấp nhận chứ không phải là sự đồng thuận tuyệt đối, cho nên pháp luật cũng không


phải là một giá trị tuyệt đối đúng để có thể áp dụng chung cho mọi trường hợp. Mặt
khác, pháp luật cũng chỉ là một loại quy phạm xã hội có giá trị áp dụng cao nhất chứ
khơng phải là tồn bộ các quy phạm xã hội và có thể thay thế các quy phạm xã hội
khác trong đời sống hàng ngày3. Do đó, cần có những tiếng nói từ phía người dân và
xã hội trong việc đưa ra các phán quyết có tính quyết định đối với một quan hệ xã
hội nào đó. Khi đó, các phán quyết của Tịa án mới được xem là “thấu tình, đạt lý”.
Hay nói cách khác, trong một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân dân,
vì nhân dân thì việc quy định về số lượng của HTND trong thành phần Hội đồng xét
xử cũng là thể hiện tính nhân dân của Nhà nước pháp quyền đó.
HTND có vai tr quan trọng trong tổ chức TAND nước ta, để bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân trong việc quản lý Nhà nước. Bản thân chế định Hội thẩm là
sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc", bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tịa án. Vì rằng, T a án là cơ quan quyền lực
nhà nước, Nhà nước thông qua T a án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình.
TAND thực hiện chức năng ảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, ảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng dân. Chính bằng hoạt động xét xử, Tịa
án giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phịng
và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân. HTND bằng sự tham gia của mình
vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thơng qua đó để nhân dân
tham gia một cách có hiệu quả vào cơng tác quản lý nhà nước nói chung, hoạt động

của Tịa án nói riêng.
Như vậy có thể thấy vai tr của HTND đầy trọng trách không chỉ có tính đại
diện mà cịn thực thi quyền lực tư pháp của nhân dân bằng việc tham gia hoạt động
xét xử của Tịa án. Vị trí vai trị của HTND được quy định rõ Tại Điều 103 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Tổ chức TAND: “ i h ủa à n nh n n i h ha gia ng h h
hủ ụ g n h h n i h đ ậ và hỉ u n h h uậ ghi uan h nh n an hi và vi ủa h h n i h ”.
3 Cao Việt Thắng (2010), Bàn về vai trò của ch định HTND n c ta hi n nay, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, tr.27-30.


Tư pháp với ý nghĩa chung nhất là ý tưởng về một nền công lý, đ i hỏi hoạt
động của Tòa án nhằm giải quyết mọi tranh chấp, xử lý mọi hành vi trái pháp luật
xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng và bảo đảm trật tự
k cương theo thể chế Nhà nước Hiến pháp và pháp luật quy định. Những người tiến
hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật và không trái với ý chí của nhân dân. Mọi quyết
định của T a án nhân danh Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và hiển nhiên là phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Pháp luật nước ta đã quy định chế định Hội thẩm
để nhân dân có thể trực tiếp tham gia hoạt động xét xử của T a án, đồng thời thơng
qua HTND để kiểm tra hoạt động đó. Theo quy định của pháp luật, Hội thẩm tham
gia trực tiếp trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án, cùng với Thẩm phán ra những
bản án và quyết định đúng pháp luật, hợp lý hợp tình. Muốn vậy thì những người làm
cơng tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chun mơn,
nghiệp vụ vững vàng, có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt
động xã hội. Việc HTND tham gia cơng tác xét xử của Tịa án là trực tiếp cung cấp
cho Tòa án những kinh nghiệm sống thực tế, khắc phục bệnh nghề nghiệp của các
Thẩm phán chuyên nghiệp trong khi xử án. Giúp cho việc xét xử của T a án được
chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng.
Mặt khác, Tòa án liên hệ với quần chúng nhân dân ở các đơn vị, cơ quan, cụm
dân cư thông qua hoạt động của Hội thẩm. Hội thẩm phản ánh cho Tòa án những ý

kiến của quần chúng đối với công tác của Tịa án nói chung và cơng việc xét xử nói
riêng, giúp cho quần chúng nhân dân hiểu rõ việc xét xử của T a án để giáo dục quần
chúng. Như vậy, không chỉ nâng cao tinh thần tự giác, tơn trọng, chấp hành và bảo vệ
pháp luật, mà cịn thực hiện được sự giám sát của quần chúng đối với việc xét xử của
T a án. Do đó việc thực hiện chế định HTND c n có vai tr tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Tòa án với đông đảo quần chúng nhân dân.
Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của T a án ngày càng được nâng
cao và được nhân dân tin cậy, ủng hộ. Bởi, kinh nghiệm thực tế cho thấy những
người được cử hoặc được bầu làm Hội thẩm là những người có uy tín trong xã hội,


được quần chúng tín nhiệm và có một ảnh hưởng nhất định trong xã hội, họ thường
là những người có lối sống gương mẫu, có phẩm chất tốt, là tấm gương trong lao
động, công tác, được nhân dân tin cậy vào sự công minh và vô tư của họ.
Bên cạnh đó, vai tr của Hội thẩm khơng chỉ dừng lại ở tham gia hoạt động xét
xử và đưa ra những phán quyết đúng pháp luật mà còn giúp Tòa án làm tốt cơng tác
tun truyền pháp luật, hoặc chính bản thân Hội thẩm cũng tranh thủ mọi thời gian,
hoàn cảnh để tuyên truyền phổ biến pháp luật nâng cao ý thức chấp hành chủ chương
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong nhân dân. Góp phần
nhất định trong việc giữ gìn "tình làng nghĩa xóm", ổn định xã hội.
Vì vậy, HTND cần có nhận thức đúng đắn mà xác định rõ vị trí trách nhiệm
của mình để làm tốt công tác Hội thẩm, khắc phục tư tưởng tham gia xét xử chỉ là
hình thức, hoặc khơng muốn tham gia khi được bầu làm Hội thẩm.
1.2.
1.2.1.

uá trì ì t v p át triể quy đị về HTND tro oạt độ xét xử của TAND
Giai đoạn 1945 đến 1975

Chế định Hội thẩm ở nước ta xuất hiện cùng với sự ra đời của Tòa án quân sự

và TAND. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng h a ra đời, việc tham gia
của người dân vào hoạt động xét xử tại Tòa án đã được quy định tại nhiều văn bản
pháp luật. Trong quá trình xét xử, không thể thiếu thành phần xét xử là HTND.
Từ những năm 1945-1950, đây là thời kỳ đầu của chính quyền non trẻ mới
được thành lập từ sau cách mạng Tháng Tám thành cơng. Có thể nói đây là giai đoạn
lịch sử thăng trầm, đặc trưng nhất của đất nước ta với nhiều định hướng phát triển về
thể chế được tìm tịi, khảo nghiệm và từng ước định hình. Trong đó, năm 1950 là
năm đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng của nền Tư pháp Việt Nam với sự ra đời
của một thiết chế tư pháp mang tính chất nhân dân sâu sắc được thể hiện qua sự thay
đổi tên gọi mới: TAND.
Sắc lệnh số 13/SL, ngày 24-1-1945 ra đời, đây là văn ản pháp luật đầu tiên
quy định việc tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây cũng là văn ản đầu tiên
ghi nhận sự tham gia của nhân dân vào trong hoạt động xét xử của Tòa án với tên gọi


"Phụ thẩm", sắc lệnh này quy định tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm
cũng như việc tuyển cử, tham gia của Phụ thẩm vào hoạt động xét xử của T a án.
Thêm vào đó ngày 09 11 1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành đã
chính thức ghi nhận sự tham gia của Phụ thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử:
"Trong khi xét xử việc hình thì phải có Phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến
nếu là việc tiểu hình hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình" 4. Phụ
thẩm nhân dân do Ủy ban lựa chọn, Hội đồng nhân dân chuẩn y.5 Phụ thẩm nhân dân
thiểu số đối với thành phần chuyên môn trong hội đồng xét xử: Hai phụ thẩm nhân
dân, ba thẩm phán chun mơn và Phụ thẩm nhân dân chỉ có quyền biểu quyết trong
những việc Đại hình mà khơng có quyền tham gia trong những việc hộ.6
Nói chung, tinh thần Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1943 là đặt ra những Tịa án
chỉ gồm có thành phần chun mơn mà thơi. Phụ thẩm nhân dân khơng có tính cách
nhân dân rõ ràng. Hơn nữa phụ thẩm nhân dân phụ thuộc hoàn tồn vào thành phần
chun mơn.
Nhận rõ những khuyết điểm đó, Bộ Tư pháp đã xây dựng lý luận Tư pháp

nhân dân thông qua việc “đã phá lập trường quan niệm phương pháp của pháp lý cũ,
rồi sau đó đưa lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn kháng chiến Việt Nam, theo hướng
tiến của Chính quyền Dân chủ Nhân dân Việt Nam mà xây dựng nền pháp lý mới”.
Đánh dấu cho việc cải cách đổi mới về tư tưởng này đó là sự ra đời của một thiết chế
tư pháp với tên gọi “TAND” gắn liền với việc ban hành Sắc lệnh 85-SL ngày 22-51950 cải cách bộ máy tư pháp và luật Tố tụng, đây là Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký. TAND khơng chỉ thuần túy là sự thay đổi về tên gọi trước đây là t a án sơ
cấp, t a án đề nhị cấp mà trước hết đây là kết quả của cuộc “cải cách” tư tưởng, quan
niệm mới về nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Sự ra đời với tên gọi TAND đã mang một
bản chất khác, nhân dân hơn, cách mạng hơn. Một trong những điểm nhấn của Sắc
lệnh này làm thay đổi về chất của cơng tác Tư pháp chính là sự vận dụng lý luận
Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành một cơ chế mang
4Điều thứ 65, Hiến pháp năm 1946.
5Điều thứ 18, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1943.
6Điều thứ 28 và Điều 33, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1943.


tính nhân dân, thể hiện bản chất nhân dân của nhà nước ta, đó là chế định HTND,
thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 trước đây. TAND gồm có
thành phần vừa chun mơn vừa nhân dân. HTND, đại diện cho thành phần nhân dân
nó có tính cách nhân dân hơn vì họ do Hội đồng nhân dân trực tiếp hay gián tiếp bầu
ra.
Sau đó là một loạt các văn ản ra đời nhằm hoàn thiện chế định HTND bao
gồm: Sắc lệnh số 151/SL ngày 17/11/1950 về đặt thể lệ chỉ định các HTND và định
thành phần TAND liên khu trong trường hợp đặc biệt; Sắc lệnh số 156/SL ngày
22/11/1950 về tổ chức TAND liên khu, Sắc lệnh số 12/SL ngày 30/03/1957 và thông
tư số 02 P/4 ngày 05/02/1952 của Bộ tư pháp sửa đổi bộ phận chế định HTND. Với
những văn ản trên thì quy định HTND tham gia xét xử tại Tòa án được tăng lên tùy
theo cấp xét xử, như ở Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh, Hội đồng xét xử gồm một
Thẩm phán và hai HTND; ở Tòa án cấp phúc thẩm khu hoặc thành phố Hội đồng xét
xử gồm hai Thẩm phán và ba HTND. Quyền hạn và nghĩa vụ được mở rộng như:

HTND được quyết định tất cả các vấn đề trong xét xử vụ án từ giai đoạn nghiên cứu
hồ sơ cho đến biểu quyết về tội danh và hình phạt, được TAND tỉnh, thành phố triệu
tập cuộc họp để phổ biến nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, trao đổi về lịch công
tác được bồi dưỡng nghiệp vụ, được dự họp tổng kết của Tòa án.
Về hình thức lựa chọn, HTND được quy định trong các sắc lệnh số 151/SL
ngày 17/11/1950, Sắc lệnh số 156/SL ngày 22/11/1950, Nghị quyết của Hội đồng
chính phủ tháng 09/1951, tháng 09 1952 và thông tư 138 HCTP ngày 23 11 1957 của
Bộ tư pháp. Theo các văn ản này, HTND được Hội đồng nhân dân lựa chọn chủ yếu
theo hình thức bầu, trong trường hợp đặc biệt HTND Tịa án liên khu có thể do Bộ
trưởng bộ tư pháp chỉ định theo đề nghị của Ủy ban hành chính liên khu hoặc chọn
trong đại biểu đoàn thể thuộc Mặt trận Tổ quốc khu hoặc tỉnh.
Nhằm củng cố, phát huy vai trị của chính quyền dân chủ nhân dân trong giai
đoạn cách mạng mới, ngày sau khi kháng chiến chống thực dân pháp thành công,
miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thì các quy định về
HTND tiếp tục được hoàn thiện hơn. Địa vị pháp lý của HTND được ghi nhận trong


hiến pháp 1959, Luật tổ chức TAND năm 1960 và các văn ản pháp luật khác.
Nguyên tắc xét xử có HTND tham gia, nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập 7 đã chính
thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1959; HTND ngang quyền với Thẩm phán trong
hoạt động xét xử8 trong luật tổ chức TAND năm 1960. Việc tham gia xét xử của
HTND ở các cấp Tòa án theo Luật tổ chức TAND năm 1960 cũng được mở rộng hơn
so với các quy định trước đây. HTND chủ yếu tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, còn
cấp phúc thẩm, HTND chủ yếu tham gia trong trường hợp đặc biệt; thành phần Hội
đồng xét xử sơ thẩm gồm có một Thẩm phán và hai HTND trường hợp xét xử những
vụ án nhỏ, đơn giản và khơng quan trọng thì có thể khơng có HTND tham gia.
1.2.2.

Giai đoạn 1976 đến 1988


Bước vào giai đoạn mới, sau khi đất nước dành được độc lập, thống nhất hai
miền năm 1975. Cả nước bắt đầu tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, khắc phục
hậu quả sau nhiều năm ị chiến tranh tàn phá, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế,
Đất nước đứng trước yêu cầu mới về cải cách về mặt thể chế chính trị, cải cách nền
dân chủ, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong quản lý nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cùng với
việc phát huy các mặt tích cực ở các giai đoạn trước đó trong việc tăng cường tính
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức
TAND tiếp tục ghi nhận sự tham gia xét xử của HTND qua các nguyên tắc: HTND
ngang quyền với Thẩm phán9; Xét xử tập thể và quyết định theo đa số10. Đối với
nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật11 đã xác định rõ chủ thể thực
hiện hoạt động xét xử là Thẩm phán và HTND, khác so với Hiến pháp năm 1959 xác
định chủ thể chung ở đây là T a án.
Tiêu chuẩn bầu chọn, hình thức lựa chọn HTND ở từng cấp tòa, nhiệm vụ,
quyền hạn của HTND được quy định tại Chương III luật tổ chức TAND năm 1981.
Tiêu chuẩn đối với HTND ở giai đoạn này cũng khá đơn giản đó là "Cơng dân Việt
7Điều 99, Điều 100 Hiến pháp năm 1959.
8Điều 11 Luật tổ chức TAND năm 1960.
9Điều 130 Hiến pháp 1980 Điều 4 Luật tổ chức TAND năm 1981
10
Điều 132 Hiến pháp 1980 Điều 7 Luật tổ chức TAND năm 1981
11
Điều 131 Hiến pháp 1980 Điều 7 Luật tổ chức TAND năm 1981


Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân". Về
hình thức bầu chọn Hội thẩm ở mỗi cấp t a có quy định khác nhau: HTND TAND tối
cao do Hội đồng Nhà nước cử, theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung
ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam; HTND TAND địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam ở địa phương.

Nhiệm vụ của HTND là tham gia cơng tác xét xử của Tịa án; quyền lợi, chế độ của
HTND là được bồi dưỡng về nghiệp vụ và được hưởng phụ cấp khi tham gia xét xử.
Có thể nói giai đoạn này các nguyên tắc trong hoạt động xét xử đã được ghi
nhận và quy định rõ hơn trong hiến pháp, cũng như các văn ản khác. Quyền hạn của
Hội thẩm được mở rộng hơn quy định cụ thể về mức độ tham gia và số lượng HTND
được tham gia trong từng vụ án, từng cấp xét xử. Điều này thể hiện Nhà nước ta đã
nhận thức đúng đắn vai tr đại diện và giám sát của HTND trong hoạt động xét xử.
1.2.3.

Giai đoạn 1989 đến nay

Giai đoạn này tiếp tục hoàn thiện chế định HTND tham gia xét xử tại Tịa án,
do đó có nhiều văn ản quy định về HTND như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
được sửa đổi bổ sung năm 2000 , Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm
2001), Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh Thẩm phán và HTND năm 1993, Pháp lệnh
Thẩm phán và HTND năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011 , Luật tổ chức T a
án năm 2002 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011 , luật tố tụng hành chính năm 2010, Quy chế tổ chức và hoạt động
của Hội thẩm TAND năm 2005, Bộ luật dân sự 2015, BLTTDS 2015, Bộ luật hình sự
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Những văn ản
này đã cụ thể hóa thành những quy định về vị trí, vai tr cũng như nhiệm vụ, quyền
hạn của HTND trong từng lĩnh vực tố tụng cụ thể.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. HTND tham gia xét xử kể từ khi có quyết
định xét xử cho đến khi kết thúc vụ án, được nghị án, thảo luận và biểu quyết tất cả
các vấn đề liên quan đến vụ án thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.


Tuy nhiên trong lĩnh vực TTDS số lượng HTND tham xét xử ở cấp sơ thẩm
phụ thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của từng vụ án: "Hội đồng

xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có
tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai thẩm phán và
ba HTND. Đối với vụ án mà bị cáo bị truy tố, xét xử về một tội có khung hình phạt
cao nhất là tử hình, thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba HTND".
1.3.

ái quát về c ế đị HTND của một ước

Việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã
hội nói chung và cơng tác xét xử của Tịa án nói riêng là yêu cầu quan trọng trong
một nhà nước tiến bộ. Ở các nước theo hệ thống thơng luật, có chế định về Bồi thẩm
đoàn. Ở những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Hội đồng xét xử có
thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chun nghiệp hoặc
Thẩm phán và HTND. Nói chung, hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công
tác xét xử của T a án cũng có sự khác nhau ở mỗi nước. Thơng qua việc tìm hiểu chế
độ tư pháp của một số Quốc gia để hiểu rõ thêm cơ cấu và chế định HTND của các
nước. Cụ thể:
Tại Hàn Quốc, chế độ tư pháp được xây dựng và thiết lập dựa trên nguyên tắc
“Tam quyền phân lập”. Để thực hiện quyền lực được giao, Tòa án Hàn Quốc được tổ
chức thành 3 cấp: Tòa án tối cao; Các tòa án cấp cao (bao gồm: Tòa án cấp cao
Seoul, Tòa án cấp cao Daejeon, Tòa án cấp cao Daegu, Tòa án cấp cao Busan và Tòa
án cấp cao Gwangju Các t a án địa phương.
Ngồi ra Hàn Quốc cịn có một số t a án đặc biệt như: T a án sáng chế đặt tại
thành phố Daejeon , 6 T a án gia đình và 01 T a án hành chính.
Việc xét xử sơ thẩm được thực hiện bởi 1 thẩm phán hoặc hội đồng 3 thẩm
phán của T a án địa phương. Hàn Quốc có thực hiện việc xét xử có sự tham gia của
cơng dân, chính là bồi thẩm viên của Bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, chế độ xét xử có bồi
thẩm đồn chỉ áp dụng trong một số vụ án, bồi thẩm đồn khơng phải là người xử án
và quyết định của bồi thẩm đoàn chỉ mang tính chất tham khảo, khơng có ý nghĩa ắt



buộc đối với hội đồng xét xử. Mặc dù ý kiến của bồi thẩm đồn khơng có ý nghĩa ắt
buộc đối với hội đồng xét xử, tuy nhiên trong thực tế xét xử của Hàn Quốc hầu như
các ý kiến của bồi thẩm đoàn đều được hội đồng xét xử chấp nhận.
Tại Hoa Kỳ, hệ thống pháp luật áp dụng cho hầu hết các tội về hình luật và
dân luật, được phân xử dựa trên căn ản phán quyết của ồi thẩm đoàn, ngoại trừ một
số nhỏ chỉ dựa trên phán quyết của người Thẩm phán hoặc Chánh án.
Xét xử theo thủ tục Bồi thẩm đoàn trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ được
thực hiện bởi 3 loại: Đại bồi thẩm đồn, Tiểu bồi thẩm đồn xét xử án hình sự và
Tiểu bồi thẩm đoàn xét xử án dân sự. Việc xét xử của các Bồi thẩm đoàn tại các Tòa
án liên bang và của các ang được bảo đảm bởi hiến pháp Hoa Kỳ.
Xét xử Bồi thẩm đồn nói chung chỉ được tiến hành khi một bên trong vụ
kiện dân sự hoặc bị cáo trong vụ án hình sự cho rằng việc lựa chọn của họ là có lợi
nhất. Theo pháp luật Hoa Kỳ, Thẩm phán thường giải quyết những vấn đề liên quan
đến việc áp dụng pháp luật, giải thích ngun tắc luật, cịn Bồi thẩm đồn xem xét
những vấn đề liên quan đến giải quyết một tranh chấp hay tranh cãi giữa các bên về
sự đúng đắn, sự chân thực của một sự việc.
Mỗi thành viên của Bồi thẩm đồn là một cơng dân ình thường như mỗi
chúng ta và người đó phải là người khơng hề có kiến thức hoặc sống bằng nghề liên
quan tới luật pháp. Sau khi đã được mời vào t a, trước khi phiên tòa bắt đầu, trợ lý
quan tòa sẽ bỏ tên của người được chọn thông thường là 30 người được chọn) vào
trong một cái hộp. Sau đó ốc thăm ra chọn ra 20 người, 20 người được chọn sẽ đứng
lên cho luật sư hai ên thấy mặt mũi rõ ràng.
Trong việc chọn ra 12-15 người cho vụ kiện hình sự quan tịa khơng can dự
vào chỉ ngồi đó xem để bảo đảm rằng thủ tục này làm đúng luật. Quan tịa khơng
đụng đến Bồi thẩm cho đến khi họ đã được chọn ra và ngồi vào ghế bồi thẩm. Sau đó
là luật sư mỗi ên, khơng quan tâm đến bất cứ vì lý do gì, có quyền gạch tên 3-4
người đã chọn ra. Như vậy là còn lại 12 người. Lý do mà có thể chọn 15 người là vì
trong vụ kiện kéo dài vài ngày ở tịa, lỡ có Bồi thẩm bị bệnh thì 15 có thể cịn lại 12



nhưng không được dưới 10.
Sau khi xong và chọn ra một người đứng đầu Bồi thẩm đồn rồi, quan tịa sẽ
hướng dẫn tường tận cho các bồi thẩm viên biết phải làm gì. Khơng một ai được
phép liên hệ với bồi thẩm viên, ngồi quan tịa - nếu khơng hiểu gì phải hỏi quan tịa.
Bồi thẩm viên khơng được phép thảo luận với bất cứ ai ngoài các bạn bồi thẩm và
khơng được phép đem giấy tờ ra khỏi phịng xử. Không phải, Bồi thẩm phải làm theo
hướng dẫn của quan tịa và họ chỉ tự do có quyền phán quyết về các chứng cứ của
một vụ án trong khi quan tòa là phán quyết về mặt pháp lý. Hai bên cứ vô tư cãi
nhau, đem hết bằng chứng cho bồi thẩm đoàn nghe. Xong Bồi thẩm đoàn sẽ quyết
định là ai đúng ai sai.
Sau khi nghe xong bồi thẩm đoàn sẽ họp quyết định để đưa ra phán quyết.
Trong hình sự bắt buộc nếu muốn phán có tội phải khơng có ai trong 12 người có
nghi ngờ về các chứng cứ. Nếu có nghi ngờ thì bị cáo sẽ vơ tội. Nếu nhất trí thì bị
cáo có tội. Từ đây Bồi thẩm kết thúc nghỉ khỏe đến phiên quan tòa sẽ phán bị bị phạt
tù ra sao. Trong lúc xử, quan tịa sẽ giải thích cho Bồi thẩm hiểu (vì họ khơng có khả
năng luật pháp)12.
Các Bồi thẩm chỉ tham gia xét xử từng vụ kiện. Sau mỗi vụ kiện, Bồi thẩm
đồn sẽ giải tán và Tịa án lại tiếp tục thành lập một Bồi thẩm đoàn khác cho vụ kiện
mới. Tham gia với tư cách Bồi thẩm đoàn, người được chọn sẽ được trả một khoản
thù lao nhưng không đáng kể. Các Bồi thẩm được chọn phải thỏa mãn một số điều
kiện quy định tối thiểu liên quan đến những vấn đề như quốc tịch, quyền bầu cử, giấy
phép lái xe, tuổi tác, sức khỏe và tính vơ tư. Nhìn từ những thành cơng mà ngành tư
pháp của Hoa Kỳ đã đạt được. Có thể khẳng định rằng chế định bồi thẩm đoàn vẫn
đang tồn tại như là một chế định đạt đến sự hiệu quả cao nhất trong việc xét xử.
Bồi thẩm đoàn hay HTND đều nhằm mag sự phán xét của người dân vào Tòa
án, nhưng xem xét k , chế độ bồi thẩm đoàn ở Hoa Kỳ khác chế độ HTND hiện hành
ở Việt Nam ở chỗ: Một bên sự lựa chọn mang đậm chất bình dân phổ thơng và ngẫu
12


04/11/2012.

Trần Quốc S (2012), “ thống b i th đ àn ủa Hoa Kỳ” kho tài liệu tổng hợp, ngày


nhiên, một ên mang tính cơ cấu để tham gia danh sách HTND; Một bên tham gia một
vụ án cụ thể bằng cách rút thăm, một ên được Chánh án lựa chọn theo ý chí của
chánh án; Một bên chỉ được quyền tham gia bày tỏ cảm nhận của người dân ở cơng
đoạn đầu của q trình xét xử, một ên được tham gia tồn bộ q trình xét xử, có
quyền quyết định về vụ án.
Với Hệ thống Tịa án của nước Anh: Hệ thống Tòa án Anh theo cấu trúc gồm
có Thượng nghị viện, Tịa phúc thẩm, Tịa án cấp cao, Tòa địa phương. Ở Anh, cấp
thấp nhất trong hệ thống Tòa án là Tòa địa phương, với thẩm quyền xét xử giới hạn
trong lĩnh vực dân sự, và thẩm quyền của Tòa án bao trùm một khu vực hành chính
nhất định. Tịa sơ thẩm (chia thành tịa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế và Tòa sơ
thẩm với thẩm quyền chung). Thường, Tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế giới hạn
xét xử những vụ việc ít nghiêm trọng, hình phạt tiền khơng q 1000 USD và hình
phạt tù khơng q 1 năm. Tịa sơ thẩm với thẩm quyền chung hoạt động như cấp
phúc thẩm, phúc thẩm lại các vụ việc từ cấp dưới. Tòa sơ thẩm cũng hoạt động theo
đơn vị hành chính. Ở nước Anh và xứ Wales, những người có tên trong danh sách
các cử tri đều có thể trở thành bồi thẩm đồn nếu đủ 21 tuổi. Mười hai vị bồi thẩm
(jurors) của vụ án được tuyển chọn theo may rủi. Mỗi vị bồi thẩm sẽ nhận được giấy
thông báo, nội dung cho biết mình được đề cử tham gia vào bồi thẩm đồn vào ngày
giờ, địa điểm. Giấy thơng báo khơng nói rõ chi tiết của vụ án và tên của những vị bồi
thẩm khác. Thông thường giấy thông báo phải được gửi đến các vị bồi thẩm trước 9
tuần lễ. Bồi thẩm đoàn hoàn toàn độc lập với vị thẩm phán hay thẩm phán đoàn. Khi
các vị bồi thẩm đã tuyên thệ, họ được luật pháp bảo vệ về sự độc lập của họ13.
Qua nghiên cứu chế định HTND ở một số nước, có thể thấy, hội thẩm của
nước ngồi được gọi là bồi thẩm đoàn. Ngoài điểm tương đồng với chế định HTND
của Việt Nam là bồi thẩm và hội thẩm đều là những người không được đào tạo

chuyên nghiệp về luật mà chỉ có những hiểu biết tương đối về luật đại diện cho tiếng
nói của nhân dân tham gia xét xử thì Bồi thẩm đồn của các nước có điểm khác biệt
khá lớn với HTND của Việt Nam. Điểm khác biệt ở đây chính là Bồi thẩm đồn
13

Luật thương gia 2015 , “Sự khác bi t h thống Tòa án Anh và Mỹ” ngày 11/08/2015.


được lựa chọn đậm chất bình dân phổ thơng và ngẫu nhiên vào danh sách ứng viên
làm bồi thẩm bằng cách bốc thăm và được tham gia toàn bộ quá trình xét xử như một
thẩm phán thực thụ. Cịn HTND thì mang tính cơ cấu, do hội đồng nhân dân hay
thẩm phán tuyển chọn. Trong tham gia xét xử, các hội thẩm bị hạn chế khá nhiều, chỉ
tham gia phát biểu cảm nghĩ hoặc chỉ được quyền tham gia bày tỏ cảm nhận của
người bình dân vào giai đoạn đầu của quá trình xét xử.
1.4.

uy đị của p áp luật TTDS về quyề v ĩa vụ của HTND

1.4.1.

Quyền, nghĩa vụ của HTND trước khi xét xử:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLTTDS 2015, HTND là một trong những
người tiến hành TTDS, có những quyền hạn, nghĩa vụ sau:
Để bắt đầu tham gia công tác xét xử các vụ án thì trước hết Hội thẩm chịu sự
phân cơng của Chánh án tịa án. Kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, HTND
được quyền tiếp xúc, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu vụ án trước khi mở phiên tịa. Qua
nghiên cứu, nếu thấy cần thiết thì Hội thẩm có quyền đề nghị Chánh án Tịa án,
Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền. Khi xét xử, HTND xét xử
độc lập và chỉ tuân theo các quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật

về những hành vi và quyết định của mình. Nhưng về mặt quản lý hành chính thì Hội
thẩm phải chịu sự quản lý, chỉ đạo, phân công của Chánh án t a án địa phương nơi
Hội thẩm được bầu tham gia công tác xét xử tại địa phương đó. Khi được Chánh án
Tịa án phân cơng nhiệm vụ xét xử, Hội thẩm có nghĩa vụ tham gia mà không được
từ chối.
Tuy nhiên, Hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ
đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự; hoặc họ đã
tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ việc đó hoặc
có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ; hoặc họ
cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau 14. Có thể nói đây là
14

Điều 51, Điều 52 BLTTDS 2015.


một quy định hợp lý của pháp luật, nhằm nâng cao trách nhiệm của người Hội thẩm
đối với công tác xét xử của Tòa án, khắc phục những trường hợp tùy tiện từ chối
tham gia xét xử của Hội thẩm và gắn với quản lý hành chính trong q trình tham gia
hoạt động xét xử tại Tòa án nhằm đảm bảo sự đại diện của nhân dân trong hoạt động
xét xử.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của BLTTDS quy định: Khi được Chánh
án Tịa án phân cơng, HTND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa.
Căn cứ vào điều luật viện dẫn nêu trên, sau khi được Chánh án tịa án phân
cơng tham gia xét xử đối với vụ án dân sự thì việc đầu tiên của Hội thẩm là nghiên
cứu hồ sơ vụ án, việc nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm là hết sức cần thiết để Hội thẩm
có thể nắm bắt được tồn bộ nội dung của vụ án, để khi tham gia xét xử sẽ có những
quyết định đúng đắn.
Trong q trình nghiên cứu hồ sơ, Hội thẩm phải làm rõ các vấn đề như:

Ngun đơn có quyền khởi kiện hay khơng T a án đã xác định đúng và đầy đủ tư
cách đương sự trong vụ án chưa Quan hệ pháp luật tranh chấp; Thẩm quyền giải
quyết vụ án; Thời hiệu khởi kiện; Phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Việc
nghiên cứu hồ sơ giúp cho Hội thẩm nắm vững nội dung, diễn biến của vụ án. Xác
định các loại tài liệu, chứng cứ, các tình tiết và hệ thống các chứng cứ của vụ án, để
từ đó có hướng giải quyết vụ án đúng pháp luật. Xác định vụ án đã đủ điều kiện để
quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa, phát hiện những vấn đề còn thiếu chứng cứ
hoặc chưa rõ cần phải làm rõ, những vấn đề nào mà các đương sự đã thống nhất,
những vấn đề nào cần phải chứng minh làm rõ thêm tại phiên tịa.
Trong q trình nghiên cứu hồ sơ, HTND trao đổi với Thẩm phán về các
thông tin liên quan đến các văn ản pháp luật áp dụng cho việc giải quyết vụ án mà
mình đang nghiên cứu. Qua đó nâng cao chất lượng xét xử và tranh tụng tại phiên t a,
đảm bảo xét xử đúng theo pháp luật.
1.4.2.

Quyền, nghĩa vụ của Hội Th m tại hi n tòa


×