Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý khu di tích cổ loa huyện đông anh thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

PHÙNG VĂN QUỲNH

SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CƠNG TÁC
QUẢN LÝ KHU DI TÍCH CỔ LOA, HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: DÂN TỘC HỌC


HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

PHÙNG VĂN QUỲNH

SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CƠNG TÁC
QUẢN LÝ KHU DI TÍCH CỔ LOA, HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI


Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 31 03 10

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Sửu

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Sửu. Các số liệu, kết quả nghiên cứu

trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Luận văn có sự kế thừa các cơng trình nghiên cứu của những người đi trước
và có sự bổ sung thêm những tài liệu mới.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Phùng Văn Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
PGS.TS Nguyễn Văn Sửu, người thầy đã gợi mở cho tôi từ những ý tưởng ban đầu

của luận văn cũng như đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tơi trong suốt q trình
thực hiện và hồn thành luận văn.
Tơi cũng trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tại Khoa Nhân học, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo, động viên khích lệ, tạo điều kiện tốt
nhất cho q trình học tập của tơi tại đây.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Phùng Văn Quỳnh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU ....................................7
1.1 Tiếp cận tham gia và sự tham gia của cộng đồng trong quản lý văn hóa .............7
1.1.1 Về Khu di tích Cổ Loa .......................................................................................7
1.1.2 Về tiếp cận tham gia và sự tham gia của cộng đồng ........................................10
1.1.3 Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý di tích lịch sử, văn hóa ..................16
1.2. Một số khái niệm cơ bản ....................................................................................19
1.2.1 Khái niệm cộng đồng .......................................................................................19
1.2.2 Khái niệm sự tham gia của cộng đồng .............................................................21
1.2.3 Khái niệm di tích lịch sử, văn hóa....................................................................23
1.2.4 Khái niệm quản lý và quản lý văn hóa .............................................................30

Tiểu kết .....................................................................................................................36
Chƣơng 2: VAI TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CƠNG TÁC QUẢN LÝ
KHU DI TÍCH CỔ LOA ........................................................................................37
2.1 Vài nét về Cổ Loa ...............................................................................................37
2.1.1 Xã Cổ Loa ........................................................................................................37
2.1.2 Đặc điểm Khu di tích Cổ Loa ..........................................................................38
2.1.3 Một số điểm di tích lịch sử văn hóa thuộc Khu di tích Cổ Loa .......................42
2.2 Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý Khu di tích Cổ Loa ............49
2.2.1 Những chủ thể liên quan đến Khu di tích Cổ Loa ...........................................49
2.2.2 Vai trị mờ nhạt của cộng đồng trong công tác quản lý Khu di tích Cổ Loa ...51
2.2.3 Quy hoạch Khu di tích Cổ Loa - mối quan tâm của cộng đồng địa phương ...57
Tiểu kết .....................................................................................................................63

Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CƠNG TÁC QUẢN LÝ KHU
DI TÍCH CỔ LOA HIỆN NAY..............................................................................64
3.1. Di tích Cổ Loa đang bị xâm hại .........................................................................64
3.2 Chồng chéo trong công tác quản lý .....................................................................65
3.3 Nhận thức của cộng đồng về bảo tồn, phát huy giá trị của Khu di tích Cổ Loa .66
3.4 Người dân chưa gắn kết với việc khai thác các giá trị tại Khu di tích ................68
3.5 Di tích đang làm “đóng băng” đời sống của người dân Cổ Loa .........................71
3.6.1 Di sản văn hóa là một thực thể trong xã hội hiện đại.......................................75
3.6.2 Cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào cơng tác quản lý di sản văn
hóa .............................................................................................................................77
3.6.3 Mối quan hệ giữa cộng đồng và các chủ thể khác liên quan đến quản lý di sản
văn hóa ......................................................................................................................79

3.6.4 Quan điểm bảo tồn - phát triển.........................................................................81
Tiểu kết .....................................................................................................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................89

1


MỞ ĐẦU
I. Lý do nghiên cứu
Di sản văn hóa, “bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật
thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu

truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [66]. Trong bối cảnh tồn cầu hóa đang diễn
ra trên khắp thế giới, các quốc gia không chỉ cố gắng phát triển kinh tế, giao lưu văn
hóa mà cịn tìm cách bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân
tộc, coi đó như một tài sản và lợi thế nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho đất
nước.
Trên thực tế, ở mỗi quốc gia, công tác quản lý, bảo tồn, khai thác và phát huy
các giá trị văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng trở thành nguồn nội lực
nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng, ngày một được một quan
tâm. UNESCO không ngừng kêu gọi mỗi dân tộc, cộng đồng tôn trọng, nâng cao
nhận thức trong công tác bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di sản văn hóa bản
địa. Nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, như: Campuchia, Thái Lan… đã
thực hiện tốt công tác quản lý cũng như khai thác di sản văn hóa, thu hút sự tham

quan của đông đảo du khách trong nước và quốc tế, đóng góp trực tiếp vào tăng
trưởng GDP của đất nước và phát triển kinh tế, xã hội địa phương có di sản.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, các di sản văn hóa, gồm cả vật thể và phi
vật thể tại nhiều quốc gia và địa phương đang trở thành nạn nhân của xu thế tồn
cầu hóa, đơ thị hóa. Các di sản văn hóa dần đánh mất những yếu tố gốc cấu thành
đặc trưng của di sản văn hóa. Thực tế này được Công ước năm 1972 của UNESCO
nhận định “di sản văn hoá và di sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị phá hoại
khơng những bởi những nguyên nhân cổ truyền là xuống cấp mà còn bởi sự tiến
triển của đời sống xã hội và kinh tế làm cho các nguyên nhân cổ truyền trầm trọng
thêm do các hiện tượng làm hư hỏng hoặc phá hoại ghê gớm hơn nữa”. [101].
Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến nay, Nhà nước luôn quan
tâm đến công tác quản lý, bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di sản văn hóa dân

tộc. Nhiều chính sách về di sản văn hóa được ban hành nhằm phù hợp hơn với tình
hình, đặc điểm của đất nước trong mỗi thời kỳ, như:

2


- Sắc lệnh số 65 ngày 23/11/1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Nghị định số 519/TTG ngày 29/10/1957 của Thủ tướng Chính phủ về Quy
định thể lệ bảo tồn cổ tích;
- Pháp lệnh Số: 14-LCT/HĐNN7 ngày 04/04/1984 của Hội đồng Nhà nước về
Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh;
- Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/07/1988 của Ban Chấp hành Trung ương

về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Luật Di sản văn hóa (năm 2001) và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa (năm 2009)
- Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung
ương đã khẳng định “văn hố Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng
tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” [6] đã cho thấy
vai trò của văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng cũng như quan điểm của
Nhà nước về lĩnh vực này đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Dù vậy, trong những năm qua công tác quản lý và việc khai thác ít nhiều làm

ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các di sản văn hóa. Đối với một số trường hợp di
tích lịch sử, văn hóa ở Việt Nam, các chủ thể văn hóa, như: người dân làng cổ
Đường Lâm viết đơn “xin” trả lại danh hiệu di sản cho Nhà nước; các di tích chùa
Trăm Gian, thành nhà Mạc tại Tuyên Quang, ô Quan Chưởng tại Hà Nội bị “biến
dạng” trong quá trình tu bổ… cho thấy những bất cập của công tác quản lý, bảo tồn,
khai thác và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nhiều địa phương trên phạm vi cả
nước.
Đứng trước những thách thức đó, có nhiều giải pháp đã được đưa ra, trong
đó có việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương vào công tác quản lý
di sản văn hóa như một cách tiếp cận mới nhằm bảo tồn, khai thác và phát huy hiệu
quả giá trị di sản văn hóa. Những kết quả đạt được ở Việt nam và nhiều quốc gia đã
chứng minh cho tính hữu ích của hướng tiếp cận này. Song, sự tham gia của cộng

đồng vào công tác quản lý, khai thác, tổ chức các hoạt động có liên quan đến di sản
3


văn hóa lại chưa được phát huy ở tất cả các khía cạnh. Trong khi vai trị của sự tham
gia của cộng đồng được thể hiện rõ trong công tác quản lý, tổ chức các hoạt động di
sản văn hóa phi vật thể thì sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động quản lý, tổ
chức các di tích lịch sử, văn hóa vật thể chưa thực sự nổi bật. Ngược lại, trong một
số trường hợp, những tác động thiếu định hướng của cộng đồng đang làm ảnh
hưởng đến tính nguyên gốc của nhiều di tích… Những vấn đề này trong thực tiễn
quản lý di tích lịch sử văn hóa có sự tham gia của cộng đồng cũng như việc bảo tồn,
khai thác và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa cần được nghiên cứu và lý

giải một cách thấu đáo. Trên cơ sở đó, tơi chọn “Sự tham gia của cộng đồng trong
công tác quản lý Khu di tích Cổ Loa, huyện Đơng Anh, thành phố Hà Nội” làm
đề tài Luận văn của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là:
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng sự tham gia của cộng đồng trong cơng tác quản
lý Khu di tích Cổ Loa;
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa cộng đồng và Nhà nước trong cơng tác quản lý
Khu di tích Cổ Loa, tác động của mối quan hệ này đối với công tác bảo tồn, khai
thác và phát huy giá trị của Khu di tích;
- Lý giải vai trị của cộng đồng đối với cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
nói chung, Khu di tích Cổ Loa nói riêng trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa cộng

đồng và di tích lịch sử, văn hóa
III. Câu hỏi nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả có những câu hỏi nghiên cứu như
sau:
- Cơng tác quản lý Khu di tích Cổ Loa được triển khai như thế nào?
- Ai đang là chủ thể quản lý đối với Khu di tích?
- Ban quản lý/Nhà nước quan niệm như thế nào về sự tham gia và vai trị của
cộng đồng trong cơng tác quản lý Khu di tích Cổ Loa? Những quan niệm này ảnh
hưởng như thế nào đến thực tiễn sự tham gia của cộng đồng vào quản lý di tích?
- Cộng đồng là ai? Và họ nhận thức như thế nào về di tích Cổ Loa và sự tham
gia của họ vào công tác quản lý di tích?
4



- Thực tiễn của sự tham gia của cộng đồng vào quản lý Khu di tích Cổ Loa
diễn ra như thế nào? có hay khơng sự tham gia của cộng đồng trong cơng tác quản
lý Khu di tích Cổ Loa và mức độ thể hiện ra sao?
- Những thách thức và cản trở nào đối với sự tham gia của cộng đồng vào
quản lý di tích, tại sao?...
IV. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Tôi tập trung tìm hiểu về khu di tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội, làm rõ công tác quản lý, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa của khu di
tích và qua đó xem xét sự tham gia của cộng đồng mà cụ thể ở đây là người dân Cổ

Loa trong công tác quản lý, khai thác và phát huy giá trị văn hóa của khu di tích
này.
Như vậy, luận văn của tơi đi sâu tìm hiểu nhu cầu, mối quan tâm và sự “tham
gia” thực tế của người dân Cổ Loa với khu di tích. Cùng với đó, các nhà quản lý
liên quan đến khu di tích Cổ Loa và các nhà chun mơn cũng là bộ phận được
khảo sát để xem công tác quản lý có bao gồm sự tham gia của cộng đồng như thế
nào, dưới hình thứ nào, ở mức độ ra sao và tại sao? Mối quan hệ giữa hai thực thể
cộng đồng và cơ quan quản lý khu di tích này diễn phương khác vào di tích
Cổ Loa.

84



KẾT LUẬN
1. Di sản văn hóa, bao gồm vật thể và phi vật thể là tài sản quý giá của mỗi
quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, với sự bùng nổ của những trào
lưu văn hóa mới, sự, phát triển, lan tỏa “chóng mặt” của cơng nghệ thông tin; các xã
hội đang trở nên “đồng dạng” hơn thì việc nhấn mạnh vai trị của cơng tác bảo tồn,
gìn giữ những đặc trưng văn hóa vùng, miền, quốc gia, khu vực là một mục tiêu
được đặt ra nhằm tìm kiếm một sự cân bằng tương đối giữa tốc độ phát triển giữa
kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa của mỗi quốc gia, khu vực. Bên cạnh đó, tại
một số quốc gia, nhiều di sản văn hóa đang được bảo tồn, khai thác và phát huy một
cách hiệu quả gắn liền với các loại hình du lịch văn hóa, khám phá, du lịch cộng
đồng, trở thành một nguồn sinh kế góp phần cải thiện thu nhập của cộng đồng địa

phương có di sản.
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, nhiều các
tộc người anh em cùng chung sống hòa bình, gắn kết; đất nước trải dài trên nhiều vĩ
độ, đa dạng các loại địa hình… Về cơ bản, nước ta có một nguồn tài nguyên nhân
văn phong phú mang đặc trưng của mỗi địa phương, vùng, miền; chứa đựng những
tiềm năng lớn để phát triển nhiều loại hình du lịch, góp phần phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của địa phương, đất nước. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có
những sự quan tâm đối với lĩnh vực văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng.
Luật di sản được ra đời (2001, sửa đổi bổ sung năm 2009); nhiều Nghị định, Thông
tư hướng dẫn được ban hành; các chương trình liên quan đến di sản văn hóa được
hoạch định từng bước chiến lược trong nhiều năm sắp tới; di sản văn hóa đặc trưng
của mỗi địa phương được kiểm kê và Nhà nước phong tặng các danh hiệu cho mỗi

di sản đáp ứng được những tiêu chí phù hợp với các cấp độ đề ra (di tích cấp
Huyện, Tỉnh/Thành phố, Quốc gia, Quốc gia đặc biệt); nhiều di sản văn hóa được
Chính phủ xây dựng đề cử lên UNESCO phong tặng di sản văn hóa thế giới… Tuy
nhiên, trước những thành tựu bước đầu đó, chúng ta cũng cần nhìn nhận, đánh giá
một cách khách quan thực trạng về công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa, biến các di sản văn hóa mang đặc trưng của mỗi địa phương trở thành thế
mạnh, góp phần thúc đẩy đời sống cộng đồng còn nhiều những hạn chế, chưa phát
huy được hiệu quả xứng tầm.
85


2. Sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý di sản văn hóa được đưa ra

như một cách tiếp cận mới nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy tính hiệu
quả tốt hơn. Nguyên tắc của cách tiếp cận này nhằm lấy cộng đồng địa phương làm
gốc, vừa là chủ thể sở hữu, quản lý vừa là mục tiêu trong xây dựng, thực hiện các
chương trình, dự án về phát triển cộng đồng. Hiện nay, phương pháp tiếp cận có sự
tham gia của cộng đồng khơng còn quá mới mẻ đối với nền học thuật của Việt Nam.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này đang xuất hiện nhiều hơn trên các văn bản, chương
trình hội thảo, tập huấn, tọa đàm khoa học… so với áp dụng trong thực tiễn nói
chung, lĩnh vực di sản văn hóa nói riêng. Ngoài ra, cách tiếp cận này thường xuất
phát từ các nền học thuật phát triển của phương Tây và Mỹ, những quốc gia, khu
vực không cùng tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục cũng như đặc điểm văn
hóa với Việt Nam. Bởi vậy, khi sử dụng cách tiếp cận mới này vào thực tiễn, chúng
ta cần linh hoạt, uyển chuyển nhằm phù hợp với đặc điểm, tình hình của mỗi địa

phương.
3. Khu vực thành Cổ Loa, huyện Đơng Anh là một di tích trọng điểm của
thành phố Hà Nội. Nơi đây lưu giữ những giá trị lịch sử văn hóa, khảo cổ về một
q trình phát triển liên tục của Việt Nam qua nhiều giai đoạn lịch sử. Đây là một
quần thể di tích với các đoạn tường thành, hào (3 vòng thành: Nội, Trung, Ngoại)
minh chứng về một thời kỳ gắn với huyền tích vua An Dương Vương xây thành Cổ
Loa; các điểm di tích tâm linh (đền Thượng thờ đức vua An Dương Vương; đình
Ngự triều Di quy (nơi vua An Dương Vương thiết triều); am Mỵ Châu (thờ công
chúa, con gái của vua An Dương Vương, liên quan đến mối tình Mỵ Châu – Trọng
Thủy); chùa Bảo Sơn (chùa Cổ Loa); đình và chùa Mạch Tràng; các điếm xóm
(chức năng như đình làng)… Khu di tích Cổ Loa nhiều lần được Nhà nước phong
tặng các danh hiệu lịch sử văn hóa (di tích Quốc gia, di tích Quốc gia đặc biệt).

Khu di tích Cổ Loa là một dang “di sản sống”, với các điểm di tích nằm đan
cài trong khu dân cư. Cùng với đời sống sinh hoạt văn hóa, mang đặc trưng của
những ngôi làng truyền thống vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng đã nuôi dưỡng
nhiều giá trị, những câu chuyện lịch sử về vùng đất Cổ Loa, làm phong phú hơn
tính đặc trưng văn hóa của khu di sản. Cũng như nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa
trên nhiều vùng quê Việt Nam, khu vực thành Cổ Loa, dù là một di tích Quốc gia
86


đặc biệt, có các điểm di tích tham quan gắn với những mục đích khác nhau phù hợp
với nhiều đối tượng du khách, nhưng hiện nay, Khu di tích Cổ Loa vẫn tồn tại ở
tiềm năng trong các hoạt động thu hút khách tham quan. Nhiều điểm di tích trong

quần thể khu di sản đang bị xuống cấp. Điều này cho thấy sự thiếu hiệu quả trong
công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị đang diễn ra tại di tích.
4. Hiện nay, trong cơng tác quản lý tại Khu di tích Cổ Loa đang có những sự
chồng chéo về không gian, thời gian giữa Ban quản lý và chính quyền UBND xã Cổ
Loa. Trong khí đó, vai trò của cộng đồng địa phương lại bị xem nhẹ. Người dân địa
phương chỉ được tiếp nhận thông tin một cách thụ động bằng các thông báo trên loa
phát thanh, hoặc truyền miệng từ nhiều người dân. Cộng đồng người dân Cổ Loa ít
có những điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa. Bên cạnh đó, do những đặc thù về lịch sử, văn hóa cộng đồng
làng xã, người dân Cổ Loa chưa có sự nhận thức về vai trò và trách nhiệm của họ
đối với những công tác chung của cộng đồng và xã hội. Với người dân, những cơng
việc đó thuộc chức năng của các đơn vị quản lý nhà nước, như Ban quản lý Khu di

tích và chính quyền xã. Cộng đồng thiếu những kiến thức/nhận thức về công tác
quản lý, bảo tồn, cũng như tự đánh mất quyền và quyền lợi của họ tham gia vào
cơng tác quản lý bảo tồn di tích.
Mặt khác, chính người dân, vì nhiều lý do khác nhau đang tác động làm ảnh
hưởng tới tính nguyên vẹn và cấu trúc khơng gian của Khu di tích Cổ Loa, như việc
xây dựng các ngôi nhà ở dân sinh. Sự chậm trễ trong việc xây dựng và triển khai đồ
án quy hoạch liên quan đến khu di tích Cổ Loa trong thời gian qua đã làm người
dân mất dần sự tin tưởng vào tính khả thi của đồ án quy hoạch cũng như thời gian
áp dụng vào thực tiễn của đồ án.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, trình độ nhận thức của
người dân tại các làng quê Việt Nam nói chung, tại cổ Loa nói riêng, ta có thể hiểu
mức độ về mối quan tâm của cộng đồng địa phương đến những vấn đề thiết thực

liên quan đến đời sống sinh hoạt, sản xuất hơn là những kiến thức, quan niệm về
bảo tồn di sản văn hóa. Vì lẽ đó, việc tăng cường, thúc đẩy sự tham gia của cộng
đồng trong trường hợp này là cần thiết đặt trong mối quan hệ giữa cộng đồng với
Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa và chính quyền UBND xã Cổ Loa. Các đơn vị quản
87


lý hành chính, chun mơn của Nhà nước là một bên cần chủ động kêu gọi, khuyến
khích người dân tham gia cũng như tạo mơi trường để cộng đồng có những sự trải
nghiệm. Thông qua việc được giao đảm nhiệm những vai trò nhất định (theo từng
bước, gắn liền với năng lực từng giai đoạn), cộng đồng địa phương sẽ nâng cao dần
năng lực nhận thức của bản thân về kiến thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn

hóa. Họ sẽ nhận thức được vai trị của di sản văn hóa với đời sống kinh tế, xã hội
địa phương nếu biết lưu giữ, phát huy một cách hiệu quả. Qua đó, mỗi người dân
tham gia sẽ là một đầu mối, một kênh truyền thông quảng bá những kiến thức mới
đến gia đình, làng xóm, góp phần cùng nâng cao nhận thức chung của toàn cộng
đồng.

88


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Nguyễn Văn Anh (2009), Bảo tồn, trùng tu các di sản văn hóa - kinh

nghiệm từ vùng Wallonie (vương quốc Bỉ), tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (29), tr 104
- 106.
2.

Asian Development Bank (2012), Tăng cường sự tham gia vì kết quả

phát triển, hướng dẫn của ngân hàng phát triển châu Á về sự tham gia, đăng trên
www.adp.org
3.


Đặng Văn Bài (2010), Quy hoạch và xây dựng đô thị với vấn đề bảo

tồn di sản văn hóa, tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (30), tr 18 - 21.
4.

Đặng Văn Bài (2013), Luận bàn về danh hiệu di sản văn hóa và thiên

nhiên thế giới của UNESCO, tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (42), tr 26 - 30.
5.

Đặng Văn Bài (2007), Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học “Bảo tồn di


tích và cuộc sống đương đại”, ngày 16/1//2007, Hà Nội, đăng trên

6.

Đặng Văn Bài (2013), “Quan điểm bảo tồn di sản văn hoá trong chiến

lược phát triển văn hoá đến năm 2020”, tạp chí Văn hố Nghệ thuật, (346), tr 8 - 12.
7.

Ban Quản lý Vịnh Hạ Long (2014), Bảo tồn, phát huy bền vững giá trị

di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Quản Ninh.

8.

Nguyễn Chí Bền (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật

thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
9.

Trần Văn Bính (2009), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh

tế quốc tế, tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (28), tr 23 – 24.
10. Nguyễn Thị Chiến (2004), Khai thác di sản văn hóa như là một tài
nguyên du lịch, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, tr 38 – 43.

11. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số
65, ngày 23/11/1945, đăng trên
12. Cục di sản văn hóa (2007), Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Thế
giới, tập 1
13.

Cục di sản văn hóa (2005), Một con đường tiếp cận di sản văn hóa,

Hà Nội, tập 1
89



14.

Cục di sản văn hóa (2005), Một con đường tiếp cận di sản văn hóa,

Hà Nội, tập 2
15.

Vũ Dũng (2009), Ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc và ý thức quốc gia,

tạp chí Tâm lý học, số 7, tr 1 – 10.
16.


Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm

BCHTƯ khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia.
17.

Đặng Ngọc Dinh, Giải quyết xung đột và phòng chống tham nhũng:

sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, Nxb Tri thức.
18.

Fichter (1974), Xã Hội học, bản dịch Trần Văn Đĩnh, Nxb Hiện đại


19.

Phan Hồng Giang, Bùi Hồi Sơn (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam

trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia.
20.

Nguyễn Trường Giang (2013), Những bức ảnh, những câu chuyện và

sự thay đổi của cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng tham gia chương
trình photovoice và triển lãm văn hóa của mình đối thoại qua khơng gian văn hóa
mở.

21.

Gustave Lebon (2013), Tâm lý học đám đơng, Nxb Tri thức.

22.

Nguyễn Hồng Hà (2004), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong bối

cảnh tồn cầu hóa, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr 14 – 18.
23.

Đỗ Hậu (2008), Quy hoạch xây dựng đô thị với sự tham gia của cộng


đồng, Nxb Xây dựng.
24.

Hiệp hội các đô thị Việt Nam (ACVN) (2009), Tăng cường sự tham

gia của người dân vào quản lý nhà nước tại địa phương: cơ hội và thách thức của
các đô thị, đăng trên
/>25.

Phạm Thị Hoa (2013), Thực trạng hoạt động và phát triển du lịch tại


Khu di tích Cổ Loa, Khóa luận Du lịch học, trường Đại học KHXH&NV.
26.

Tạ Quỳnh Hoa (2009), Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng

đồng – những vấn đề cần nghiên cứu cho việc áp dụng phương pháp tại Việt Nam,
tạp chí Khoa học cơng nghệ xây dựng – trường Đại học Xây dựng, số 6.

90


27.


Nguyễn Thị Thanh Hịa (2012), Biến đổi đời sống tơn giáo, tín

ngưỡng huyện Đơng Anh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Việt Nam học, Viện
Việt Nam học & Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28.

Hồ Chí Minh tồn tập (2011), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà

Nội, t.3.
29.


Hội đồng Nhà nước (1984), Pháp lệnh số 14 -LCT/HĐNN7 ngày

4/4/1984 về bảo vê và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh,
đăng trên
30.

Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng lý

thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa thơng tin.
31.

Lê Ngọc Hùng (2009), Ba nấc thang phát triển lý thuyết về vị thế và


vai trò của con người trong cấu trúc xã hội, tạp chí Nghiên cứu con người, số 1 (40),
tr 50 – 58.
32.

Lê Ngọc Hùng (2010), Xã hội học về lãnh đạo, quản lý, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.
33.

Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học


quốc gia Hà Nội.
34.

Nguyễn Quốc Hùng (2009), Di sản văn hóa Hà Nội một thiên niên kỷ

- những dấu ấn văn hóa và thách thức, tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (29), tr 14 – 21.
35.

Nguyễn Văn Huy (2007), Di sản văn hóa bảo tàng và những cuộc đối

thoại, Nxb Thế giới.
36.


ICOMOS (1964), Hiến chương Venice – Hiến chương quốc tế về bảo

tồn và trùng tu di tích và di chỉ, đăng trên />37.

Trần Văn Khê (2002), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật chất

của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong sách: Tính đa dạng của văn hóa Việt
Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Hà Nội.
38.

Hồng Văn Khốn (2002), Cổ Loa trung tâm hội tụ văn minh Sơng


Hồng, Nxb Văn hóa Thông tin.
39.

Nguyễn Trung Kiên, Lê Ngọc Hùng (2012), Quản lý xã hội dựa vào

sự tham gia: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, tạp chí Xã hội học, số 1 (117), tr
104.
91


40.


Hồng Đạo Kính (2002), Di sản văn hóa bảo tồn và trung tu – tập tiểu

luận, Nxb Văn hóa thơng tin.
41.

Phạm Văn Kỉnh (1969), Thời kỳ An Dương Vương và thành Cổ Loa,

tạp chí Khảo cổ học, số 3-4.
42.

Klaus Kirchmann (2006), Lập kế hoạch có sự tham gia – cơ sở thảo


luận, dự thảo cho dự án SMNR-CV, đăng trên
/>43.

Trần Ngọc Liêu (2009), Bài giảng Khoa học quản lý đại cương,

Trường Đại học KHXH&NV.
44.

Nguyễn Thùy Linh (2011), Một số nhận thức về di tích và quản lý di

tích của cộng đồng Cổ Loa, đăng trên

/>45.

Nguyễn Thùy Linh (2012), Vấn đề cộng đồng trong công tác bảo tồn

và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa tại Khu di tích Cổ Loa, Hà Nội và một số đề
xuất, Luận văn Việt Nam học, Viện Việt Nam học khoa học và phát triển.
46.

Nguyễn Thị Kim Loan (2012), Quản lý di sản văn hóa, giáo trình

dùng cho sinh viên cao đẳng và đại học ngành quản lý văn hóa, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.

47.

Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương (2002), Tính cộng đồng tính cá

nhân và cái tơi của người Việt Nam ngày nay, Nxb Chính trị Quốc gia.
48.

Đỗ Long và Trần Hiệp (1993), Tâm lý cọng đồng làng và di sản, Nxb

Khoa học xã hội.
49.


Ngô Thắng Lợi, Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý phát triển,

tạp chí kinh tế và phát triển, số, tr 12 – 14.
50.

Lê Thị Minh Lý (2010), Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể - quá trình

nhận thức và bài học thực tiễn, tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (30), tr 42 – 45.
51.

Dương Minh (1960), Thử nhận định về những mũi tên đồng phát hiện


ở Cổ Loa, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 14.
52.

Quang Minh và Nguyễn Thu Trang (2012), Vai trị của cộng đồng

nhìn từ góc nhìn bảo tồn di sản văn hóa, tạp chí Di sản, số 4 (41), tr 18 – 23.
92


53.

Mai Quỳnh Nam (2009), Dư luận xã hội và sự tham gia của người dân


trong cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạp chí nghiên cứu con
người, số 4 (43), tr 34 – 38.
54.

Nguyễn Thị Nga (2005), Thiết chế quản lý và các hình thức liên kết

cộng đồng ở Cổ Loa từ truyền thống đến hiện đại, Khóa luận Lịch sử, trường Đại
học KHXH&NV.
55.

Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (2007), Địa chí Cổ Loa, Nxb Hà


56.

Vũ Hoa Ngọc (2012), Nhìn lại vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản

Nội.
văn hóa trong khu vực phố cổ, tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (38), tr 81 – 85.
57.

Nguyễn Hữu Nhân (2004), Phát triển cộng đồng, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

58.

Nhiều tác giả (2014), Nhân học phát triển lịch sử, lý thuyết và công cụ

thực hành, Nxb Tri thức.
59.

Nguyễn Thị Kim Nhung (2014), Lý thuyết về sự tham gia của cộng

đồng trong hoạch định chính sách và khả năng vận dụng vào q trình ban hành các
quyết định về môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 2 (126).
60.


Nguyễn Thị Kim Nhung (2014), Sự tham gia của người dân trong hoạt

động quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị, LATS Xã hội học, trường
Đại học KHXH&NV.
61.

Đỗ Lan Phương (2012), Về quyền sở hữu di sản văn hóa tại Việt Nam,

tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 335.
62.


Lương Hồng Quang (2013), Đa dạng về các biểu đạt văn hóa từ các

di sản văn hóa phi vật thể (bàn về khuynh hướng chính sách và thực tiễn cổ vũ cho
sự tham gia của cộng đồng), trong Kỷ yếu Hội thảo “10 năm thực hiện công ước
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, bài học kinh nghiệm và định hướng
tương lai”, tr 446 – 461
63.

Vũ Hào Quang (2004), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà

64.


Vũ Quốc Quân (2011), Di sản văn hóa Việt Nam – ngủ quên và thức

Nội.
tỉnh, tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (37), tr 21 – 23.
93


65.

Võ Quế (2006), Du lịch cộng đồng: Lý thuyết và vận dụng, Nxb Khoa

học và kỹ thuật, tập 1.

66.

Quốc

hội

(2001),

Luật

Di


sản

văn

hóa,

đăng

trên


67.


Quốc Hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản

Văn hóa, đăng trên
68.

Quốc hội (2003), Luật Đất đai, đăng trên

69.

Quốc hội (2014), Luật Xây dựng, đăng trên


70.

Vũ Trung Quý (2007), Bàn về khái niệm “đám đơng gây rối an ninh

trật tự”, tạp chí Tâm lý học, số 1 (94), tr 21 – 26.
71.

Ritu Shroff (2008) Sự tham gia của nam giới vào chương trình dự

phòng lây truyền mẹ con ở Việt Nam – Những thách thức và cơ hội đối với chương
trình, Hà Nội.
72.


Sherry R. Arnstein (1962), A ladder of citizen participation, đăng trên

www.planning.org
73.

Bùi Hoài Sơn (2012), Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội

truyền thống ở Việt Nam, tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (32), tr 10 - 14.
74.

Bùi Hoài Sơn (2011), Mối quan hệ giữa du lịch và bảo tồn di sản văn


hóa: nghiên cứu trường hợp dọc theo sơng Hồng, tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (37),
tr 70 – 73.
75.

Nguyễn Văn Sửu (2014), Cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa và biến đổi

sinh kế ở ven đô Hà Nội, Nxb Tri thức.
76.

Bùi Quang Thanh (2012), Một số vấn đề về quản lý và tổ chức lễ hội


truyền thống, tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (40), tr 45.
77.

Phạm Thị Thoa (2013), Thực trạng hoạt động và phát triển du lịch tại

Khu di tích Cổ Loa, Khóa luận Du lịch học, trường Đại học KHXH&NV.
78.

Ngơ Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam – truyền thống và

biến đổi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79.


Ngơ Thế Thịnh (1979), Cơng trình thành Cổ Loa, tạp chí Nghiên cứu

lịch sử, số 2.

94


80.

Nguyễn Hữu Thức (2012), Một số vấn đề đặt ra trong quản lý và tổ


chức lễ hội hiện nay, tạp chí Di sản văn hóa, số 2 (39), tr 9 – 13.
81.

Trương Minh Tiến (2014), Gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Thăng Long – Hà Nội, in trong Hội thảo 60 năm giải phóng Thủ đơ thành tựu, thời
cơ, thách thức và phát triển, Hà Nội, tr 417 – 424
82.

Lưu Trần Tiêu (2011), Mấy vấn đề về hoạt động tu bổ, phục hồi di

tích lịch sử - văn hóa, tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (36), tr 3 – 7.

83.

Lưu Trần Tiêu (2012), Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt động

bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (40), tr 17 – 21.
84.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO, 2002), Hướng dẫn giám sát có sự

tham gia để đánh giá tiến độ của dự án và thúc đẩy học hỏi.
85.


Tổ chức Quốc tế chống đói nghèo (Actionaid, (2010), Truyền thơng

có sự tham gia của cộng đồng – Một số mơ hình giúp người dân tiếp cận thông tin,
kinh nghiệm thực hiện dự án tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình
cải cách hành chính ở Việt Nam, Hà Nội.
86.

Võ Quang Trọng (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

phi vật thể ở Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hà Nội.
87.


Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội (2012), Hồ sơ đề

nghị công nhận di tích Quốc gia đặc biệt Khu di tích Cổ Loa Đông Anh – Hà Nội.
88.

Trung tâm nghiên cứu - tư vấn chính trị xã hội và phát triển cộng đồng

(2012), Tổ chức hoạt động dựa vào cộng đồng, trong dự án “Nâng cao năng lực
cho nhân viên xã hội cở sở ở TP HCM”.
89.

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2009), Giáo trình chính sách văn


hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
90.

Nguyễn Dỗn Tn (2003), Khu di tích Cổ Loa lịch sử văn vật, Nxb

Hà Nội.
91.

Nguyễn Quang Tuấn (2006), Tăng cường sự tham gia của người dân

trong quá trình hoạch định chính sách, tạp chí Cộng sản, số 20, tr 25 – 28.

92.

Phạm Hồng Tung (2010), Bàn về văn hóa cộng đồng, tạp chí Khoa

học Đai học quốc gia Hà Nội, KHXH&NV, số 26, tr 121 – 132.

95


93.

UBND thành phố Hà Nội (2002), Quyết định về việc phê duyệt Quy


hoạch chi tiết khu vực di tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội – tỷ lệ 1.2000.
94.

UBND thành phố Hà Nội (2002), Quyết định về việc ban hành điều lệ

quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết khu vực di tích Cổ Loa, huyện Đơng Anh,
Hà Nội – tỷ lệ 1.2000
95.

UBND xã Cổ Loa (2014), Báo cáo kết quả hiện, giải trình chấm điểm


19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới xã Cổ Loa giai đoạn 2010 – 2014.
96.

UBND xã Cổ Loa (2010), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội năm 2010 và phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2011.
97.

UBND xã Cổ Loa (2011), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội năm 2011 và phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2012.
98.


UBND xã Cổ Loa (2012), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội năm 2012 và phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2013.
99.

UBND xã Cổ Loa (2013), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội năm 2013 và phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2014.
100. UBND xã Cổ Loa (2014), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội năm 2014 và phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2015.
101. UNESCO (1972), Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của

thế giới, đăng trên
102. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn, đăng trên
103. UNESCO (2001), Bản tuyên bố về đa dạng văn hóa.
104. UNESCO (2010), Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng trong
phát triển bảo tàng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương vì văn hóa và sự phát
triển bền vững, Paris.
105. UNAIDS (2011), Thực hành có sự tham gia đầy đủ của các bên liên
quan – hướng dẫn cho các thử nghiệm y sinh học dự phòng HIV, đăng trên
/>106. Văn phòng Quốc Hội (1957), Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số
519/TTG ngày 29/10/1957 quy định thể lệ về bảo tồn cổ tích, đăng trên
/>96



107. Văn phòng Quốc Hội (1985), Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số
288-HĐBT ngày 31/12/1985 quy định việc thi hành Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, đăng trên />108. Viện Quy hoạch đô thị - nông thôn quốc gia (2014), Thuyết minh Quy
hoạch phân khu (tỉ lệ 1:2000) Khu di tích Thành Cổ Loa, tại huyện Đơng Anh,
Thành phố Hà Nội.
109. Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam (2013), kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế 10 năm thực hiện công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO: bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Nxb Khoa học kỹ thuật.
110. Nguyễn Diệp Quý Vy (2007), Sự tham gia của người dân trong q
trình chống ngập – tính cần thiết và một vài kinh nghiệm thu được từ thực tế tại

phường

12,

quận

6,

Thành

phố


Hồ

Chí

Minh,

đăng

trên

.
111. Hữu Việt, Sẽ là sai lầm lớn nếu lấy văn hóa làm “chân ga”,

/>112. />113. , Khánh Linh, Đừng bật đèn xanh cho dân
xâm hại di tích Cổ Loa

97


PHỤ LỤC

Ảnh: Đền Thượng (chụp năm 1908 , nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa)

Ảnh: Đền Thượng (nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa)


98


Ảnh: Nhà bia trong khu vực đền Thượng (nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa

Ảnh: Đình Ngự Triều Di Quy (nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa)

99


Ảnh: Khai quật khu vực đền Thượng năm 2007 (Nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa)


Ảnh: Mang khn đúc mũi tên đồng 3 cạnh khai quật tại đền Thượng năm 2007
(Nguồn: Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa)

100


×