Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.69 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÂM THANH TÙNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÂM THANH TÙNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS DƯƠNG ANH SƠN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng” được


tơi trình bày tại luận văn này là kết quả của quá trình nghiên cứu của bản thân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Dương Anh Sơn. Mọi ý
kiến, khái niệm có ý nghĩa khoa học và mọi tham khảo khác không phải của riêng
tôi đều được trích dẫn. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chính xác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cam đoan này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Phó Giáo sư – Tiến sĩ
Dương Anh Sơn để tơi có được kết quả nghiên cứu này.

TÁC GIẢ

LÂM THANH TÙNG


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................... 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 7
6. Kết cấu của luận văn. .............................................................................................. 9
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ ............................................................................ 10
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ........... 10
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự và vi phạm hợp đồng dân sự .............................. 10
1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng .................................... 15
1.1.3. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ............................... 17
1.2. Nội dung của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự ....................... 20

1.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường ....................................................... 20
1.2.2. Thiệt hại được bồi thường ............................................................................... 23
1.2.3. Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại của bên có quyền .............................. 25
1.2.4. Thỏa thuận bồi thường thiệt hại và thỏa thuận phạt vi phạm ......................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 28
CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG - THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ............................ 29


2.1. Xác định thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng dân sự ..................... 29
2.1.1. Thực trạng ....................................................................................................... 29
2.1.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................................ 34
2.2. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại .................................................................................. 35
2.2.1. Thực trạng ....................................................................................................... 35
2.2.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................................ 38
2.3. Bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm ................................................................. 40
2.3.1. Thực trạng ....................................................................................................... 40
2.3.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................................ 41
2.4. Thỏa thuận bồi thường thiệt hại ......................................................................... 42
2.4.1. Thực trạng ....................................................................................................... 42
2.4.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................................ 44
2.5. Yếu tố lỗi của bên vi phạm hợp đồng ................................................................ 47
2.5.1. Thực trạng ....................................................................................................... 47
2.5.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................................ 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng bậc nhất của luật dân sự,
ngay từ thời kỳ cổ đại hợp đồng đã được sử dụng như một trong những phương tiện
bảo đảm cho quá trình giao lưu dân sự, trao đổi hàng hóa. Trong pháp luật dân sự,
hợp đồng được giao kết hợp pháp thì có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và được
các bên tơn trọng thực hiện.
Vì những lý do chủ quan hay khách quan, tình trạng vi phạm hợp đồng
thường xuyên diễn ra, bên bị vi phạm phải gánh chịu những thiệt hại từ sự vi phạm
của bên đối tác. Do đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ trong hợp đồng được tôn trọng và
thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch dân sự,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được pháp luật quy định để tạo cơ chế giải quyết
những tranh chấp cũng như bảo đảm duy trì trật tự xã hội.
Ở Việt Nam, vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp đồng đã được Luật
Thương mại năm 2005 quy định khá cụ thể. Tuy nhiên, kể từ Pháp lệnh hợp đồng
dân sự 1991 cho đến Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và kể cả Bộ luật dân
sự 2015 vẫn chưa có những quy định đầy đủ để giải quyết vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền theo Hiến pháp 2013 là “Nhà nước
phải có cơ chế pháp lý để cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền công dân về dân sự và đáp ứng yêu cầu định hướng về một bộ
luật chung áp dụng cho các quan hệ pháp luật dân sự”. Ngoài ra, nhiệm vụ của
chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu “Hoàn thiện
pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham
gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế
định hợp đồng, bồi thường, bồi hồn…”. Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài
Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng để làm luận văn thạc sĩ luật học.



2

2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu và đưa vào giảng dạy trong các giáo trình chuyên ngành, đồng thời vấn
đề này cũng thường xuyên được bàn luận tại các hội thảo khoa học, trong các sách
chuyên khảo và được nghiên cứu dưới một số khía cạnh nhất định trong một số luận
văn thạc sĩ. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu,
riêng biệt về vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng có dung lượng tương
tự như cơng trình luận văn thạc sĩ. Trong những tài liệu mà tác giả có cơ hội tiếp
cận nghiên cứu, có những tài liệu liên quan đến luận văn như:
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức, Hà Nội 2013.
Vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Giáo trình chưa
thể hiện được những quy định cụ thể về vấn đề bồi thường thiệt hại cũng như chưa
giải quyết được các vấn đề còn bất cập, vướng mắc theo quy định của pháp luật hiện
hành. Khi vận dụng làm tài liệu nghiên cứu tác giả kế thừa, phát triển những khái
niệm, đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã nêu trong Giáo
trình đồng thời tiếp tục mở rộng nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn mà
Giáo trình chưa đề cập đến.
Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007.
Tác giả có phân tích và bình luận khá nhiều những tranh chấp xảy ra trên
thực tế, tác giả vẫn chưa đưa ra được những kết luận cụ thể về các điều kiện phát
sinh cũng như chưa xác định nội dung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra. Có thể nói rằng trong cuốn chuyên khảo này, tác giả
không đặt nhiệm vụ nghiên cứu mọi khía cạnh pháp lý của chế định hợp đồng trong
Bộ luật dân sự mà chỉ tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn
một số vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam.



3

Khi vận dụng nghiên cứu sách chuyên khảo, chúng tôi kế thừa những nội
dung về cơ sở lý luận mà tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đã đề cập, đồng thời đi sâu
nghiên cứu về những vấn đề thực tiễn, những quy định mới của Bộ luật dân sự 2015
so với Bộ luật dân sự 2005.
Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc khơng thực hiện đúng hợp đồng, Nxb
Chính trị quốc gia 2013.
Có thể nói rằng đây là cơng trình nghiên cứu tổng thể những hành vi được
xem là không thực hiện đúng hợp đồng và những biện pháp được đề xuất để xử lý
việc không thực hiện đúng hợp đồng. Điểm nổi bật của cơng trình là tác giả đã đưa
ra thuật ngữ không thực hiện đúng hợp đồng nhằm so sánh với thuật ngữ vi phạm
hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tác giả cũng đã nêu ra những dạng trách
nhiệm pháp lý mà bên không thực hiện đúng hợp đồng phải gánh chịu được quy
định trong pháp luật hiện hành, tiếp đến tác giả nêu lên những hành vi được xem là
không thực hiện đúng hợp đồng, điều kiện phát sinh trách nhiệm do không thực
hiện đúng hợp đồng và một phần lớn trong công trình nghiên cứu mà tác giả đề xuất
là các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng. Tại cơng trình này tác
giả cũng kiến nghị hướng sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật cho phù hợp, đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn.
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án, Nxb
Chính trị quốc gia 2014.
Thơng qua việc bình luận các bản án giải quyết những tranh chấp hợp đồng
xảy ra trong thực tế. Cuốn sách đã đi từ những vấn đề chung cho đến những vấn đề
cụ thể trong quan hệ hợp đồng dựa trên những nhận định giải quyết vụ án của cơ
quan tiến hành tố tụng từ đó so sánh với quy định của pháp luật hiện hành và đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Vấn đề bồi thường thiệt
hại do không thực hiện đúng hợp đồng chỉ là một phần nhỏ so với dung lượng cuốn

sách. Theo đó để có thể giải quyết những yêu cầu của bên có quyền tác giả đã nêu
lên những điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do không thực


4

hiện đúng hợp đồng, trên cơ sở đó đưa ra nhận định về các loại thiệt hại có thể được
bồi thường và cách thức xác định thiệt hại được bồi thường.
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm
2015, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2016.
Tổng thể cơng trình, tác giả cung cấp thơng tin về q trình biên soạn, sửa
đổi Bộ luật dân sự 2015, những nội dung mới của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ
luật dân sự 2005. Trong đó chế định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015 được
tác giả quan tâm dành nhiều thời gian.
Những nội dung được tác giả kế thừa từ sách của tác giả Đỗ Văn Đại đó là
tổng hợp những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, những quan điểm về bồi thường
thiệt hại để so sánh những điểm tiến bộ so với Bộ luật dân sự 2005. Trên cơ sở kế
thừa những nội dung đã nghiên cứu, tác giả tiếp tục phát triển một số tình huống
thực tế trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mà Bộ luật dân sự 2015
vẫn chưa giải quyết được hoặc cịn có quy định gây tranh cãi. Từ những phân tích
và bình luận những tình huống thực tiễn, tác giả đưa ra quan điểm góp ý cho việc
sửa đổi Bộ luật dân sự 2015.
Nguyễn Phú Cường, Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh
doanh thương mại, Luận văn thạc sĩ, TP. Hồ Chí Minh 2009.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Phú Cường nghiên cứu về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh thương mại. Nội dung
chủ yếu của luận văn tác giả phân tích các quy định trong Luật thương mại về
những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Luận văn cũng đã đề cập đến các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng, theo đó có hai trường hợp được nghiên cứu là miễn trách

nhiệm theo quy định của pháp luật và miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các
bên. Ở luận văn này tác giả cũng đã phân tích mối quan hệ giữa chế tài bồi thường
thiệt hại và các chế tài xử lý khác do vi phạm hợp đồng kinh doanh thương mại
đồng thời kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật thương mại.


5

Trần Việt Anh, So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4, 2011.
Trong bài viết này, tác giả trước hết cung cấp kiến thức về một số quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các bộ cổ luật Việt Nam đồng thời so sánh
với pháp luật của một số nước trên thế giới nhằm tìm ra điểm khác biệt giữa trách
nhiệm trong hợp đồng và trách nhiệm ngồi hợp đồng. Để có cơ sở phân định mối
quan hệ giữa trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng, tác
giả đã nêu ra những tiêu chí được xem là vi phạm hợp đồng và bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm dân sự.
Nguyễn Thị Minh Oanh, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Đề tài nghiên cứu khoa học
Trường Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại – Vấn đề
lý luận và thực tiễn, 2009.
Phần mở đầu đề tài nghiên cứu, tác giả đã nêu khái quát về quá trình phát
triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại qua việc nghiên cứu các quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong thời kỳ cổ đại thơng qua luật La Mã từ đó liên hệ
với pháp luật Việt Nam qua các bộ cổ luật như Quốc triều hình luật hay Hồng Việt
Luật Lệ.
Trong bài viết tác giả cũng đã nêu lên khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại và phân loại những loại thiệt hại phải bồi thường. Có thể nói,
đây là bài viết nghiên cứu tổng hợp các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cả trong và ngoài hợp đồng.

Nguyễn Thị Hồng Trinh, Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc
tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc Unidroit, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 22, 2009.
Tại cơng trình nghiên cứu của tác giả tìm hiểu các quy định về bồi thường
thiệt hại của ba văn bản đó là Luật Thương mại Việt Nam, Cơng ước Viên 1980 và
Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế để so sánh những điểm


6

khác biệt trong thuật ngữ, trong cách giải thích và trong thực tế áp dụng. Bên cạnh
những điểm khác biệt của ba văn bản trên tác giả còn cho thấy sự bổ trợ giải thích
cho nhau về chế tài bồi thường thiệt hại. Theo đó những vấn đề được tác giả nghiên
cứu bao gồm phạm vi thiệt hại được đền bù, mức thiệt hại do bên vi phạm hợp đồng
dự đoán trước, nghĩa vụ chứng minh thiệt hại và các điều khoản liên quan đến việc
tính lãi do vi phạm hợp đồng. Cuối cùng tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm góp
phần hồn thiện Luật thương mại Việt Nam cho tương thích với các quy định của
luật thương mại quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài này để nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được quy định trong pháp luật
hiện hành. Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và những tình huống trong thực tiễn,
tác giả làm rõ những vấn đề còn vướng mắc trong pháp luật nhằm đưa ra một số
quan điểm pháp lý làm tư liệu tham khảo để sửa đổi những quy định còn chưa phù
hợp. Để làm được điều này, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Phát hiện và giải quyết các vấn đề mang tính lý luận trong khoa học pháp lý
và các vấn đề khoa học xã hội có liên quan;
- Tổng hợp phân tích, so sánh để kế thừa và phát triển một, một số nội dung
trong các học thuyết pháp lý để phù hợp bối cảnh, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
hiện nay tại Việt Nam;

- Nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử với pháp
luật hiện hành để rút ra các bài học kinh nghiệm, nhận diện quy luật hình thành,
phát triển và xu thế hồn thiện pháp luật trong tương lai.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả nghiên cứu trên cơ sở các văn bản
quy phạm pháp luật như Bộ luật dân sự Việt Nam, Luật Thương mại và các văn bản


7

pháp luật dân sự nước ngoài. Việc nghiên cứu thực hiện tại điều luật cụ thể liên
quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Bên cạnh việc nghiên cứu văn bản pháp luật, tác giả cũng nghiên cứu các đối
tượng quan trọng khác đó là các bản án, quyết định của Tòa án và những tài liệu là
sách chuyên khảo, luận văn, bài viết đăng trên các tạp chí và website.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý luận, tác giả không nghiên cứu tất cả những vấn đề chung của hợp
đồng hay tổng thể những biện pháp xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng, tác giả
khơng phân tích trên từng loại hợp đồng cụ thể mà dựa trên cơ sở quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam về các nguyên tắc chung trong vấn đề bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng. Tác giả đề cập một số khái niệm về bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng trên cơ sở nghiên cứu so sánh với pháp luật thương mại và
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới để tìm ra những điểm khác biệt, những
giá trị có thể tham khảo trong tiến trình sửa đổi, hồn thiện Bộ luật dân sự Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn, thông qua việc nghiên cứu hoạt động xét xử và áp dụng
pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án có tranh chấp liên
quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, tác giả nêu lên thực
trạng pháp luật trên cơ sở nghiên cứu một số vụ án nhằm đưa ra một số ý kiến nhận

xét về quy định hiện hành của pháp luật cũng như việc áp dụng pháp luật và cách
thức giải quyết tranh chấp của Tòa án. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những điểm
cịn bất cập của Bộ luật dân sự thông qua hoạt động áp dụng pháp luật thực tiễn, tác
giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự
về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu dựa trên phương pháp nghiên cứu học
thuyết pháp lý và vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, như là các phương pháp phân tích, so sánh,


8

tổng hợp lý thuyết; phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp chứng minh;
phương pháp khảo sát thực tiễn và nghiên cứu bản án.
Phương pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý hay còn được gọi là phương
pháp nghiên cứu luật viết là phương pháp được tác giả sử dụng phổ biến và xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu các nguồn tài liệu để thực hiện luận văn. Trên cơ sở
những học thuyết được những nhà nghiên cứu pháp luật đưa ra có liên quan đến nội
dung của quan hệ bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, tác giả sử dụng những luận
điểm pháp lý làm cơ sở nền tảng cho nhận định về sự cần thiết phải điều chỉnh pháp
luật đối với vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả vận dụng chủ yếu tại chương
1 của luận văn, với việc nêu lên cơ sở lý luận của vấn đề bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng dân sự, tác giả nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp
luật hiện hành nhằm cung cấp những thông tin, những nền tảng lý luận cơ bản để
mọi người có thể hình dung được đối tượng và nội dung nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp so sánh được tác giả vận dụng khi nghiên cứu, đối chiếu giữa
những quy định hiện hành trong các văn bản pháp luật của Việt Nam với nhau và so
sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới nhằm tìm ra những điểm khác

biệt và cách thức giải quyết tranh chấp trong cùng một vấn đề.
Phương pháp khảo sát thực tiễn được tác giả vận dụng tại chương 2 của luận
văn, trên cơ sở nghiên cứu các bản án giải quyết các tranh chấp đối với yêu cầu bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự tác giả cung cấp những thông tin về
việc áp dụng pháp luật của Tòa án và các thức giải quyết tranh chấp nhằm tìm ra
những điểm bất cập cũng như sự vận dụng sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp
luật của cơ quan tiến hành tố tụng.
Phương pháp quy nạp tổng hợp được tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá
trình thực hiện luận văn, phương pháp này được tác giả sử dụng sau khi đã phân
tích, so sánh và đánh giá những nội dung đã nghiên cứu để tóm gọn lại vấn đề, đưa


9

ra những kết luận về thực trạng quy định của pháp luật và hướng giải quyết được tác
giả đề xuất trong q trình nghiên cứu.
Ngồi ra luận văn cịn sử dụng phương pháp chứng minh để làm rõ những
điểm còn bất cập của pháp luật dân sự trên cơ sở nghiên cứu so sánh giữa các quy
định của các ngành luật, hệ thống pháp luật khác nhau và hướng áp dụng pháp luật
của Tòa án trong khi giải quyết các tranh chấp. Việc chứng minh nhằm làm sáng tỏ
những kiến nghị giải pháp sửa đổi pháp luật cho hoàn thiện là điều cần thiết.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng.
Chương 2: Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng – thực
trạng và hướng hoàn thiện.



10

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng

1.1.1. Khái niệm hợp đồng và vi phạm hợp đồng
 Hợp đồng
Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng bậc nhất và chiếm phần
lớn nội dung của Bộ luật dân sự, không chỉ ở Việt Nam mà ở đa phần các nước trên
thế giới. Không giống các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật hợp đồng chủ
yếu mang tính chất luật tư, do đó ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính trị.
Sơ lược về lịch sử hình thành, có thể xem hợp đồng là một trong những chế
định pháp lý cổ xưa nhất, là một trong những khái niệm trung tâm của luật dân sự.
Ở Châu Âu, hợp đồng đã xuất hiện trong Luật La Mã cổ đại, sau đó du nhập sang
Tây Âu và phát triển mạnh mẽ ở các nước như Đức, Pháp, Hà Lan, ... vị trí, vai trị
của chế định hợp đồng không ngừng mở rộng và chiếm phần quan trọng trong nội
dung bộ luật dân sự tại các nước này.
Phần lớn các nước thuộc Liên minh Châu Âu chấp nhận khái niệm hợp đồng
là một thỏa thuận của ý chí làm phát sinh những hậu quả pháp lý. Các quốc gia này
có sự tương đồng khi đều cho rằng: hợp đồng chỉ được tạo lập khi mà sự thỏa thuận,
thường được thể hiện một cách đơn giản nhất là sự kết hợp giữa đề nghị giao kết và
chấp thuận đề nghị giao kết hợp đồng, xảy ra giữa hai người.
Tại Việt Nam, chế định hợp đồng chỉ thực sự xuất hiện vào cuối thế 19 đầu
thế kỷ 20, gắn liền với quá trình bảo hộ của thực dân Pháp. Thời kỳ này xuất hiện
lần lượt ba bộ luật là Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ, Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Bộ
Dân luật Trung Kỳ lần lượt ban hành vào các năm 1883, 1931 và 1936. Ba bộ luật
kể trên tuy là sự tiếp thu một cách giản lược Bộ luật dân sự Pháp nhưng đã tạo ra



11

được bước ngoặt cho sự phát triển luật hợp đồng nói riêng và pháp luật Việt Nam
nói chung. Khái niệm hợp đồng dân sự đã từng được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Theo thời gian, các khái niệm này có sự thay đổi cho phù hợp
hơn với tình hình phát triển kinh tế, xã hội.
Tại Pháp lệnh Hợp đồng dân sự do Hội đồng nhà nước ban hành ngày
29/4/1991 thì hợp đồng dân sự là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn,
tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác
mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.”
Đến Bộ luật dân sự 1995, tại Điều 394 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Quy định này được tiếp tục sử dụng tại Điều 338 Bộ luật dân sự 2005 và gần
đây nhất là Điều 385 của Bộ luật dân sự được Quốc Hội thông qua năm 2015, tuy
nhiên cụm từ “hợp đồng dân sự” được rút gọn chỉ còn là “hợp đồng”. Quá trình thay
đổi từ khái niệm hợp đồng dân sự trong pháp lệnh hợp đồng dân sự đến khái niệm
trong bộ luật dân sự tại Bộ luật dân sự 2005, đã có sự tiến gần hơn với khái niệm
hợp đồng của các nước trên thế giới, chứ khơng cịn bó hẹp theo nghĩa hợp đồng
dân sự chỉ là quan hệ sinh hoạt, tiêu dùng đơn giản của đời sống thường ngày.
Như vậy, hợp đồng được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên nhằm thiết
lập nên các quyền và nghĩa vụ, và những nội dung mà các bên đã thỏa thuận sẽ có
hiệu lực bắt buộc, thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa các bên kể từ thời điểm hợp
đồng được giao kết hợp pháp. Hay “Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ theo một cơ
chế chung: các bên giao kết thống nhất ý chí về việc ràng buộc lẫn nhau trong một
quan hệ đặc trưng bằng thái độ xử sự của một bên nhằm đáp ứng yêu cầu của bên



12

kia. Hợp đồng chỉ phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên giao kết và không
tạo ra bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với người thứ ba”1.
 Vi phạm hợp đồng
Việc giao kết hợp đồng tạo ra hình thức pháp lý cho quan hệ trao đổi, cịn
quyền và nghĩa vụ mà các bên đặt ra có đạt được hay khơng thì phải thơng qua hành
vi trực tiếp là thực hiện hợp đồng2.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, vì những lý do khác nhau mà các bên
trong hợp đồng thực hiện không đúng theo thỏa thuận, dẫn đến việc vi phạm hợp
đồng. Như vậy, vi phạm hợp đồng có thể hiểu một cách đơn giản là khi một bên
(hoặc có thể nhiều bên) thực hiện khơng đúng những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng. Nghĩa vụ được hiểu là một hay nhiều việc mà một bên phải làm đối với bên
kia theo những gì các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đối lập với nghĩa vụ là
quyền lợi, tức là điều mà bên có quyền có thể địi hỏi bên có nghĩa vụ phải thực
hiện. Các luật gia Pháp định nghĩa “nghĩa vụ là một mối liên hệ gắn kết ít nhất hai
người được cá thể hóa cho phép một người trong số họ địi hỏi người kia một điều
gì đó”3.
Bộ luật dân sự 2005 mới chỉ đưa ra thuật ngữ trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ dân sự mà chưa có quy định về hành vi vi phạm hợp đồng dân sự. Tại
Điều 302 Bộ luật dân sự 2005 có quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ dân sự:
“Bên có nghĩa vụ mà khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ
thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
1

Nguyễn
Ngọc
Điện,
Giáo

trình
Luật
dân
sự
Việt
Nam ,
thời điểm truy cập 156-2016.
2

Hồng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2005 – Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia 2009, tr

249.
3

J. Ghestin, M. Billau, G. Loiseau, Chế định trái quyền và trái vụ - Chuyên khảo Luật dân sự, Nxb.
LGDJ, 2005 tr. 3.


13

Trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự
do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Bên có nghĩa vụ khơng phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được
nghĩa vụ không thực hiện được là hồn tồn do lỗi của bên có quyền”.
Vậy tại sao lại phát sinh nghĩa vụ dân sự? Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo
đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc khác hoặc
khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Một trong những căn cứ làm phát sinh

nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự4.
Hiểu theo nghĩa rộng thì nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng là một phần trong
nghĩa vụ dân sự nói chung, do đó vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng cũng được xem
là vi phạm nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng trong luật Việt Nam làm phát sinh các nghĩa
vụ pháp lý dân sự, tức là nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của
pháp luật, chứ không phải là nghĩa vụ tự nhiên, đạo đức. Nghĩa vụ được hình thành
từ một mối ràng buộc pháp lý giữa ít nhất hai người và là một quyền bắt buộc cho
phép một bên yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên để làm rõ hơn bản chất
của quan hệ hợp đồng, chúng ta nên làm rõ trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng bằng một khái niệm cụ thể hơn.
Trong pháp luật hiện hành cũng như đa số các quan điểm pháp lý đều nhìn
nhận vi phạm hợp đồng là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy
đủ những nghĩa vụ theo các điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng
hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của pháp luật 5. Việc không thực
hiện đúng hợp đồng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng 6. Như vậy, vi phạm hợp đồng là
4

Điều 280, 281 Bộ luật Dân sự 2005.

5

Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Cơng An Nhân Dân 2013, tr. 373.

6

Hoàng Thế Liên, tlđd (3), tr. 250.


14


thuật ngữ chung để chỉ sự thiếu sót của một trong các bên trong việc thực hiện
nghĩa vụ, sự thiếu sót này khơng cần đề cập đến ngun nhân gây ra sự thiếu sót
này. Chính sự thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ của một bên đã làm cho bên
cịn lại khơng nhận được những lợi ích mà đáng lẽ họ có thể nhận được nếu hợp
đồng khơng bị vi phạm. Chính việc mất đi những lợi ích này dẫn đến nhu cầu được
đền bù cho bên có quyền, hay đòi hỏi phải được bồi thường thiệt hại do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra.
Đến Bộ luật dân sự 2015, các nhà làm luật đã khắc phục sự thiếu sót trên
bằng cách bổ sung một quy định hồn toàn mới tại Khoản 1 Điều 351 như sau: “Vi
phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn,
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa
vụ”. Đây là một sự bổ sung rất cần thiết, giải quyết được những vướng mắc của Bộ
luật dân sự 2005 trước đây.
Tuy nhiên, một vài trường hợp trong Bộ luật dân sự 2015 cách dùng thuật
ngữ vẫn chưa nhất quán, như tại Khoản 1 Điều 351 dùng là “vi phạm nghĩa vụ”,
Khoản 2 cũng vẫn trong Điều 351 lại dùng “không thực hiện đúng nghĩa vụ”.
Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối
với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đúng
thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của
nghĩa vụ.
2. Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất
khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh
được nghĩa vụ khơng thực hiện được là hồn tồn do lỗi của bên có quyền”.


15


Vì vậy, việc thống nhất dùng thuật ngữ “khơng thực hiện đúng nghĩa vụ” để
các quy định của Bộ luật dân sự 2015 được nhất quán và cũng dễ dàng áp dụng
trong thực tế hơn.

1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Bồi thường thiệt hại là thuật ngữ diễn đạt hệ quả pháp lý của hành vi vi phạm
nghĩa vụ. Hiểu theo nghĩa thông thường, bồi thường là việc đền bù lại những tổn
thất đã xảy ra. Thiệt hại là những mất mát, hư hao về người và/hoặc của cải. Bồi
thường là đền bù những tổn hại đã gây ra7. Từ đây, ta có thể hiểu đơn giản bồi
thường thiệt hại là việc đền bù tổn thất về người và/hoặc của cải đã xảy ra.
Về nguyên tắc, thiệt hại được bồi thường luôn phải gắn liền với hành vi vi
phạm hợp đồng. Bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà gây thiệt hại, làm ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên bị vi phạm thì phải có trách nhiệm bù đắp
những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Theo Điều 302, Bộ luật dân sự
2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm chung và được áp
dụng cho các trường hợp vi phạm nghĩa vụ dân sự trong đó có vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng.
Xem xét ở góc độ pháp lý, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân
sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền
bù các tổn thất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp về vật
chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí để ngăn chặn hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút. Pháp luật dân sự quy định hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là hình thức trách nhiệm dân

7


Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn Hóa Thơng Tin 1991, tr. 191.


16

sự đặt ra khi hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng đã gây thiệt hại, theo đó bên
có hành vi vi phạm phải bù đắp những tổn thất vật chất do mình gây ra8.
Thực tế, việc vi phạm hợp đồng xảy ra rất phổ biến. Dù việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự phải tuân theo nguyên tắc luật định là “bên có nghĩa vụ dân sự phải thực
hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết,
không trái pháp luật, đạo đức xã hội”, tuy nhiên việc tuân thủ phụ thuộc phần lớn
vào thái độ thiện chí giữa các bên, trong đó chưa kể đến một số trường hợp khách
quan xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Hành vi vi phạm hợp đồng sẽ dẫn đến tổn thất về lợi ích của bên có quyền,
do đó phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ bên có nghĩa vụ dân sự. Bộ luật
dân sự 2005 chưa đưa ra khái niệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là gì, nhưng
có đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Điều 307 Bộ luật dân sự 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất
vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngồi việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai cịn phải bồi thường một khoản tiền để
bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.”

8


Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, Từ điển pháp luật, Nhà xuất bản tư pháp, Nxb Từ Điển Bách
Khoa, 2006 tr. 84.


17

Luật thương mại 2005 Điều 302 thì quy định “bồi thường thiệt hại là việc
bên vi phạm hợp đồng bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây
ra cho bên bị vi phạm”.
Bộ luật dân sự 2015 quy định tại các Điều 13, Điều 360 và Điều 419 về bồi
thường thiệt hại như sau:
“Điều 13. Bồi thường thiệt hại
Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ
thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
“Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác”.
“Điều 419. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này.
2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra
mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền cịn có thể u cầu
người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do khơng hồn thành nghĩa vụ hợp đồng
mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
3. Theo u cầu của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án
quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”.


1.1.3. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là việc bên vi phạm hợp đồng bồi
thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.


18

Chúng tôi rút ra một số đặc điểm của hành vi bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng như sau:
Một là, giữa bên bị thiệt hại và bên gây ra thiệt hại phải tồn tại một quan hệ
hợp đồng hợp pháp. Nói cách khác, phải có sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự thỏa thuận này được thực
hiện trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng; các bên tự do giao kết với nhau nhưng không trái với các quy định của pháp
luật, đạo đức xã hội. Chủ thể của quan hệ pháp luật phải chịu trách nhiệm dân sự
trong trường hợp gây ra thiệt hại cho một chủ thể khác. Quan hệ trách nhiệm dân sự
có hai chủ thể: một chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và một chủ thể có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Cả quyền yêu cầu và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
đều phát sinh khơng theo ý chí của các đương sự. Ngay cả trong trường hợp người
gây ra thiệt hại mong muốn bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó
cũng khơng phải là nguồn của nghĩa vụ bồi thường: nghĩa vụ bồi thường do luật quy
định, cịn người có nghĩa vụ chỉ có ý định thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của
mình khơng tạo ra9.
Mọi thiệt hại phát sinh đều có do các nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp.
Không phải bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và cũng không phải cứ có thiệt hại là phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Trong Luật thương mại 2005, ngồi việc u cầu có vi phạm hợp đồng và
tồn tại thiệt hại như đã phân tích ở trên, để trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh thì cần thêm yếu tố nhân quả, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại. Trong Bộ luật dân sự 2005, yếu tố nhân quả không được quy

định rõ ràng như Luật thương mại 2005. Tuy nhiên, yếu tố nhân quả này là cần thiết
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Để có cơ sở vững chắc ràng buộc trách
nhiệm của bên vi phạm hợp đồng, gây ra thiệt hại và để thống nhất nội dung giữa

9

Nguyễn Ngọc Điện, tlđd (2).


19

hai Luật Thương mại và Dân sự, chúng ta nên theo hướng của Luật Thương mại là
nêu rõ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường trong đó có điều kiện nhân
quả. Về mặt thời gian, nguyên nhân phải có trước kết quả, hành vi khơng thực hiện
đúng hợp đồng phải có trước thiệt hại. Do vậy nếu thiệt hại đã xảy ra trước hành vi
không thực hiện đúng hợp đồng thì khơng có quan hệ nhân quả. Mặc khác, cần xem
xét đến yếu tố thiệt hại có thể là do hành vi vi phạm trực tiếp dẫn đến hay không.
Hai là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một loại
trách nhiệm dân sự. Do đó, nó có các đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung:
(1) được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự, (2) là biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự và
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế, (3) bên có hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự chịu trách nhiệm về tài sản, phải thực hiện hoặc khơng
thực hiện một cơng việc vì lợi ích hợp pháp của bên có quyền bị xâm hại, (4) áp
dụng trực tiếp đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Ba là, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên trên thực tế Tòa án chỉ chấp
nhận bồi thường cho những thiệt hại mà bên bị vi phạm chứng minh được. Bên bị
thiệt hại được bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Đây là những nội dung mà Bộ luật dân sự 2015 được kế thừa theo tinh thần từ Bộ

luật dân sự 2005, tuy nhiên có những điểm mới được bổ sung.
Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn
thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.
Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại mà đáng lẽ ra mình sẽ
được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền cịn có thể u cầu người có


20

nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do khơng hồn thành nghĩa vụ hợp đồng mà khơng
trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
Bốn là, thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
không đương nhiên làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên. Tại Điều 352 Bộ
luật dân sự 2015 về trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thì “Khi bên có nghĩa
vụ thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có
nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”. Bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng
nhưng đã không thực hiện, thực hiện không đúng, khơng đầy đủ nghĩa vụ dân sự có
trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền. Nghĩa là, sau khi bồi
thường thiệt hại, bên có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Nghĩa vụ dân sự chỉ chấm dứt khi bên có nghĩa vụ đã thực
hiện tồn bộ hoặc một phần nghĩa vụ nhưng phần còn lại được bên có quyền miễn
cho việc thực hiện tiếp10 hoặc khi thỏa mãn một trong các trường hợp được quy
định tại Điều 372 Bộ luật dân sự 2015.
1.2. Nội dung của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

1.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
Cơ sở làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là

tập hợp tất cả những điều kiện cần và đủ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại giữa bên gây ra thiệt hại và bên bị thiệt hại. Căn cứ những quy định của Bộ luật
dân sự 2015, chúng tôi xét đến ba điều kiện cần thiết để làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là:
- Có sự vi phạm hợp đồng;
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại.

10

Điều 373 Bộ luật dân sự 2015.


×