Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Tìm hiểu phạm trù lễ trong luận ngữ của khổng tử và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.16 KB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
K H O A G I ÁO D ỤC CH Í NH TR Ị

----------- ---------

NGUYỄN VĂN THƢỞNG

BẢN TÓM TẮT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

Cán bộ hƣớ Vinh - 2002
LỜI CẢM ƠN


rong q trình thực hiện bản luận văn tơi đã nhận

T

được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo

Nguyễn Trường Sơn, các thầy cô trong tổ triết học, các thầy cơ
giáo trong khoa Giáo dục Chính trị và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và các
bạn đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này ./.


Vinh, ngày 7 tháng 5 năm 2002
Tác giả


A.PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thế giới đang bước vào xu thế tồn cầu hố với sự hội nhập của kinh tế
thị trường đó là con đường tất yếu để xã hội loài người tiến vào một nền văn
minh mới.Song kinh tế thị trường kéo theo sự xâm nhập của văn hoá ngoại lai
vào nước ta đã tạo nên nhiều vấn đề bức xúc đặc biệt là sự xói mịn những giá
trị văn hố truyền thống của dân tộc trong đó có hệ tư tưởng Nho giáo .Nho
giáo đã có mặt ở nước ta hàng ngàn năm, các triều đại phong kiến Việt Nam
xem Nho giáo như là một học thuyết trị nước là cơ sở để xây dựng đạo lý làm
người. Trong tình hình như vậy ,Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới
quan, nhân sinh quan, nếp sống, phong tục, tập quán.v.v của người Việt Nam
trong trường kỳ lịch sử. Vì vậy ở một góc độ nhất định nó khơng chỉ là một
bộ phận của truyền thống mà còn là cốt lõi của truyền thống
Khoảng một thế kỷ qua, sự biến đổi của chế độ xã hội ở Việt Nam đã
đẩy Nho giáo ra khỏi nhiều lĩnh vực của đời sống con người Việt Nam thậm
chí phủ nhận sạch trơn những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ,khiến nhiều
người khơng cịn thiện cảm với học thuyết này.
Trong bài "quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo" của tác giả
Thanh Bình có đoạn viết: "Là thế hệ thanh niên của thời đại Hồ Chí Minh,
chúng ta đang sống, chiến đấu,lao động và học tập vì độc lập, tự do cho tổ
quốc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta có trách nhiệm bảo vệ và phát huy những
truyền thống quí báu của dân tộc ta, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin đầy sáng tạo. Chính vì thế mà chúng ta khơng thể dung hồ được với
Khổng giáo cùng với hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó. Vì sự nghiệp
cách mạng, chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy " .
Mặc dầu có ảnh hưởng tiêu cực, nhưng thái độ biện chứng là trong khi
phủ định hệ thống của Nho giáo, chúng ta cần phải khẳng định các yếu tố, các


tư tưởng vốn có ý nghĩa tích cực của nó, trong đó có phạm trù lễ. Từ yêu cầu
của việc giáo dục, đào tạo ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực
trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhìn về truyền thống của Nho giáo
chúng ta thấy phạm trù lễ vẫn cịn ý nghiã tích cực, vẫn còn tác dụng đối với
việc giáo dục phẩm chất, nhân cách của con ngưịi.
Từ những vấn đề có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng
tôi chọn phạm trù lễ trong Nho giáo làm lĩnh vực nghiên cứu của mình, mong
muốn tìm ra những ý nghĩa tích cực của Nho giáo trong thời đại ngày nay
góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ .
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Nghiên cứu về Nho giáo là một mảng đề tài lớn, bởi nó là một học
thuyết, một hệ tư tưởng lớn ,ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan, nhân sinh
quan … của nhiều nước Á đông. Bởi vậy từ lâu Nho giáo đã là một đề tài
được nhiều nhà khoa học lớn quan tâm nghiên cứu : tác giả Trần Đình Thảo
nghiên cứu về : ảnh hưởng của Nho giáo đối với con người Việt Nam trong
lịch sử. Tác giả Quang Đạm nghiên cứu'' Nho giáo xưa và nay''. Tác giả
Nguyễn Hiến Lê, Đồn Trung Cịn, Trần Trọng Kim nghiên cứu tổng thể học
thuyết Nho giáo….
Có thể nói vấn đề Nho giáo được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu
qua các thời kì dưới những góc độ khác nhau. Song vấn đề tìm hiểu phạm trù
lễ trong "Luận ngữ" của Khổng Tử và vận dụng phạm trù lễ trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh ngày nay thì chưa có một cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách tồn diện , có hệ thống. Do vậy, khơng sợ gặp khó khăn,
khơng ngại việc to lớn, chúng tơi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này mong

muốn góp một phần nhỏ vào lĩnh vực rất quan trọng đó .

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

3. 1 . mục đích :


Trên cơ sở nghiên cứu phạm trù lễ trong "Luận ngữ" của Khổng Tử
luận văn phân tích và tìm hiểu ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh ngày nay.
3.2.nhiệm vụ :
Để đạt được mục đích trên, cần phải giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất: Làm sáng tỏ nội dung chủ yếu của phạm trù lễ trong "Luận
ngữ"
Thứ hai: Kế thừa và phát huy giá trị tích cực của phạm trù lễ, vận dụng
vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong xã hội ngày nay.
Thứ ba: Đề xuất và kiến nghị những biện pháp để giữ gìn và phát triển
giá trị tích cực của phạm trù lễ.
4.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Tác giả sử dụng
phương pháp lôgic, lịch sử, phương pháp hệ thống hố, phân tích, tổng hợp và
liên hệ thực tế.
5.Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

Thứ nhất: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho tất cả
những ai quan tâm đến vấn đề này.
Thứ hai: Giúp mọi người ý thức được sự cần thiết phải giữ gìn và phát
triển phạm trù lễ trong học thuyết của Nho giáo và vận dụng nó vào việc giáo

dục con người Việt Nam.


6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Luận văn kết cấu gồm phần mở đầu, kết luận và hai chương .
CHƢƠNG I: QUAN ĐIỂM VỀ LỄ CỦA KHỔNG TỬ TRONG "LUẬN NGỮ".

1. "Luận ngữ" một tác phẩm đặc sắc của Khổng Tử về lễ.
1.1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử.
1.2. "Luận ngữ" và quan điểm về lễ .
1.2.1. "Luận ngữ" .
1.2.2. Quan điểm về lễ.
2. Những nội dung cơ bản của lễ trong "Luận ngữ".
2.1. Lễ là tiêu chuẩn cơ bản để làm cho con ngƣời "chính danh".
2.1.1. Quan hệ vua, tôi.
2.1.2. Quan hệ cha, con.
2.1.3. Quan hệ thầy, trò.
2.2.Thái độ của con ngƣời trong khi hành lễ là biểu hiện quan
trọng của chữ lễ.
2.3. Tác dụng của lễ.
2.4. Mục đích của lễ.
2.4.1. Xây dựng một xã hội hữu đạo giống như nhà Chu.
2.4.2. Xây dựng đức nhân bằng lễ.
CHƢƠNG II: Ý NGHĨA CỦA PHẠM TRÙ LỄ ĐỐI VỚI CON NGƢỜI
VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ

1. Ảnh hƣởng của phạm trù lễ đối với con ngƣời Việt Nam
trong lịch sử.
1.1. Thời kỳ phong kiến .

1.2. Trong xã hội ngày nay.
2. Phạm trù lễ với việc giào dục đạo đức cho học sinh ngày
nay.
3. Con đƣờng giáo dục đạo đức cho học sinh theo quan điểm
của Khổng Tử.
- Tu thân :


- Gia đình :
- Xã hội:


B - PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
QUAN ĐIỂM VỀ LỄ CỦA KHỔNG TỬ TRONG "LUẬN NGỮ"
1. "LUẬN NGỮ" MỘT TÁC PHẨM ĐẶC SẮC CỦA KHỔNG TỬ VỀ LỄ

1. 1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử.
Khổng Tử tên là Khâu tự là Trọng Ni sinh năm thứ 21 đời Linh Vương
nhà Chu tức là năm 551 trước cơng ngun, tại làng Xương Bình, huyện
Khúc Phụ , nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi còn nhỏ, do cảnh
nhà nghèo túng, Khổng Tử đã phải làm lụng vất vả. Về sau, trả lời câu hỏi của
một người muốn biết tại sao thầy làm được nhiều cơng việc, Khổng Tử đã
từng nói "Ngơ thiếu dã tiện cố đa năng bỉ sự" (Ta hồi trẻ nhỏ vốn nghèo hèn
cho nên biết nhiều việc vất vả nặng nhọc)" 5.23 ]. Tuy vậy, Khổng Tử vẫn có
điều kiện học sớm và học nhiều, tiếp xúc các tầng lớp trên đương thời. Ham
học hỏi và ham tìm hiểu lễ nghi là những nét nổi bật trong tồn bộ hình ảnh
của con người ấy. Sử sách cổ chép rằng mới ba tuổi, cậu bé họ Khổng đã tỏ
ra thích thú lễ nghi cúng tế.
Ham học và học nhiều, hiểu biết sâu rộng là một ưu thế của Khổng Tử.

Người đương thời khâm phục Khổng Tử về mặt ấy, chính Khổng Tử cũng tự
hào về mặt ấy "Thập thất chi ấp tất hữu trung tín như Khâu dã yên, bất như
Khâu chi hiếu học dã" (Một ấp mười nhà ắt phải có người trung tín như Khâu
này thơi, song khơng có ai ham học như Khâu này đâu) [5.23].
Khổng Tử nhắc nhở mọi người bắt đầu học phải học lễ nghĩa. Trong
trường học của mình đối với các đồ đệ bậc cao, Khổng Tử phân thành 4 khoa
: Đức hạnh, Ngôn ngữ, Chính sự và Văn học. Khổng Tử thường dành nhiều
cơng sức cho sự nghiên cứu tìm hiểu cơng việc tế tự. Người ta mô tả thái độ
và dáng điệu của Khổng Tử khi vào nhà thái miếu của các vua chuá hoặc vào
những nơi thờ cúng bao giờ cũng kính cẩn, trang trọng, gặp gì cũng hỏi, nhất
là những thứ cổ truyền. Có kẻ chê bai thì ơng nói: Chính như thế là lễ đấy.


Khổng Tử là nhà hiền triết đầu tiên mở trường riêng và có trên 3000
học trị . Học say sưa, thầy Khổng dạy cũng say sưa. '' Học nhi bất yếm, hối
nhân bất quyện" (Học không chán, dạy người không mỏi) [5.24].
Từ năm 34 tuổi, suốt hơn 20 năm, Khổng Tử dẫn đồ đệ đi khắp các
nước lớn đương thời ở vùng Hoa Hạ. Có nơi thầy bị doạ giết, có nơi thầy trị
bị vây, bị đói. Trong các nước chư hầu, phần lớn đối với thầy ít nhiều cũng tỏ
thái độ kính mến, nhưng đối với đạo của '' phu tử'' thì khơng có ai muốn vận
dụng. Năm 56 tuổi Khổng Tử trở về '' Nước của cha mẹ '', nước của Chu
Công. Thời thế mới mở ra nhiều triển vọng. Vua Định Công dùng Khổng Tử
làm quan tư không,tư khấu, kiêm công việc tể tướng. Sử sách Trung Quốc
thuở trước ghi lại rằng, chỉ trong ba tháng, tài nội trị, ngoại giao của '' phu tử
'', nước Lỗ đã đạt được những thành tựu xuất sắc, trật tự phân minh. Con trai
thì chuộng trung tín, con gái thì chuộng trinh thuận. Nước Tề bên cạnh không
muốn nước Lỗ thịnh lên, bèn dùng kế phản gián, cho 80 người con gái đẹp,
múa hát giỏi, và 30 con ngựa tốt, đem sang bày ở Cửa Nam thành nước Lỗ ,
để dâng cho Lỗ hầu. Thủa ấy quan đại phu nước Lỗ là Quý Tôn Tử, hai ba lần
ra xem những người và vật của nước Tề đem sang, có ý muốn nhận lấy, vào

bẩm với Lỗ hầu, đem Lỗ hầu ra xem. Lỗ hầu say mê, bỏ việc ba ngày, Khổng
Tử thấy vua vui chơi, bỏ trễ việc nước, chắc là việc gì cũng hỏng, cho nên
ơng lấy đó là nỗi nhục và rất đau buồn. Đặc biệt trong lễ tế giao, vua không
chia thịt cho các quan, ông liền từ chức bỏ sang nước Vệ. Về việc này, có
người hỏi rằng: ngài là bậc thánh nhân sao lại vì việc nhỏ mọn như thế mà bỏ
việc nước?. Khổng Tử nói rằng: Ta nhiếp chính là mong đem thi hành cái
đạo của mình, đạo ấy chủ ở sự lễ nghĩa, mà vua đã khơng biết gì đến lễ nghĩa
nữa thì chẳng đi cịn ở làm gì. Ở tuổi 68 ơng lại trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy
học và viết sách để truyền lại cho đời sau. Ông sắp xếp, chỉnh lý lại Kinh thi,
Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và biên soạn cuốn Xuân Thu.
Năm 41 đời Kinh Vương nhà Chu (Tức vào năm 479 trước Công
nguyên) Khổng Tử từ trần.


1.2. "Luận ngữ" và quan điểm về lễ.
1.2.1 "Luận ngữ" .
"Luận ngữ" là cuốn sách do phái Tăng tử cùng với các mơn đệ góp
nhặt những lời dạy của Khổng Tử xếp thành . Môn đệ của Khổng Tử ai nhớ
được điều gì thì chép ra, ghép lại, cho nên khơng có thứ tự gì cả. Có chỗ
đồng mơn với Tăng tử chép ra, có chỗ lại là học trị của Tăng tử và Hữu tử
chép thêm vào. Cũng vì thế cho nên các đệ tử của Khổng Tử đều để chữ ''Tử''
lên trên tên tự, như Tử Lộ, Tử Trương, Tử Du, Tử Hạ, Tử Cống… duy chỉ có
Tăng Tử và Hữu Tử thì đề chữ Tử xuống dưới tên họ, là để tỏ cách tơn kính.
Trong "Luận ngữ" cùng một chữ nhân, chữ hiếu, chữ lễ … mà mỗi nơi
nói một cách khác nhau, là vì cách lập giáo của Khổng Tử cứ tuỳ tư cách,
hoặc tuỳ sở đắc, sở thất của từng người mà dạy bảo .Tuy hình thức thì khơng
có trật tự phân minh, nhưng văn từ thì thật rõ, thật đúng, ý tứ rất sáng rất gọn,
mà câu nào cũng hàm súc, chứa đựng nhiều tư tưởng vĩ đại.
Ngày nay nhờ có sách ấy mới biết rõ học thuyết của Khổng Tử và mới
hiểu cái ý của ông về cách sự lý. Thật là quyển sách rất quí của Nho giáo.

Song học giả phải lập chí học, suy nghĩ cho kỹ thì mới biết là hay, và việc
học đạo của thánh hiền mới có ích lợi. Trình Y Xun đời Tống nói: "Có
người đọc xong sách "Luận ngữ" rồi sau khơng thấy gì cả, có người đọc xong
rồi sau thích một vài câu, có người đọc xong rồi sau lấy làm thích lắm, có
người đọc xong rồi thích đến nỗi múa tay, múa chân lên mà khơng biết" Ơng
lại nói: "Ai đọc xong sách "Luận ngữ" mà vẫn cịn những tính nết như trước
khi chưa đọc, thì người ấy chưa hiểu đọc sách vậy ". [11. 217]. Tuy nhiên bộ
sách này cô đọng qúa không ghi được hết lời dạy của Khổng Tử, và nhiều bài
khơng cho biết trong hồn cảnh nào Khổng Tử đã thốt lên những lời này lời
khác. Thành thử khi nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử, mà chỉ dựa vào
"Luận ngữ" khơng thơi thì chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót. Tuy nhiên
"Luận ngữ" là bộ sách trung thực và đáng tin cậy cho việc nghiên cứu tư
tưởng của Khổng Tử.
1.2.2 Quan điểm về lễ.


Chữ lễ xét về mặt từ nguyên : Một bên là người đang qùy còn một bên
là lễ vật. Lễ, vốn là hình thức bày tỏ sự phục tùng thần linh siêu nhiên và cầu
mong được giúp đỡ. Dần dần giữa thần linh siêu nhiên và tổ tiên trần thế được
thống nhất lại. Từ chỗ quan niệm thế giới thống trị con người và con người
phải phục tùng, thì Nho giáo chuyển sang quan niệm xã hội bao giờ cũng có
trên có dưới. Lễ giáo trở thành sợi dây để cột chặt con người vào những nấc
thang đẳng cấp của xã hội. Cho nên khi nói đến lễ, bao giờ Khổng Tử cũng đề
cập đến vị trí, tức là chỗ đứng của con người trong xã hội. Muốn có được chỗ
đứng thì phải học lễ: "bất học lễ vơ di lập" (khơng học lễ thì khơng có chỗ
đứng). Ở đây học thuyết định mệnh và đẳng cấp có mối quan hệ với nhau.
Học thuyết định mệnh là giấy xác nhận tính hợp lý của chế độ đẳng cấp từ
lực lượng siêu nhiên trên trời, cịn lễ giáo là những hình thức qui định cho
chế độ đó ở dưới đất. Lễ giáo của Khổng Tử tự nó đã có tính hai mặt: vừa giữ
gìn kỷ cương phép tắc, có trên có dưới; vừa trói buộc, thui chột tính sáng tạo

của con người. Từ đó đã hình thành đặc điểm quan trọng của văn hố Trung
Hoa là văn hố tơn trọng truyền thống.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LỄ TRONG "LUẬN NGỮ"

2.1. Lễ là tiêu chuẩn cơ bản để làm cho con ngƣời " chính danh".
Chính danh có nghĩa là mỗi con người nói riêng, mỗi đẳng cấp nói
chung đều có một cái danh (tên gọi) và một vị trí xã hội nhất định. Khi xã hội
đã có trật tự trên dưới đâu vào đó rồi thì vấn đề cịn lại là mỗi đẳng cấp phải
thực hiện đúng chức năng của đẳng cấp mình . Đẳng cấp trên phải gương mẫu
sửa mình cho đúng danh. Hễ người trên đã ngay chính thì người dưới ắt là
phải theo mà bắt chước. Vậy nên mới nói: " Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành
kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tịng" (Mình ngay chính thì khơng sai khiến
người ta cũng làm, mình khơng ngay chính thì tuy có sai khiến cũng khơng ai
theo ) [11.171].
Cho nên khi Tử Lộ hỏi Khổng Tử: " Nếu vua nước Vệ đợi thầy đặng
giúp ngài cai trị, thầy sẽ làm gì trước hết ? " Khổng Tử đáp: " Ắt là ta sẽ làm


cho ra chính danh chính phận " Tử Lộ lại nói : " Có vậy sao ? thầy nói vu
khốt đó lẽ gì chỉ sửa cho chính danh chính phận thơi sao ? " Khổng Tử giải
rằng : " Trị Do (Tử Lộ ) quê mùa lắm thay ! Người quân tử hễ điều gì chẳng
biết thì bỏ qua mà chẳng nói. Nầy nếu danh mà chẳng chính, chẳng hạp nghĩa,
thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận, thì cơng việc chẳng thành; cơng
việc chẳng thành, thì lễ tiết và âm nhạc chẳng thạnh vượng. Tức là chẳng có
sự kính trọng và niềm hồ khí; nếu lễ tiết và âm nhạc chẳng thạnh vượng, tức
là người trong nước chẳng biết kính trọng nhau và chẳng có niềm hồ khí, thì
sự hình phạt chẳng đúng phép; nếu sự hình phạt chẳng đúng phép; thì dân biết
chỗ nào mà đặt tay chân. Cho nên người quân tử, tức là nhà cầm quyền xứng
danh thì đúng với phận, với nghĩa: đã xứng đúng với danh phận, thì phải tuỳ
theo đó mà làm. Cho nên người quân tử rất dè dặt trong việc xứng danh gọi

phận''

[2. 199]. Nếu từng đẳng cấp không thực hiện đúng chức năng của

đẳng cấp mình thì trật tự đẳng cấp trở thành vô nghĩa . Trật tự đẳng cấp vơ
nghĩa thì nhà nước phong kiến làm sao tồn tại được. Khi Tề Cảnh Công đem
nỗi băn khoăn về việc cai trị đất nước ra hỏi Khổng Tử thì được đáp ngắn
gọn như sau : ''Quân quân, Thần Thần, Phụ Phụ, Tử Tử". (Vua cho ra vua, tôi
cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con). Tề Cảnh Cơng hết sức tán thưởng:
''Thiện tai ! tín như Quân bất Quân, Thần bất Thần, Phụ bất Phụ, Tử bất Tử,
tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực như ? "(Thật là tuyệt : nếu như vua không ra
vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con thì dẫu cho lương
thực chất đầy thì chắc gì ta đã được ăn? ) [ 14.23 ].


2.1.1 Quan hệ vua tôi.
Theo Khổng Tử đã là một vị vua muốn giáo hố dân chúng thì khơng
nên lạm dụng pháp luật cưỡng ép bắt dân phải theo, cũng khơng nên sử dụng
các hình phạt mà trừng trị dân, chế độ khủng bố chỉ tạo ra sự thù hận, sợ sệt
mà thôi. Muốn dân nghe, dân làm theo chủ đích của mình thì tự nhà cầm
quyền phải thi ân bố đức và đem điều bất hạnh mà chỉ bảo dân. Tự nhà cầm
quyền phải giữ lễ nghi và đem điều lễ nghi mà giảng dạy dân , tự nhiên dân
biết hổ thẹn, biết cảm mến mà theo về đường phải. Khổng Tử nói: " Đạo chi
dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vơ sĩ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỹ
thả cách " (Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dắc dẫn
dân chúng, chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm phép
đó thơi, chớ họ chẳng biết hộ ngươi. Vậy muốn dắc dẫn dân chúng, nhà cầm
quyền phải dùng đức hạnh, muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết , thì
chẳng những dân biết hổ người, họ lại cịn cảm hố mà trở nên tốt lành).
[2.15]. Theo Khổng Tử : bậc quốc trưởng ở trên muốn cho các quan và dân

chúng ở dưới đều thành thật với mình, hết lịng với mình, thì cần phải giữ
bổn phận mình, tức là nên ăn ở theo lễ và thi thố chính sách nhân ái "quân sử
thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung" (vua khiến bầy tơi thì phải giữ lễ phép; bầy
tơi thờ vua thì phải cho hết lịng. Đó là đạo qn thần) [2.43]. Còn nếu lễ đạo
và khiêm nhưỡng đã chẳng biết mà giữ thì khơng nói gì đến việc trị nước? tự
người bề trên khơng có lễ phép thì người bề dưới khơng lấy đó làm gương mà
theo. Lễ phép như vậy ắt vận nước không yên : '' Năng dĩ lễ nhượng vi quốc
hồ, hà hữu? Bất năng dĩ lễ nhượng vi quốc, như lễ hà" (Nhà cầm quyền nếu
biết dùng lễ, nhượng trong cuộc cai trị đất nước, thì cai trị có khó gì ? Cịn
như chẳng biết dùng lễ, nhượng trong cuộc cai trị đất nước, thì làm sao mà có
lễ cho được ? ') [2.57] . Mặt khác ơng nói : '' Trí cập chi, nhân năng thủ chi,
trong dĩ lỵ chi, đông chi bất dĩ lễ, vị thiện giả " (Mình có đủ trí thức để hiểu
đạo trị dân theo thánh hiền, mình có đủ lịng nhân để giữ gìn, đến với dân,
mình có đủ dung mạo đoan trang, nhưng mình chẳng theo lễ tiết mà trị dân thì
mình chưa đáng là nhà cai trị hồn toàn') [2.253] .


Với quan điểm như vậy do đó Khổng Tử ln coi thường những vị vua
không giữ lễ . Khổng Tử nói : '' Ta có thể giảng lễ nhà Hạ. Nhưng dòng dõi
nhà Hạ hiện nay làm vua chư hầu nước Kỷ chẳng cịn giữ lễ ấy nữa, nên
khơng thể chứng chắc lời giảng của ta. Ta có thể giảng lễ nhà Ân. Nhưng con
cháu nhà Ân hiện nay làm vua chư hầu nước Tống chẳng còn giữ lễ ấy nữa,
nên khơng có thể chứng chắc lời giảng của ta. Ấy vì văn thơ và người hiền
khơng cịn nữa . Phải có đủ thì ta lấy đó mà làm bằng chứng '' [2.37] .
Vua đối với bề tơi phải có lễ và ln dùng lễ để giáo hố dân chúng.
Cịn bề tơi thì sao? theo Khổng Tử bề tơi khơng được thất lễ với vua. Ông Tử
Cống - đệ tự của Khổng Tử, làm quan ở nước Lỗ, muốn bỏ lễ dâng con dê
sống lên vua trong dịp lễ cốc - sóc. Khổng Tử kêu ngay tên thật của ơng Tử
Cống mà trách rằng: " Tứ giả, nhĩ ái kỹ dương, ngã ái kỳ lễ " (Này Tứ ! ngươi
thương con dê của ngươi chớ ta mến cuộc lễ) [2.41].

2.1.2. Quan hệ cha con:
Nho giáo coi trọng nguồn gốc, giòng giống, coi xây dựng gia đình êm
ấm khơng chỉ là để cho bản thân và các thành viên khác có hạnh phúc mà còn
là việc quan trọng để xây dựng xã hội. Bởi vậy Nho giáo muốn xây dựng một
gia đình có chủ, là trật tự trên dưới phân minh, người dưới phải nghe theo
người trên, khơng có tình trạng ''cá đối bằng đầu'' không ai chịu nghe ai .
Nhưng quan hệ trên dưới đó lại là quan hệ theo tình, nảy sinh từ cơng ơn sinh
thành, dưỡng dục. Đó là tình cha con, tình anh em. Đó là thứ tình cảm tự
nhiên, con người sinh ra đã có. Giữa cha con, anh em yêu thương nhau, giúp
đỡ nhau không những khơng tính tốn mà cũng khơng suy xét theo sự vừa
phải . Giữa cha con chỉ có thương yêu và khơng bao giờ là q cả. Ở đây là
tình chứ không phải là lý, không phải là chỗ của cơng bằng, sịng phẳng. Vì
một lý do nào đó, cha có thể ghét con, đối xử khơng cơng bằng với con,
nhưng con khơng phải vì thế mà khơng u cha mẹ. Theo Khổng Tử, người
con có hiếu trước hết phải ni cha mẹ. Ni nhưng phải kính trọng, lễ phép.
Một hơm Tử Du hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử nói: ''Kim chi hiếu giả, thị vị


năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính hà dĩ biệt hồ?"
(Đời nay, hễ thấy ai ni được cha mẹ thì người ta khen là người có hiếu.
Nhưng, lồi thú như chó, ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nuôi
cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì ni thú vật đâu ?) [2.19]. Vậy
ni cha mẹ cốt ở sự thành kính, dẫu phải ăn gạo xấu, uống nước lã mà làm
cho cha mẹ được vui ấy là có hiếu. Khi cha mẹ cịn, khơng bao giờ làm điều
gì để cho cha mẹ lo buồn. Bởi vậy không nên đi chơi xa, có đi xa thì phải cho
cha mẹ biết chỗ đi để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì, có thể tìm gọi được :
''Phụ mẫu tại, bất viễn du; du, tất hữu phương ''(2.59). Sách "Luận ngữ" chép:
ông Mạnh Ý Tử hỏi Khổng Tử về đạo hiếu, Khổng Tử đáp rằng : ''Mạnh tôn
vấn hiếu ư ngã; ngã đối viết : vô vi ''(làm con chớ nên trái ngược). Sau đó ơng
Phàn Trì đánh xe đưa ơng đi, Khổng Tử nói với Phàn Trì rằng : ''Mạnh Tơn có

hỏi ta về đạo hiếu. Ta đáp rằng : làm con chớ nên trái ngược''. Ơng Phàn Trì
hỏi rằng : ''Như vậy nghĩa là sao? Khổng Tử giải rằng : ''Sanh, sự ,chi dĩ lễ;
tử, táng chi dĩ lễ; tế chi dĩ lễ '' ( Hễ làm con khi cha mẹ cịn sống, phải phụng
sự cho có lễ; khi cha mẹ mãn phần, phải chơn cất cho có lễ; rồi những khi
cúng tế, cũng phải giữ đủ lễ phép, nghiêm trang) [2.17]. Như vậy làm con là
phải thờ cha mẹ cho đúng lễ. Có một lần ơng Tể Ngã, đệ tử của Khổng Tử hỏi
ông rằng : '' cái tang ba năm (mà con để cho cha mẹ) tưởng nên thâu lại một
năm cũng là lâu rồi. Người quân tử trong khi cư tang ba năm ấy mà chẳng tập
lễ thì sự học lễ của mình ắt hư hỏng, trong ba năm ấy mà chẳng tập nhạc, thì
tài âm nhạc của mình ắt lụn mất. Vả lại, vừa trọn năm thì lúa cũ đã ăn hết rồi,
lúa mới đã gặt xong; những thứ cấy giúi để lấy lửa trong mỗi mùa đã dùng
qua hết rồi. Cho nên để tang giáp năm cũng được rồi "Khổng Tử nói rằng: ''
trong khi chưa mãn tang ba năm mà ăn cơm gạo thơm (thay vì gạo thơ ), mặc
áo gấm ( thay vì áo gai), thì ngươi có an lịng chăng ? '' Tế Ngã đáp : '' an
lòng'' , '' nếu an lịng thì ngươi cứ làm đi, nầy ! người qn tử khi cư tang,
dẫu ăn thức ngọt cũng chẳng biết mùi vị, dâũ nghe âm nhạc cũng chẳng vui,
và người chẳng hề an lịng nơi chỗ mình ở . Cho nên chẳng làm theo lối của
ngươi. Nay ngươi an lòng mà làm thì cứ làm đi ''. Ơng Tề Ngã bước ra,


Khổng Tử than phiền: '' Trò Dư ( Tề Ngã) là người bất nhân. Người ta sanh
ra, ngoài ba năm, cha mẹ mới hết ẳm bồng. Vậy muốn tỏ lòng biết ơn, cái
tang ba năm là tang thông thường của kẻ làm con. Về phần trị Dư, có lẽ trị
chẳng được cha mẹ yêu thương trong ba năm chớ gì ? '' [2.281]. Vậy hiếu của
con đối với cha mẹ đó là phải lễ phép, đúng lễ và đủ lễ. Lễ phải hợp nghĩa lý,
là vừa phải, chứ không thái quá hay bất cập, miễn là '' xứng gia chi hữu vô"
(vừa sức nhà giàu nhà nghèo mà làm cho phải lẽ thường) [11.148].Có lúc
Khổng Tử nói rằng : '' lễ dữ kì xa giã, ninh kiệm : tang giữ kỳ dị giã, ninh
thích '' ( lễ với xa xỉ , thì thà rằng kịêm ước cịn hơn : tang với nghi văn q,
thì thà rằng thương buồn cịn hơn ? ) [11.148]. Nghĩa là nếu theo lễ mà không

được trung dung, thì thà bất cập cịn hơn thái q. Khổng Tử nói như thế,
nhưng chủ ý là vẫn bảo phải theo lễ. Theo lễ là theo cái lẽ phải.
Lấy lễ mà thờ cha mẹ không phải là cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng
theo. Khổng Tử nói : '' Sự phụ mẫu cổ gián. Kiến chí bất tùng, hựu kính, bất
vi. Lao, nhi bất ốn '' ( làm con thờ cha mẹ, như thấy cha mẹ lầm lỗi thì nên
can gián một cách dịu ngọt. Như thấy ý tứ cha mẹ chẳng thuận theo lời
khuyên của mình, thì mình vẫn một lịng cung kính mà chẳng trái nghịch.
Như cha mẹ giận mà khiến mình làm cơng việc cực khổ, chớ có đem dạ ốn
hờn) [2.59]. Nghiã là Khổng Tử khuyên người ta nên thờ cha mẹ một cách
sáng suốt, khi cha mẹ có làm điều gì trái đạo, thì con phải dùng cách ơn hồ
mà can ngăn. Nếu cha mẹ khơng nghe, thì lại tỏ lịng cung kính và hiếu thảo
rồi dần dần lựa cách nói cho cha mẹ biết lẽ phải mà sửa đổi lại. Dẫu có khi
cha mẹ giận đánh đập hay bắt phải chịu khổ sở, cũng khơng ốn. Việc giữ
cái danh tiết của cha mẹ được trong sạch là cái bổn phận người con hiểu đạo
hiếu vậy. Làm điều hiếu không phải bố mẹ làm điều gì, làm thế con nào cũng
phải theo. Có khi cha làm điều gì sai trái, thì phải hết sức can ngăn, để cho
cha không bị những điều lầm lỗi. Nhưng chỉ cốt phải theo lễ mà can ngăn.
Hiếu có hợp lễ thì mới thật là hiếu.
Về nết hiếu của kẻ làm con, Khổng Tử còn giảng thêm: '' phụ tại, quan
kỳ chí. Phụ một quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hỹ


'' (Trong khi cha mình cịn sanh tiền, mình nên xem xét chí hướng, ý tứ của
cha mình: như tốt lành, chính đáng thì mình bắt chước theo. Khi cha mình
khoản đi rồi, mình nên quan sát những việc làm của người; như phải thì mình
làm theo.Cha mình mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo nghệ của cha,
đó mới gọi là con có hiếu) [2.9]. Thủa xưa, khi người cha cịn sống, thì người
con chưa tự lập, cho nên Khổng Tử khuyên kẻ làm con nên xem xét chí
hướng của cha. Đến khi cha thác, người con được trọn quyền hành động, cho
nên phải nhớ tới những việc của cha. Nhưng cha thác chưa đầy ba năm, bấy

giờ con cịn chịu tang, cho nên chẳng có vui sướng gì mà cải tạo, vì vậy nên
được gọi là hiếu. Đó là Khổng Tử muốn chỉ về người cha lành. Chớ như cha
chẳng ở theo đạo thì người con phải sửa đổi việc nhà ngay, cần gì phải đợi
mãn ba năm.
Như vậy làm con phải rất mực hiếu thảo với cha mẹ, song hiếu phải
ln đi đơi với lễ, có nghĩa là '' hiếu có hợp lễ mới thật là hiếu '' [11.150].
2.1.3 Quan hệ giữa thầy và trò:
Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đaị, là người đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc mở trường tư dạy học, tương truyền ơng có 3000 học trị, trong đó 72
vị thành đạt. Ơng chủ trương '' hữu giáo vơ lồi '' (bất cứ ai không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn đều có thể dạy) [15.38]. Đó là một tư tưởng tiên tiến so
với đương thời, nó phá vỡ ranh giới đẳng cấp trong giáo dục. '' Ai cũng được
học hành '' vốn là ước nguyện bao đời nay của các bậc vĩ nhân. Chính vì lẽ
đó, ơng chủ trương '' học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện '' ( học không biết
chán, dạy không biết mỏi mệt) [2.117]. Học ở mọi người, chọn người tốt mà
theo, chọn cái hay mà học. Ơng nói : '' tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên '' . (
trong ba người đi đường, mình với hai người nữa ắt có người là thầy của mình
) [2.109]. Học thì phải hỏi, khơng hổ thẹn khi hỏi người thấp kém hơn mình (
bất sĩ hạ vấn ). Câu nói nổi tiếng của ơng đã trở thành châm ngơn cho sự học
tập : '' biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết như thế mới là người
hiểu biết '' [2.23]. Chú trọng việc dạy học cho nên quan hệ giữa thầy và trò


được Khổng Tử chú trọng đề cao. Thiên chức của thầy là dạy học, là truyền
đạt tất cả sở học của mình lại cho đám hậu sinh thân yêu. Đây là một nghĩa vụ
cao quí của kẻ sĩ, biết sống vì mọi người và cho mọi người. Thầy bao giờ
cũng coi trị như con em của mình, và tự thấy có bổn phận dìu dắt, giảng dạy
cho đến nơi đến chốn. Còn trò đến với thầy là mong được dạy dỗ tận tình,
mong nhờ vào thầy mà mình sớm trở thành người có học vấn uyên thâm, biết
lễ, nghĩa, liêm sĩ để ứng xử với đời… Rất tự nhiên, trò kính u thầy như cha

mẹ của mình như những người thân thương nhất của mình. Hơn thế thầy cịn
đứng trên cả bố mẹ: Quân, Sư, Phụ.
Giữa thầy và trò trước thân thiện, sau thương u, như có sợi giây tìmh
cảm vơ hình kết chặt. Từ đó, thầy có trách nhiệm đối với trị là cố gắng sức
dạy cho trị chóng giỏi. Cịn trị đối với thầy khơng những mang ơn mà còn
cảm nghĩa, nên cố gắng nghe lời giảng dạy. Vì vậy với Khổng Tử bất cứ ai
khơng phân biệt giàu nghèo, sang hèn nếu biết lễ và hiểu lễ thì ơng đều dạy.
Khổng Tử nói rằng: '' Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên ''
(kẻ nào xin nhập mơn, tự mình làm lễ dâng lên một thúc nem (10 chiếc nem),
thì chẳng bao giờ ta chê lễ mọn mà chẳng dạy) [2 .101 ]. Ngày xưa ai muốn
đi học, nên sắm lễ mà dâng lên thầy. Với Khổng Tử, lễ có bạc đến đâu thì
khơng bao giờ câu nệ lúc nào cũng vui lịng thâu nhận đệ tử, miễn là biết giữ
lễ .
Với Khổng Tử, thầy và trị ln thân thiện và thương u nhau hết
mực, song giữa thầy và trị ln giữ đúng lễ, Nhan Uyên chết, đệ tử của
Khổng

Tử muốn làm lễ mai táng trọng hậu. Ơng dạy rằng : ''khơng nên''.

Nhưng các học trị vẫn chơn cất một cách trọng thể. Sau đó, Khổng Tử nói
rằng : '' trị Hồi coi ta như cha nhưng theo lễ, ta chẳng được coi trị như con.
Sự chơn cất trị một cách trọng thể khơng phải do nơi ta chủ lễ. Đó là tại các
học trò của ta vậy '' [2.165].
2.2 Thái độ con ngƣời trong khi hành lễ là biểu hiện quan trọng
nhất của chữ lễ


Khổng Tử coi trọng chữ lễ vì '' vơ học lễ vơ dĩ lập'' (khơng học lễ thì
khơng biết lập thân, hoặc không biết cách cư xử ). Biết lễ là tốt song quan
trọng hơn là thái độ con người trong khi hành lễ. Khổng Tử nói rằng : '' trong

việc giữ lễ, có niềm hồ khí là q trọng … rồi trong mọi việc, cứ dùng lấy
hoà, chớ chẳng dùng lễ mà kiềm chế, như vậy là phóng đãng xí xố q… ''
[2.11]. Lễ cốt ở kính nghiêm, nhưng q ở điều hồ. Lễ chỉ kính mà khơng có
hồ thì thành ra nghiêm khắc khơ khan. Cịn như giữ lễ mà chỉ có hồ thì hết
nghiêm, làm sao mà thành lễ ? Vì vậy mà khi ơng Lâm Phỏng, người nước Lỗ
hỏi về gốc lễ. Khổng Tử khen rằng : '' Đại tái vân ! Lễ dữ kỳ xa giã, ninh
kiệm; tang, dữ kỳ dị giã, ninh thích" (Người biết tìm gốc mà bỏ ngọn. Ý nghĩa
câu hỏi đó lớn thay, trong cuộc lễ vui, nếu xa hoa thái qúa, thì kiệm ước cịn
hơn. Trong việc tang khó, nếu l loẹt q, thì lịng đau xót cịn hơn) [2.33] .
Trong những dịp vui sướng, may mắn, người ta hay bày cuộc lễ với mọi sự xa
xỉ, ngỡ rằng có vẻ sang trọng mới gọi là lễ. Nhưng gốc lễ lại ở tại nơi vừa
phải, chớ xa xỉ cũng chớ bỏn sẻn. Trong lúc tống táng, người ta hay làm cho
lớn đám để lấy thể diện, ngỡ rằng đó là đúng lễ. Nhưng trong dịp này, gốc lễ
ở tại lòng đau thương.
Khổng Tử là người rất thành kính trong việc lễ tế. Ông bảo '' Tế tổ tiên
như tổ tiên ở trước mặt'' (tế tư tại ) và khi nào vì lẽ gì ơng khơng đích thân
đứng tế được mà mượn người thay thì tuy có tế đấy, ơng vẫn ân hận như chưa
tế. Vậy nên ông mắng thậm tệ Tế Ngã, gọi là đứa bất nhân, vì khơng nhớ
cơng cha mẹ bồng bế ba năm, mà muốn rút thời gian để tang xuống một năm.
Theo Khổng Tử con người biết lễ và hành lễ phải biết tiết chế sao cho phù
hợp, vừa phải : " cung nhi vô lễ, tắc lao; thận nhi vô lễ tắc tỹ; dũng nhi vô lễ,
tắc loạn; trực nhi vô lễ, tắc giảo " ( Cung kính q lễ thành ra lao nhọc thân
hình, cẩn thận quá lễ thành ra nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra loạn nghịch;
ngay thẳng quá lễ thành ra gắt gỏng, cấp bách ) [2. 121]. Lễ tiết là qui, củ,
chuẩn, thẳng của con người, không nên khiếm khuyết, cũng chẳng nên thái
quá. Nhưng các tính tốt như: cung, thận, dũng, trực mà chẳng đúng lễ tiết, đều
thành ra những tật xấu. Có những lúc Khổng Tử than rằng: " Lễ vân, lễ vân;


ngọc, bạch vân hồ tai ?" (Người ta bàn về lễ, người ta luận về lễ; đó là họ kể

số ngọc q và lụa tốt chớ gì ?) [2.277]. Người đời thường hay lấy ngọn làm
gốc, kể phần phụ thuộc mà bỏ phần chính đáng: như trong việc lễ, họ quên
phần kính ! Ví lễ như ngọc như lụa.
2.3 Tác dụng của lễ :
Thứ nhất: Lễ để tu dưỡng tính tình. Nho giáo vốn là học thuyết trọng
tình cảm, cho nhân sự đều bởi tình cảm mà sinh ra. Vậy nên Khổng Tử rất
chú ý về việc gây nên nhiều tình cảm rất tốt; tức là gây thành cái gốc đạo
nhân. Cái nghĩa tối cổ chữ lễ thuộc về việc tế tự vẫn quan hệ đến đạo đức. Vì
việc tế tự có thể gây thành cái trạng thái có nhiều tình cảm rất lớn. Tế là lấy
bụng thành thực cung kính mà đối với tổ tiên, quỷ thần: "Phù tế giã, phi vật tự
ngoại chí giả giả, tự trung xuất, sinh ư tâm giã " (Tế là không phải cái vật ở
ngoài đến, từ trong bụng ra, ở tâm sinh ra vậy) [11. 155]. Trong khi tế tự cha
ông, tổ tiên, lúc nào người ta cũng tưởng nghĩ đến luôn. Trước ba ngày tế trai
giới đã để bụng chăm chăm vào việc tế, đến ngày tế thì thật hình như đã trơng
thấy cha ơng tổ tiên. Sách lễ kí, thiên " Tế nghĩa " nói rằng : " Trai chi nhật, tư
kì cư xử , tư kì tiếu ngữ, tư kì chí ý, tư kì sở lạc, tư kì sở thị. Trai tam nhật
nãi kiến kỳ sở vi trai giả. Tế chi nhật, nhập thất, ái nhiên tất hữu kiến hồ kì vị;
chu hồn xuất hộ, túc nhiên tất hữu văn hồ kì dung thanh; xuất hộ nhi thính,
khái nhiên tất hữu văn hồ kì thán tức chi thanh " (Ngài trai giới thì nghĩ đến
cách cư xử, nghĩ đến cách cười nói, nghĩ đến ý chí, nghĩ đến cái vui, nghĩ đến
cái muốn của cha ông tổ tiên. Trai giới được ba ngày thì mới thấy rõ được thế
nào là trai giới. Ngày tế bước vào đến nhà thì mình phảng phất hình như trơng
thấy ở ngai thờ, lúc thong thả đi ra ngồi cửa thì mình kính cẩn hình như nghe
thấy tiếng, trơng thấy dáng điệu; lúc ra ngồi cửa rồi, thì mình hình như nghe
tiếng than thở) [11. 155 ]. Cách ăn mặc trong lúc tang chế, ở chỗ triều đường,
hay khi đi trận mạc, phải theo lễ, cũng là có ý để gây nên những tình cảm cho
xứng đạo nhân. Một hôm Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử : '' Thân uỷ
chương phủ hữu ích ư nhân hồ'' (Giải mũ và áo chương phú có ích cho đạo
nhân không?) Khổng Tử nghiêm sắc mặt mà thưa : '' Quân hồ nhiên yên! Thôi



ma thư trượng giả, chí bất tồn hồ lạc, phi nhĩ phất văn, phục sử nhiên giã; phủ
phất cổn miệng giã, dung bất tập mạn, phi tính căng trang, phục sử nhiên giã,
giới trụ chấp qua giã, vơ thối noạ chi khí, phi thể thuần mãnh, phục sử nhiên
giã'' ( Sao vua lại nghĩ thế ! Người mặc xô gai chống gậy, chí khơng để đến sự
vui, khơng phải là tại khơng nghe thấy, vì y phục khiến như thế ; người mặc
cái phủ cái phất, áo cổn mũ miện, dáng điệu khơng nhờn, khơng phải là
ngun tính vốn trang nghiêm, vì y phục khiến như thế; người đội mũ trụ,
mặc áo giáp, cầm cây giáo, khơng có cái khí nhút nhát, khơng phải là thân thể
vốn mạnh bạo, vì y phục khiến như thế ) [ 11.156] .
Nho giáo dùng lễ để mong con người làm điều lành, điều phải. Sách
"Lễ Ký" thiên "Đàn Cung Hạ" chép chuyện người Chu Phong thưa với Lỗ Ai
Công rằng: " Khư mộ chi gian, vị thi ai ư dân nhi dân ai; xã tắc tơng miếu chi
trung, vị thi kính ư dân nhi dân kính " ( Ở chỗ mồ mả, chưa dạy dân phải
thương mà dân tự nhiên có lịng thương; ở chỗ xã tắc tơng miếu, chưa dạy
dân phải kính mà dân tự nhiên có lịng kính ) [ 11. 156 ]. Ở chỗ mồ mả thì có
cái khơng khí bi ai, ở chỗ tơng miếu thì có cái khơng khí tơn kính, ai đã thở
cái khơng khí ấy thì tự hố tự theo mà khơng biết. Nho giáo dùng lễ tức là để
gây thành ra cái khơng khí đạo đức vậy.
Thứ hai: Lễ là chủ đích để giữ những tình cảm cho thích hợp với đạo
trung. Gây thành ra những tình cảm rất tốt, rất hậu, là một điều rất trọng yếu
của Nho giáo. nhưng cứ để cho tình cảm được tự do hành động thì thường
sinh ra lắm điều chênh lệch, phi thái quá thì bất cập. Vậy nên phải lấy lễ mà
khiến hành vi của người ta cho có chừng mực, để lúc nào cũng hợp với đạo
trung. Khổng Tử nói: " Cung nhi vơ lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi
vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo " (Cung kính mà khơng có lễ thành ra sợ
hãi, dũng mà khơng có lễ thì loạn, trực mà khơng có lễ thành ra vội vã ).
[2.121]. Vì vậy Khổng Tử nói : " Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật
ngôn, phi lễ vật động " ( Sắc chi chẳng hạp lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi
chẳng hạp lễ thì mình đừng nghe, lời chi chẳng hạp lễ thì mình đừng nói, việc

chi chẳng hạp lễ thì mình đừng làm) [2.181]. Lễ là cốt để giữ chừng mực cho


sự hành vi của người ta, cho nên mới nói rằng: " Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ
bất hành; giáo huấn chính tục, phi lễ bất bị; phân tranh biện tụng, phi lễ bất
quyết; quân thần thượng hạ, phụ tử, huynh đệ, phi lễ bất định; hoạn học, sư
sư, phi lễ bất thân; ban triều, trị quân, lị quan, hành pháp, phi lễ uy nghiêm bất
hành; đảo từ, tế tự, cung cấp quỷ thần, phi lễ bất thành bất trang. Thị dĩ qn
tử cung kính tơn tiết, thối nhưỡng dĩ minh lễ " ( Đạo đức nhân nghĩa, khơng
có lễ khơng thành; dạy bảo, sửa đổi phong tục, khơng có lễ khơng đủ, xử việc
phân tranh kiện tụng, khơng có lễ khơng có quyết, vua tơi, trên dưới, cha con,
anh em, khơng có lễ khơng định; học làm quan, thờ thầy khơng có lễ khơng
thân; xếp đặt thứ vị trong triều, cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp
lệnh, khơng có lễ khơng uy nghiêm; cầu khấn tế tự, cung cấp quỷ thần, khơng
có lễ khơng thành kính, khơng trang chính. Bởi thế cho nên qn tử dung mạo
phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn phép độ, thoái nhượng để làm sáng
rõ lễ ) [ 11.157 ]. Nho giáo chỉ chung làm việc gì cũng cần lấy đạo trung; nếu
khơng có lễ để làm tiêu chuẩn cho sự hành vi thì biết thế nào là trung được.
Vậy nên Khổng Tử nói rằng: " Lễ hồ, sở dĩ thế trung giả " ( Lễ vậy ôi, lễ vậy
ôi, để chữa cho vừa đạo trung vậy )[11.158].
Chủ đích thứ hai với chủ đích thứ nhất có quan hệ mật thiết với nhau
vì Nho giáo khơng những khiến người ta phải có tình cảm rất tốt, rất hậu mà
cịn làm cho những tình cảm ấy phải điều hồ hợp đạo trung. Đó là mối quan
hệ giữa lễ và nhân: lễ là ngọn, nhân là gốc. Vì con người có giữ được tâm tình
cho ngay thẳng và làm việc gì cũng đạt tới chỗ trung thì mới là nhân được.
Thứ ba: Lễ định lẽ phải trái, trật tự trong xã hội, trên dưới phân minh.
Giữa người với người lễ quy định rạch ròi và chặt chẽ. Về các quan hệ cơ bản
chúng ta đã thấy có ngũ luân, rồi đến thất giáo tức là ngũ luân thông thường
cộng thêm quan hệ trưởng ấu và quan hệ chủ khách nửa. Ngoài ra cịn có
quan hệ thầy trị, quan hệ quan và dân ; quan hệ chủ và tớ ( chủ nô và nô lệ )

quan hệ hương đẳng ( hào mục ) quan hệ chức tước ( địa vị cao thấp trong bộ
máy thống trị ), quan hệ tứ dân ( sĩ, nơng, cơng, thương )… Ở đâu cũng có
trên dưới, ngang vai ngang vế với nhau. Bất kỳ một sự mập mờ nào về thân


phận con người đều không được dung thứ. Để ngăn ngừa những tình cảm
mập mờ như vậy, Nho giáo nêu lên hai điều cần thiết là danh và khí. Danh là
tên gọi. Người nào ở vào địa vị thế nào đối với ai phải có tên gọi riêng đúng
với cương vị ấy, thí dụ trong gia đình có ơng, bà, cha, mẹ , anh , chị , em, con
, cháu… Khí là đồ dùng cụ thể, là những đồ vật biểu tượng riêng cụ thể tương
ứng với từng địa vị, chẳng hạn trong triều đình: áo mũ, đai, hia của trăm quan
văn võ, khác nhau một cách chi li. Đối với một người, từ khi sắp ra đời cho
đến sau khi đã chết, muốn hay không muốn, biết hay không biết, phải tuân
theo biết bao nhiêu lễ nghi thể hiện bằng danh và khí. Trong "Kinh Xuân thu"
và sách "Luận ngữ" có khơng ít trường hợp Khổng Tử chê bai lễ nghi bằng
cách coi thường danh và lạm dụng khí. Cịn bản thân ơng tổ của Nho giáo thì
lại do chú trọng danh khí nên mũ, giầy, quần áo có phần cầu kỳ loè loẹt chăng
? Cho nên đã có câu chuyện Khổng Tử bị nhà triết học ngạo đời là Lão Đam
chế diễu một cách khơng kín đáo lắm. Ý nghĩa của danh và khí là gị bó tư
tưởng con người vào những cái khuôn trật tự tôn tri chế tạo sẵn cho cách nói
năng chào hỏi, cho cách đi đứng, tới lui… Kinh lễ muốn làm cho người ta tin
rằng đạo trời đạo đất cũng có lễ như thế: " Thiên cao địa hạ, vạn vật tán thù
nhi lễ chế hành hĩ" ( Trời cao đất thấp, muôn vật hơn kém khác nhau do đó
mà lễ chế hành đấy ) [5.144]. Khổng Tử nói: " Vua sai khiến tôi bằng lễ ". Rất
dễ hiểu rằng vua sai khiến dân bằng lễ, quan sai khiến thuộc hạ cũng phải
bằng lễ. Kẻ được sai khiến người ta rất hay kiêu ngạo, hách dịch . Theo các
nhà đạo đức, như thế rốt cuộc chính là có hại cho bản thân những kẻ ấy. Nếu
các quan hệ xã hội được '' sai khiến bằng lễ '' thì càng có lợi cho giai cấp
thống trị bởi vì: '' Thượng hiếu lễ tắc dân dị sử dã '' ( bề trên chuộng lễ thì
dân dễ sai vậy ) . [5.144 ). Còn bên dưới lễ hay khơng lễ, cái đó tỏ rõ ở chỗ dễ

sai hay khó sai. Các đức hiếu, để, trung, rèn luyện từ nhỏ đến lớn chính là làm
cho con dễ sai đối với cha, em là dễ sai đối với anh, tôi là dễ sai đối với vua
và bề dưới là dễ sai đối với bề trên. Xét về hành đạo, Nho giáo cũng chỉ đề
ra yêu cầu cho tiểu nhân, cho bên dưới là '' dễ sai '' mà đã dễ sai thì cơ bản đã
là đạt được yêu cầu, đúng được ý nghĩa của lễ rồi. Cho nên, cuối cùng, cái gì


cùng phải có lễ xét theo cả ba mặt danh, khí và đức mới thật rõ ràng đúng
đắn. Câu '' đạo, đức, nhân, nghĩa, khơng có lễ thì khơng thành '' là nói theo ý
ấy. Đối với ai Khổng Tử cũng khẳng định ''Bất tri lễ vô dĩ lập '' [ 2.314] .
Nhấn mạnh hơn "Kinh Lễ" cịn nói: " Dân chi sơ do sinh lễ vi đại" (Điều mà
người dân ( cũng có nghĩa là con người ) noi theo để sống, thì lễ là lớn nhất ).
Sách lễ ký đã giải thích khá rõ: " Lễ giả sở dĩ đinh thân sơ, quyết hiềm nghi,
biệt đồng dị, mình thị phi dã…" (Lễ là để định thân và sơ, giải quyết hiềm
nghi, phân biệt đồng và dị, làm rõ phải và trái ) [ 5.145 ] hay " Phi lễ vô dĩ
tiết sứ thiên địa chi thần giả; phi lễ vô dĩ biệt quân thần thưởng hạ trưởng ấu
chi vị giã; phi lễ vô dĩ biết nam nữ phụ tử huynh đệ chi thân, hôn nhân sơ các
chi giao giã " (Khơng có lễ thì khơng có thể thờ thần của trời đất cho có thứ
bậc; khơng có lễ thì khơng phân biệt ngơi vua tơi, trên dưới, lớn bé; khơng lễ
thì khơng có thể phân biệt cái lịng thân của trai gái, cha con, anh em, sự giao
tiếp về việc hôn nhân, về người thân hay người sơ " [ 11.159 ]. Tóm lại lễ
phân định tơn ti trật tự, tức là những phép tắc để tổ chức luân lý ở trong gia
đình, xã hội và quốc gia.
Thứ tƣ: Lễ dùng để tiết chế tình cảm của con người:
Sách Lễ Ký, thiên Nhạc Ký nói rằng: " Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi
tính giã. cảm ư vật nhi động, tính chi dục giã. Vật chí tri tri, nhiên hậu hiếu ở
hình n. Hiếu ở vơ tiết ư nội, tri dụ ư ngoại, bất năng phản cung thiên lý diệt
hỹ" (Người ta sinh ra vốn tĩnh, đó là tính trời. Cảm với vật ở ngoài mà động,
là cái muốn của tính. Vật đến thì cái biết của mình biết, nhiên hậu cái hiếu, cái
ố, mới hình thành. Cái hiếu, cái ố, mà khơng có tiết chế ở trong, cái biết của

mình bị ngoại vật dẫn dụ, cứ thế mà khơng nghĩ lại, thì thiên lý tiêu diệt vậy).
[11.159 ] . Theo Nho giáo người ta bẩm thụ cái tình của trời, cái tĩnh ấy cảm
xúc với ngoại vật mà động; tính động thành ra tình. Tình thì ai cũng có nhưng
nếu khơng có cái gì để tiết chế, thì rồi bị ngoại vật làm cho đến mất cái thiên
tính đi. Bởi vậy Khổng Tử nói : '' Phù lễ, tiên vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ
trị nhân chi tình '' ( Lễ là tiên vương vâng theo cái đạo của trời để trị c tình
của người ) [11.159].


Nho giáo vốn lấy tình cảm làm trọng, nhưng vẫn biết cái tình cảm của
người thường mà khơng có hạn chế thì dễ thành hư hỏng. Khổng Tử nói :
''Trung nhân chi tình hữu dư tắt xỉ, bất túc tắc kiệm, vô cấm tắc dâm, vô độ
tắc thất, túng dục tắc bại, cố ẩm thực hữu lượng, y phục hữu tiết, cung thất
hữu độ, súc tụ hữu số, xa khí hữu hạn, dĩ phòng loạn chi nguyên giã " (cái
thường tình của hạng người trung nhân, hễ có thừa thì xa xỉ, khơng đủ thì xẻn,
khơng ngăn cấm thì dâm đãng, khơng theo tiết độ thì sai lầm, bng thả lịng
dục thì hư hỏng. Cho nên ẩm thực phải có hạn lượng, y phục phải có tiết chế,
cữa nhà phải có pháp độ, súc tụ phải có số thường, xe cộ và đồ dùng phải có
ngữ có hạn, là để giữ phịng cái nguồn loạn vậy') [11.160]. Vì vậy mới theo
thường tình của người ta mà đặt ra văn vẽ để cho người ta khỏi làm bậy : '' Lễ
giã, nhân nhân chi tĩnh, nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phường giã giã " ( Lễ là
nhân cái thường tình của người ta mà đặt ra tiết độ, văn vẽ, để làm cái ngăn
giữ cho dân ') . [11.160] . Nhưng cái tình của người ta thường ẩn khuất ở
trong bụng khơng sao biết được, chỉ có dùng lễ thì mới ngăn giữ được mà thơi
: '' Ẩm thực, nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên; tử vong, bần khổ, nhân chi đại
ố tồn yên. Cố dục ố giã, tâm chi đại đoan giã, nhân tàng kỳ tâm, bất khả trắc
đạo giã; mỹ ác giai tại kỳ tâm, bất kiến kỳ sắc giã. Dục nhất dĩ cung chi, xả lễ
hà dĩ tại "

( Cái đại dục của ta là ở việc ăn uống , trai gái, bao giờ cũng có,


cái đại ố của người ta là sự chết mất, nghèo khổ, bao giờ cũng có. Cho nên
dục, ố, là cái mối lớn của tâm vậy, người ta giấu kín cái tâm khơng thể dị xét
được : cái hay cái dở đều ở cả trong tâm, không hiển hiện ra ngồi. Nếu muốn
tóm lại làm một để biết cho cùng mà bỏ lễ thì lấy gì mà biết được '). [11.160].
Đế vương đời trước sở dĩ trị được thiên hạ, là vì hiểu được cái tính của người
ta, cho nên mới đặt ra lễ và nghĩa để phân biệt cái lợi cái hại trong xã hội.
Sự giáo hoá của lễ tinh vi lắm và có hiệu quả rất sâu xa : '' lễ chi giáo
hoá giã vi, kỳ chỉ tà giã ư vị hình, sử nhân nhật tỉ thiện, viễn tội, nhi bất tự tri
giã " ( Sự giáo hoá của lễ rất cơ mầu, ngăn cấm điều bậy ngay chưa lúc hình
ra, khiến người ta ngày ngày đến dần điều thiện, tránh xa điều tội, mà tự mình
khơng biết. ') . Vì thế cho nên Khổng Tử rất chuộng lễ : '' Phụ lễ cấm loạn chi


×