Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Thừa kế theo pháp luật theo quy định của pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.18 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH , NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số:
60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN THỊ PHƯƠNG DIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN



Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các Bản án sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích
một cách trung thực, khách quan các quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế
theo pháp luật. Nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
TÁC GIẢ

Trần Thị Lệ Quyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Số TT

Chữ được viết tắt

Chữ viết tắt

1

Bộ luật dân sự

BLDS

2

Bộ luật dân sự năm 2015


BLDS 2015

3

Bộ luật dân sự năm 2005

BLDS 2005

4

Luật Hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

5

Tịa án nhân dân

TAND

6

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Bên cạnh chế định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, chế định về
hợp đồng, Thừa kế là một trong số những chế định quan trọng trong pháp luật dân sự
Việt Nam. Trước thời điểm Bộ luật dân sự năm 1995 có hiệu lực thi hành, chế định
thừa kế được quy định bằng một văn bản riêng biệt là Pháp lệnh thừa kế năm 1990.
Đến khi Bộ luật dân sự năm 1995 được thơng qua thì chế định thừa kế được quy định
chung trong pháp luật dân sự và hệ thống này vẫn được duy trì trong Bộ luật dân sự
2005 và gần đây nhất là Bộ luật dân sự 2015. Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy
định "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của cơng
dân". Tiếp đó, Điều 27 Hiến pháp năm 1980 đã có sự kế thừa và sửa đổi cho phù hợp
với thực tiễn ".. .Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân". Trải qua quá
trình phát triển, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận và khẳng định ".Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" tại Điều 58. Đến
ngày 01 tháng 01 năm 2014, một lần nữa, tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định
“ Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Như
vậy, ngay trong Hiến pháp, đạo luật gốc của hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền
thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được nhà nước bảo hộ.
Tại Việt Nam, thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa kế theo pháp luật và thừa
kế theo di chúc. Nếu thừa kế theo di chúc là sự chuyển dịch tài sản từ người chết cho
người sống theo ý chí của người để lại di sản thì thừa kế theo pháp luật là sự chuyển
dịch tài sản từ người chết cho người sống dựa trên các quy định của pháp luật. Thừa
kế theo pháp luật được quy định tại Điều 650 BLDS 2015, theo đó thừa kế theo pháp
luật áp dụng trong trường hợp người chết không để lại di chúc, di chúc không hợp

pháp, những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn
tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di


7

chúc mà khơng có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Thừa kế theo pháp
luật cũng được áp dụng đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
Các chế định về vấn đề thừa kế do Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ Luật dân
sự năm 1995, Bộ Luật dân sự năm 2005 luôn là một trong những vấn đề gây tranh
cãi do xung đột quyền lợi giữa các bên tham gia quan hệ ln là đề tài nóng của pháp
luật khi xử lý, giải quyết các tranh chấp phát sinh của các bên tham gia tố tụng. Ví dụ
như vấn đề thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết thì sử lý như thế nào đối với di
sản đó vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để; vấn đề từ chối nhận được thực hiện
trong một thời hạn cụ thể nhưng quy định này khó áp dụng trong thực tiễn vì nếu đã
hết thời hạn từ chối nhưng họ không muốn nhận thì cũng khơng thể bắt họ phải nhận
di sản...
Sau thời gian góp ý, xây dựng luật, ngày 24 tháng 11 năm 2015 Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thơng qua BLDS 2015 để thay thế Bộ Luật dân sự năm 2005 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Nhìn chung, BLDS 2015 quy
định tương đối cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ về chế định thừa kế. So với các quy định về
thừa kế trước đây thì chế định về thừa kế trong BLDS 2015 đã khắc phục được một
số bất cập, hạn chế như quy định về thời gian từ chối nhận di sản, quy định rõ ràng
về thời hiệu khởi kiện và hậu quả pháp lý của việc hết thời hiệu. Tuy nhiên bên cạnh
việc khắc phục những hạn chế của pháp luật trước, thì nhiều quy định cịn chưa đưa
vào xem xét nên những hạn chế chưa được khắc phục toàn diện, gây khó khăn trong
q trình áp dụng thực tiễn. Nhiều vụ án về thừa kế phải xét xử rất nhiều lần ở nhiều
cấp khác nhau và cá biệt có trường hợp mỗi lần xét xử đều cho ra kết quả giải quyết
hồn tồn khác nhau từ đó dẫn đến sự thiếu đồng bộ, gây hoang mang cho đương sự

để họ hiểu đâu là quy định đúng của pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng tranh chấp
kéo dài.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Thừa kế theo
pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. Đây
là một đề tài có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.


8

Trong quá trình nghiên cứu để áp dụng pháp luật và trong q trình hồn thiện
luận văn, tác giả nhận thấy có rất nhiều sách, bài viết ngắn trên tạp chí, cơng trình
nghiên cứu dưới dạng luận văn, luận án về chế định thừa kế.
Để đảm bảo tính hệ thống thì tình hình nghiên cứu về đề tài thừa kế có thể
được chia thành ba nhóm cơ bản:
Nhóm cơng trình nghiên cứu dưới dạng luận văn, luận án trong đó có “Thừa kế
theo pháp luật, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Hương Giang
- Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội trong đó tác giả Nguyễn Hương Giang trình bày những vấn đề lý
luận về thừa kế theo Bộ luật dân sự năm 2005 như lịch sử phát triển của pháp luật về
thừa kế cũng như pháp luật của một số quốc gia về thừa kế, phân tích diện và hàng
thừa kế, thực trạng áp dụng pháp luật để từ đó đưa ra kiến nghị để hồn thiện pháp
luật về thừa kế; "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến
nay" đã được tác giả Phùng Trung Tập bảo vệ thành công năm 2002 tại Tường đại
học luật Hà Nội trong đó tác giả tập trung xây dựng các khái niệm thừa kế, khái niệm
quan hệ pháp luật về thừa kế, khái niệm quyền thừa kế và thừa kế theo pháp luật, làm
rõ quá trình phát triển những quy định pháp luật thừa kế ở nước ta từ năm 1945 đến
nay đồng thời đánh giá những quy định của pháp luật về thừa kế của công dân Việt
Nam. Hay Luận án tiến sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định
chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của tác giả Nguyễn Minh Tuấn bảo vệ năm

2007 tại Trường đaiị học luật Hà Nội đã phát triển khái niệm di sản là tất cả tài sản
của người chết và các tài sản khác phát sinh khi người để lại thừa kế chết như hoa
lợi, lợi tức, tiền bảo hiểm tính mạng sức khoẻ, quyền và các lợi ích khác phát sinh từ
di sản.... Luận văn thạc sĩ luật học với tựa đề "Diện và hàng thừa kế theo pháp luật
Việt Nam" của Nguyễn Thị Huế - Cơng trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2014. Những đề tài trên đều có phạm vi nghiên cứu rất
rộng, mang tính khái qt cao.
-

Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo: Ở nhóm này có các tài liệu như
“Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của đồng tác giả


9

PGS.TS Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang tái bản lần thứ nhất năm
2017; Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án của tác giả
PGS.TS. Đỗ Văn Đại - Giảng viên trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh;
“Thời hiệu thừa kế và thực tiễn xét xử” của tác giải Tưởng Duy Lượng xuất
bản năm 2017; Luật Dân sự Việt Nam - bình giải và áp dụng - luật thừa kế của
tác giả: PGS,TS Phùng Trung Tập. Những cơng trình này tập trung nghiên
cứu phân tích những vụ án thực tế trên cơ sở những quy định cơ bản của pháp
luật thừa kế và chỉ ra những bất cập của pháp luật về thừa kế và đưa ra đề
suất.
-

Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm
này như bài “Xác định đồng thừa kế trong vụ án chia tài sản chung khi hết
thời hiệu khởi kiện về thừa kế” của tác giả Vũ Thị Thái đăng trên Tạp chí Tịa
án số 23 năm 2016, bài “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp

về thừa kế” của tác giả Lý Vương Thảo đăng trên Tạp chí Tịa án điện tử ngày
13 tháng 8 năm 2018 hay bài “Thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS
2005” của tác giả Nguyễn Hải An đăng trên Tạp chí Tịa án số 04 năm 2011...
các bài báo, tạo chí chuyên ngành này chủ yếu phân tích một vấn đề nhỏ về
thừa kế và nêu quan điểm cá nhân đối với vấn đề đó. Các bài viết dạng này
thường mang tính chất tham khảo.
Từ những cơng trình nghiên cứu trên có thể thấy thừa kế theo pháp luật đã

được rất nhiều người nghiên cứu, bình luận. Tuy nhiên để nghiên cứu luận văn theo
định hướng ứng dụng thì chưa có nhiều nghiên cứu theo định hướng này. Bên cạnh
đó, Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2017 cịn rất mới
nên chưa có cơng trình nghiên cứu tồn diện về những điểm mới này nên việc nghiên
cứu kịp thời để có hướng đề xuất các qui định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho
phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật về


10

thừa kế để chỉ ra những bất cập về thừa kế theo pháp luật từ đó có những định hướng
để tháo gỡ những vướng mắc, đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tác giả phân tích, lập luận để làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam
về thừa kế theo pháp luật. Trên cơ sở những phân tích, kết hợp với nghiên cứu thực
tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân các cấp phát hiện những vướng mắc,

bất cập trong quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật từ
đó đề ra những giải pháp và kiến nghị cần thiết để bảo đảm thực thi pháp luật trong
giải quyết các vụ án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
4.1.Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS 2015 về thừa kế theo
pháp luật. Ngồi phân tích các quy định về thừa kế theo pháp luật, luận văn cịn phân
tích thêm các quy định của pháp luật đất đai qua các thời kỳ, pháp luật về nhân thân
và thực tiễn xét xử tại TAND các cấp để chỉ rõ những bất cập của pháp luật về thừa
kế theo pháp luật, từ đó đưa ra kiến nghị để hồn thiện.
4.2.Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy
định về thừa kế theo pháp luật của pháp luật Việt Nam. Các bản án của TAND tối
cao, TAND hai cấp tỉnh Bình Định.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn nghiên cứu các qui định của pháp
luật về thừa kế theo pháp luật trong BLDS 2015 và các văn bản pháp luật khác có
liên quan, các bản án của TAND các cấp.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trong khuôn khổ của luận văn ứng dụng, Đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu chính về người thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập của hai vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm, định hướng của Đảng trong tổ chức và


11

hoạt động của hệ thống Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, luận
văn cịn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu quy định của pháp
luật hiện hành về giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án; phương pháp so sánh
để đối chiếu các quy định pháp luật nhằm phát hiện những hạn chế của quy định

pháp luật hiện hành trong giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thừa kế theo pháp luật.
Chương 2: Người thừa kế theo pháp luật.

Chương 3: Phân chia di sản theo pháp luật.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1.

Khái niệm thừa kế theo pháp luật.

Theo từ điển luật học 1, thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho
người sống. Pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay quy định hai hình thức thừa kế là:
Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Nếu như thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản cho ai phụ thuộc vào ý
chí của người để lại di sản thì thừa kế theo pháp luật phụ thuộc vào các quy định của
pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế.
Như vậy, thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch
chuyển di sản của người chết cho người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa
kế. Mặc khác, theo quy định của pháp luật thì khi khơng có căn cứ để dịch chuyển di
sản của của người chết theo ý chí của họ thì di sản đó phải được dịch chuyển theo
quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật
quy định. Điều 649 BLDS 2015 quy định “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo
hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Theo đó chúng ta
thấy thừa kế theo pháp luật khác với thừa kế theo di chúc ở một số điểm sau đây:

Thứ nhất, nếu việc dịch chuyển di sản trong thừa kế theo di chúc hồn tồn
được thực hiện theo ý chí của người để lại di sản thì trong thừa kế theo pháp luật,
việc dịch chuyển di sản phải được thực hiện theo hàng thừa kế mà pháp luật quy
định. Nói cách khác, nếu trong thừa kế theo di chúc, người đươc hưởng di sản do
người chết xác định bằng ý chí của họ thì trong thừa kế theo pháp luật, người được
hưởng di sản do pháp luật quy định.
Thứ hai, người thừa kế theo di chúc vẫn được hưởng di sản dù thuộc các trường
hợp không được hưởng di sản theo khoản 01 điều 621 BLDS 2015 nếu vẫn được
người lập di chúc cho hưởng. Đối với người thừa kế theo pháp luật thì chỉ được
hưởng di sản khi có đủ hai điều kiện: Không bị tước quyền hưởng di sản theo khoản
1 Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB từ điển bách khoa và
NXB tư pháp, Hà Nội, trang 754.


01 điều 621 BLDS 2015 và không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản.
Thứ ba, trong thừa kế theo di chúc, di sản được dịch chuyển đồng thời cho tất
cả những người thừa kế mà không cần tuân theo một trình tự nào nhưng trong thừa
kế theo pháp luật thì việc dịch chuyển di sản phải căn cứ vào các hàng thừa kế theo
một trình tự nhất định. Theo đó, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng
thừa kế nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di
sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
1.2.

Những trường hợp thừa kế theo pháp luật.

Các văn bản pháp luật về thừa kế ở nước ta từ trước đến nay đều liệt kê các
trường hợp thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên sự liệt kê về các trường hợp phát sinh
việc thừa kế theo pháp luật của các văn bản sau ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn
so với các văn bản pháp luật trước đó.
Kế thừa quy định của Pháp lệnh thừa kế, các BLDS 1995, BLDS 2005, BLDS

2015 xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật tại Điều 650 như sau:
“ 1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Khơng có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng
cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Theo quy định trên, việc thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng trong những
trường hợp sau đây:
1.2.1.

Thừa kế trong trường hợp khơng có di chúc.

Trường hợp đầu tiên trong những trường hợp thừa kế theo pháp luật là trong
trường hợp khơng có di chúc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 của BLDS 2015.
Khơng có di chúc khơng chỉ hiểu đơn thuần là người để lại di sản không lập di chúc
mà thừa kế khơng có di chúc cịn là có di chúc nhưng di chúc không rõ ràng mà


những người thừa kế đã không thống nhất được với nhau về cách hiểu những nội
dung không rõ ràng hoặc di chúc bị thất lạc vào thời điểm mở thừa kế, di chúc bị hư
hỏng không thể hiện được ý chí của người để lại di sản. Khi phát sinh những trường
hợp này thì di sản của người chết sẽ chia cho những người thừa kế theo quy định của
pháp luật.
1.2.2.

Thừa kế trong trường hợp di chúc không hợp pháp.


Việc lập di chúc phải tuân thủ các điều kiện quy định tại Điều 630 BLDS 2015.
Khi không đáp ứng được các điều kiện luật định thì di chúc bị coi là vô hiệu nên
không làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, một di chúc bất hợp
pháp có thể khơng có hiệu lực ở nhiều mức độ khác nhau. Di chúc bất hợp pháp có
thể bị coi là vơ hiệu tồn bộ nhưng cũng có thể vô hiệu 01 phần nên trong trường hợp
này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào các điều kiện mà di chúc đã
vi phạm để xác định mức độ vô hiệu của di chúc.
Một di chúc sẽ bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó do người khơng cịn
minh mẫn, sáng suốt lập ra hoặc di chúc đó khơng phải là ý chí tự nguyện đích thực
do bị người khác cưỡng ép, ngăn cản hoặc lừa dối. Di chúc cũng bị coi là vơ hiệu
tồn bộ nếu do người dưới 15 tuổi lập ra hoặc do người đủ 15 tuổi lập ra nhưng
không có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Ngồi ra, một di chúc dù khơng
vi phạm các điều kiện vẫn bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội. Khi xác định di chúc khơng có hiệu lực tồn bộ thì việc thừa kế sẽ
hồn tồn do pháp luật quy định, nghĩa là toàn bộ di sản mà người lập di chúc để lại
sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật của họ.
Một di chúc đã đáp ứng được các điều kiện về năng lực hành vi, tính tự nguyện,
độ minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc nhưng nội dung của nó lại có một phần
khơng hợp pháp hoặc trái đạo đức xã hội và phần khơng hợp pháp đó khơng ảnh
hưởng đến hiệu lực đối với phần còn lại của di chúc thì di chúc đó bị coi là vơ hiệu
01 phần. Trong các trường hợp này, phần di sản có liên quan đến phần di chúc khơng
có hiệu lực pháp luật sẽ áp dụng thừa kế theo pháp luật để phân chia cho những
người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.


1.2.3.

Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời

điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di

chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định tại Điều 613 BLDS 2015, người thừa kế là cá nhân phải là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế, cơ quan tổ chức được thừa kế theo di chúc phải
còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Vì vậy, khi phân chia di sản thừa kế phải xác
định cá nhân, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế có cịn sống, cịn tồn tại vào
thời điểm người để lại di sản chết hay khơng. Theo đó, nếu tất cả người thừa kế theo
di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức
được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì
phần di chúc liên quan đến người thừa kế, cơ quan, tổ chức này khơng có hiệu lực
theo quy định tại khoản 2 Điều 643 BLDS 2015. Phần di sản liên quan đến họ được
chia theo pháp luật. Nếu chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, một hoặc một số cơ quan, tổ
chức khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối
với phần di sản liên quan đến người thừa kế theo di chúc đã chết, cơ quan, tổ chức
khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế. Những người còn sống, các cơ quan vẫn còn
tồn tại vẫn được hưởng phần di sản đã được người để lại di sản định đoạt trong di
chúc. Tuy nhiên cần lưu ý:
Nếu cá nhân là người được chỉ định trong di chúc khơng cịn vào thời điểm mở
thừa kế mà đã có con thì con của họ khơng được thế vị phần di sản mà nếu cịn sống
họ sẽ được hưởng theo di chúc nhưng được thế vị phần di sản mà nếu còn sống họ sẽ
được hưởng theo pháp luật.
Nếu cá nhân là người thừa kế theo di chúc nhưng chưa sinh ra vào thời điểm
người lập di chúc chết và cũng chưa được sinh ra vào thời điểm phân chia di sản thì
phần di sản đó được dành ra giao cho người khác quản lý để khi người đó sinh ra nếu
cịn sống sẽ được hưởng.
Nếu cơ quan, tổ chức không bị tuyên bố phá sản mà chỉ sát nhập, hợp nhất hoặc
chia tách thì phần di sản mà cơ quan, tổ chức cũ được hưởng sẽ được chuyển dịch


cho cơ quan, tổ chức mới được thành lập do sát nhập, hợp nhất hoặc chia tách.

1.2.4.

Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng

có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Người được chỉ định thừa kế theo di chúc được xác định bởi ý chí của người để
lại thừa kế và được xác định trong di chúc mà người thừa kế đã lập. Người thừa được
chỉ định thừa kế theo di chúc ngồi là cá nhân thì cịn có thể là cơ quan, tổ chức.
Người khơng có quyền hưởng di sản là những người lẽ ra được hưởng di sản
vì họ là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản hoặc người đã được lập
di chúc cho họ hưởng nhưng những người này có hành trái luật, trái đạo đức nên bị
pháp luật tước quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc. Tuy nhiên,
tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc một quyết định có hiệu lực pháp
luật.
Khi một người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 gồm “người bị kết án về
hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm
trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của
người đó; người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản;
người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; người có
hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc;
giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản” thì họ khơng được
hưởng di sản, trừ trường hợp người để lại di sản biết hành vi của những người đó
nhưng vẫn cho họ được hưởng di sản. Phần di sản được đưa ra chia theo pháp luật
tùy thuộc vào số người không được hưởng di sản. Trong trường hợp tồn bộ những
người thừa kế theo di chúc đều khơng có quyền hưởng di sản thì tồn bộ di sản thừa
kế được chia theo pháp luật. Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế

theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản thì phần di sản mà họ được hưởng theo di


chúc sẽ được chia theo pháp luật trừ họ.
Từ chối nhận di sản là sự thể hiện ý chí của người được thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật đã không nhận thừa kế theo sự định đoạt của người để lại di sản
hoặc theo quy định của pháp luật.
Điều 620 BLDS 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản
lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để
biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di
sản.”
Thừa kế là một quyền nên người được hưởng di sản có quyền nhận hoặc không
nhận di sản từ người để lại di sản. Tuy nhiên, để giảm thiểu sự phức tạp trong thực tế
cũng như để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người khác, từ chối nhận di sản sẽ bị
hạn chế một số điểm và phải tuân thủ theo một hình thức, thủ tục nhất định như:
Khơng được từ chối nhận di sản để trốn trán nghĩa vụ tài sản của mình đối với người
khác, người thừa kế chỉ có quyền từ chối nhận di sản trước thời điểm phân chia di
sản, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và việc từ chối nhận di sản
phải được thông báo cho những người thừa kế khác, người quản lý di sản, người
được giao nhiệm vụ phân chia di sản. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc
đồng thời là người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản thì việc thể
hiện ý chí của người đó có thể xảy ra các trường hợp sau: Chỉ từ chối quyền hưởng
thừa kế theo di chúc mà không từ chối quyền hưởng thừa kế theo pháp luật; chỉ từ
chối quyền hưởng thừa kế theo pháp luật mà không từ chối quyền hưởng thừa kế theo
di chúc; từ chối cả quyền hưởng thừa kế theo di chúc và quyền hưởng thừa kế theo
pháp luật. Khi người thừa kế theo di chúc từ chối hưởng di sản thì phần di sản của họ

được hưởng theo di chúc sẽ được chia theo pháp luật.
1.3.

Di sản thừa kế được chia theo pháp luật.


Điều 612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác ”.
Quy định này kế thừa toàn bộ quy định của BLDS 2005 về di sản thừa kế. Như
vậy di sản thừa kế bao gồm:
Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp
pháp như tiền lương, tiền thưởng,... tài sản được tặng cho, được thừa kế, tư liệu sinh
hoạt riêng, nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn dùng để sản xuất kinh doanh, tiền,
vàng, bạc kim khí quý, đá quý được dùng làm trang sức hoặc được dùng làm của cải
để dành, vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá thể hoặc
của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp, tài liệu, dụng cụ, máy móc của
người làm cơng tác nghiên cứu, cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và
hưởng lợi trên đất đó.
Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác. Trong
thực tế có nhiều trường hợp do nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất kinh
doanh, nên có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người. Nếu một trong
số đồng chủ sở hữu chết thì di sản thừa kế của người chết là phần tài sản thuộc sở
hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.
Tài sản chung của vợ và chồng, nếu vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tịa án tun
bố chết thì người cịn sống quản lí khối tài sản chung đó trừ trường hợp di chúc có
chỉ định khác.
Di sản thừa kế cịn bao gồm các quyền tài sản của người chết để lại như quyền
đòi nợ, quyền đòi bồi thường thiệt hại, các quyền gắn với tài sản như quyền tác giả,
các khoản nợ, các khoản bồi thường thiệt hại.
Có một số ý kiến cho rằng di sản còn là nghĩa vụ tài sản nhưng theo quan điểm

cá nhân, nghĩa vụ tài sản không phải là di sản thừa kế mà đây là nghĩa vụ dân sự mà
người thừa kế chỉ phải thực hiện bằng di sản của người chết. Như vậy nghĩa vụ này
nó khơng làm phát sinh quyền tài sản đối với người thừa kế mà chỉ phát sinh về nghĩa
vụ nên không phải là di sản. Mặc khác tài sản được quy định tại Điều 105 của BLDS
2015 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền về tài sản.


Di sản có thể được phân chia theo di chúc hoặc phân chia theo pháp luật. Khi
khơng có di chúc thì di sản của người chết đương nhiên là di sản thừa kế được chia
theo pháp luật. Tại khoản 2 Điều 650 BLDS 2015, thừa kế theo pháp luật cũng được
áp dụng đối với các phần di sản sau đây: “ Phần di sản không được định đoạt trong
di chúc; phần di sản có liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
phần di sản có liên quan đến người thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Như vậy, di sản thừa kế được chia theo pháp luật bao gồm hai nhóm:
Nhóm di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật bao gồm các trường
hợp: Khơng có di chúc; di chúc khơng hợp pháp tồn bộ; di chúc hợp pháp nhưng
tồn bộ di chúc khơng có hiệu lực thi hành do tất cả người thừa kế theo di chúc đều
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều khơng có quyền
hưởng di sản hay đều từ chối nhận di sản, cơ quan tổ chức khơng cịn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế.
Nhóm di sản vừa được chia theo di chúc, vừa được chia theo pháp luật bao
gồm các trường hợp: Có phần di sản khơng được định đoạt trong di chúc; có phần di
chúc khơng có hiệu lực pháp luật; có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; một hoặc một số cơ quan
tổ chức được thừa kế theo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một
hoặc một số người trong số những người thừa kế theo di chúc không được quyền
hưởng di sản hay từ chối quyền hưởng di sản theo di chúc.

1.4.

Thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở thừa kế.

1.4.1 Thời điểm mở thừa kế.
Xác định thời điểm mở thừa kế là căn cứ để xác định thời điểm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của người thừa kế. Những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.


Thời điểm mở thừa kế còn là mốc thời gian để xác định khối di sản hiện còn
của người chết. Thực tế có nhiều trường hợp khối di sản theo di chúc đã lập khác với
khối di sản tại thời điểm mở thừa kế do tài sản bị mất, tiêu hủy hoặc có trường hợp
tăng thêm. Do vậy, chỉ những tài sản nào thuộc sở hữu của người đã chết hiện còn
vào thời điểm mở thừa kế mới được coi là di sản của người chết để lại cho những
người thừa kế.
Do vậy việc xác định được thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất lớn trong việc
xác định người thừa kế, di sản thừa kế, vấn đề hiệu lực của di chúc, xác định thời
hiệu khởi kiện về thừa kế cũng như xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
TAND.
Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu
chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm
mở thừa kế...”. Như vậy, quy định thời điểm tính thời hiệu thừa kế của BLDS 2015
cũng giống với quy định tại Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995, BLDS
2005 là tính “kể từ thời điểm mở thừa kế”. Và nội hàm quy định về “Thời điểm mở
thừa kế” tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, khoản 1 Điều 636
BLDS năm 1995, khoản 1 Điều 633 BLDS 2005, cũng như tại khoản 1 Điều 611
BLDS 2015 là giống nhau, được hiểu theo nghĩa chung nhất là thời điểm người có tài
sản chết (chết thực tế về mặt sinh học), hoặc trường hợp Tòa án tuyên bố một người

là đã chết (chết về mặt pháp lý).
Chết về mặt sinh học được căn cứ theo giấy báo tử hoặc giấy chứng tử. Thời
điểm này có thể xác định chính xác đến đơn vị phút.
Nếu một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự và đơn vị thừa kế được tính theo ngày. Theo đó ngày xảy ra tai nạn, ngày
xảy ra thảm họa thiên tai ... được xác định là ngày người đó chết hoặc nếu khơng xác
định được ngày xảy ra sự kiện thì ngày chết là ngày Quyết định của Tòa án tuyên bố
cá nhân đã chết có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, khơng phải mọi truờng hợp thời điểm nguời để lại di sản chết đều
đuợc xem là thời điểm mở thừa kế. Cụ thể là đối với truờng hợp mở thừa kế truớc


ngày 10 tháng 9 năm 1990.
Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế quy định: Đối với các việc thừa kế
đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều này được tính từ ngày cơng bố Pháp lệnh này (ngày 10/9/1990).
Truớc khi BLDS 2015 có hiệu lực thi hành, việc áp dụng thời điểm mở thừa kế
mở truớc ngày 10/9/1990 đuợc các Tòa án áp dụng thống nhất lấy thời điểm tính từ
ngày 10/9/1990 để xác định là thời điểm mở thừa kế để tính thời hiệu thừa kế.
Theo quy định tại điểm c, d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự
được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp
dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp
luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết; Thời hiệu được
áp dụng theo quy định của Bộ luật này”.
Tiểu mục 1 Mục III Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của
TANDTC giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự huớng
dẫn: “... Kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại
Điều 623 BLDS 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế
trước ngày 01-01-2017. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản 2 Điều 688 BLDS
2015: “Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự
trước ngày Bộ luật này có hiệu lực”.
Mục I Cơng văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 05 tháng 01 năm 2018 của TAND
tối cao giải thích một số vấn đề nghiệp vụ quy định “ Đối với trường hợp thừa kế mở
trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản
được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng
dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán TAND
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời
hiệu khởi 9 kiện được tính từ ngày 10-9-1990”. Như vậy trong trường hợp này thời
điểm mở thừa kế là ngày 10 tháng 9 năm 1990. Văn bản giải đáp nghiệp vụ của
TAND tối cao không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng văn bản được ban


hành dựa trên các quy định của pháp luật. Việc lấy mốc thời điểm ngày 10 tháng 9
năm 1990 để bắt đầu tính thời hiệu thừa kế là hồn tồn phù hợp vì quyền để lại thừa
kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo hộ,
trong khi các quy định pháp luật trước thời điểm năm 1990 chưa được hoàn thiện và
rõ ràng nên khi có quy định cụ thể thì phải bình đẳng như nhau trong việc bảo hộ các
quyền của công dân.
1.4.2.

Địa điểm mở thừa kế.

Địa điểm mở thừa kế theo luật định là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di
sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có
tồn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn tài sản. Địa điểm mở thừa kế là nơi mà tại đó các
chủ thể có quyền thừa kế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Xác định được địa
điểm mở thửa kế sẽ xác định được nơi thực hiện việc quản lý di sản, xác định cơ
quan có thẩm quyền quản lý di sản của người chết trong trường hợp chưa xác định
được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý để ngăn chặn việc phân tán hoặc

chiếm đoạt tài sản trong khối di sản.
Nơi cư trú của cá nhân được xác định theo các Điều 40, 41, 42, 43, 44, 45 và
Luật cư trú năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2013.
Có ý kiến cho rằng, Bộ luật dân sự năm 1995 trước đây quy định về nơi cư trú
của cá nhân cụ thể và phù hợp với thực tiễn hơn so với quy định của BLDS 2015 và
Luật cư trú năm 2006 2
Sở dĩ có quan niệm như vậy là bởi tại khoản 1 Điều 48 của BLDS năm 2015
quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ
khẩu thường trú. Trong trường hợp cá nhân khơng có hộ khẩu thường trú và khơng
có nơi thường xun sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi người đó tạm trú
và có đăng ký tạm trú”
Theo quy định này thì việc xác định địa điểm mở thừa kế còn căn cứ vào nơi
đăng ký hộ khẩu thường trú. Tuy nhiên, thực tế rất nhiều cá nhân có nơi đăng ký hộ
2 Phạm Văn Tuyết - Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp, NXB Tư pháp, tr37-39.


khẩu thường trú và nơi sinh sống khác nhau. Thậm chí, dù chuyển nơi sinh sống
nhiều lần nhưng họ vẫn không thay đổi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. Ngồi ra
trong một số trường hợp cịn cố tình thay đổi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ở
những vùng kinh tế khó khăn để hưởng chính sách hỗ trợ của nhà nước. Do đó quy
định về việc căn cứ vào nơi có hộ khẩu thường trú là khơng phù hợp.
Tại khoản 1 Điều 40 của BLDS 2015 quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi
người đó thường xuyên sinh sống”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa giải quyết dứt điểm
những bất cập hiện cịn tồn tại vì chỉ quy định chung chung, chưa có văn bảo nào giải
thích rõ như thế nào là thường xuyên và như thế nào là sinh sống nên khó áp dụng.
Từ những phân tích trên có thể thấy tuy xác định địa điểm mở thừa kế có ý
nghĩa trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền quản lý di sản khi chưa xác định
được người thừa kế di sản nhưng các quy định còn chung chung, chưa rõ ràng nên
nếu xảy ra tranh chấp thì khó giải quyết.

Hiện nay có quan điểm cho rằng xác định được địa điểm mở di sản sẽ xác định
được Tịa án có thẩm quyền giải quyết nếu có tranh chấp về di sản thừa kế 3. Tuy
nhiên quan điểm này là không phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự vì
tại điểm a khoản 1 Điều 3 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tịa án có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp về thừa kế là Tòa án nơi bị đơn cư trú, không phụ thuộc vào địa
điểm mở thừa kế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Quyền thừa kế là một trong các quyền cơ bản của công dân. Ngay từ bản hiến
pháp đầu tiên, Hiến pháp năm 1946 đã đề cập đến quyền này. Qua các giai đoạn xây
dựng pháp luật, quyền thừa kế ngày càng được hoàn thiện hơn. Kế thừa những nội
dung của các quy định về thừa kế trước đây và trên tinh thần xây dựng cho phù hợp
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cùng những chuyển biến của xã hội trên nhiều
lĩnh vực, chế định thừa kế theo pháp luật tại BLDS 2015 cũng được xây dựng cho
phù hợp với sự phát triển của xã hội.
3 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước CHXHCN Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr 930.


Tại chương 1 đã đưa ra một số quy định chung về thừa kế như khái niệm, các
trường hợp thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế theo pháp luật, thời điểm mở thừa
kế, địa điểm mở thừa kế. Một trong số những quy định này cũng là căn cứ để giải
quyết thừa kế theo di chúc nên có thể nói những quy định chung về thừa kế theo pháp
luật là cơ sở tiền để đề giải quyết thừa kế. Nó càng đóng vai trị quan trọng hơn trong
việc giải quyết tranh chấp tại Tịa án vì điều kiện đầu tiên để xem xét có chia di sản
hay khơng là tài sản đang tranh chấp có phải là di sản thừa kế hay khơng và cịn thời
hiệu thừa kế hay không rồi mới xem xét đến vấn đề chia cho ai, chia như thế nào.


CHƯƠNG 2
NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

2.1.Căn cứ xác định người thừa kế theo pháp luật.
Người thừa kế theo pháp luật là người được hưởng di sản từ người chết để lại.
Pháp luật dân sự năm 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật được chia ra thành
03 hàng thừa kế gồm:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết
là cụ nội, cụ ngoại.
Việc hưởng di sản thừa kế được thực hiện theo nguyên tắc những người thừa kế
trong một hàng thừa kế thì được hưởng phần di sản ngang nhau. Hàng thừa kế sau
chỉ được hưởng di sản thừa kế khi khơng cịn người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất.
Như vậy, khác với thừa kế theo di chúc thì người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ
quan, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ là cá nhân được xác định theo
các mối quan hệ cụ thể:
2.1.1.

Xác định người thừa kế theo quan hệ huyết thống.

Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dịng máu về trực hệ
hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ trong đó có 05 nhóm quan hệ
cụ thể:
2.1.1.1.

Quan hệ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con ruột.


Một người sinh ra bao nhiêu người con thì các con đều là con đẻ của người đó
và giữa cha mẹ với con có quan hệ thừa kế di sản của nhau. Cơ sở để xác định quan
hệ con đẻ là dựa trên sự kiện sinh đẻ trong đó tồn tại 04 căn cứ làm phát sinh quan hệ


×