Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Luận văn tốt nghiệp tín ngưỡng thờ mẫu ở đền đá đen huyện ba vì, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

ĐẶNG THỊ THẢO

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở ĐỀN ĐÁ ĐEN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

ĐẶNG THỊ THẢO

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở ĐỀN ĐÁ ĐEN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. LÊ THỊ MINH THẢO



HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian làm khóa luận cũng như học tập ở trường, em đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy cơ trong khoa giáo dục chính
trị, nhất là các thầy cô trong tổ Chủ nghĩa xã hội khoa học cùng sự động viên, khuyến
khích của gia đình, bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cơ giáo Lê Thị Minh Thảo đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua để em có thể hồn thành
khóa luận tốt nghiệp đại học.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian và
do sự hạn chế về kiến thức của bản thân em nên em không thể tránh khỏi những
thiếu xót khi hồn thành khóa luận, vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của thầy cô giáo và của các bạn để đề tài của em đươc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Đặng Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp được hồn thành dưới sự hướng dẫn của Tiến Sĩ Lê Thị
Minh Thảo. Tôi xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tơi, nếu
sai, tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019

Sinh viên

Đặng Thị Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
3. Mụch đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................6
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu..........................................................................6
6. Ý nghĩa ....................................................................................................................6
7. Kết cấu của đề tài ....................................................................................................7
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở
VIỆT NAM VÀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI Ở HUYỆN BA
VÌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .....................................................................8
1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam .................................8
1.2. Khái quát về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội, tín ngưỡng thờ
mẫu ở huyện Ba Vì....................................................................................................22
Chương 2. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở ĐỀN ĐÁ ĐEN VÀ NHỮNG ẢNH
HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở ĐỀN ĐÁ ĐEN ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG NHÂN DÂN BẢN HUYỆN .........................................................................27
2.1. Huyền tích chúa Đá Đen- Mẫu Thượng Ngàn, nội dung và nghi thức thờ
Mẫu Thượng Ngàn ....................................................................................................27
2.2. Những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen huyện Ba Vì đối
với đời sống nhân dân bản huyện ..............................................................................42
Chương 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC GIỮ
GÌN, PHÁT HUY NHỮNG YẾU TỐ TÍCH CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ

MẪU Ở ĐỀN ĐÁ ĐEN HUYỆN BA VÌ HIỆN NAY .............................................49
3.1. Một số định hướng .............................................................................................49
3.2. Một số giải pháp .................................................................................................52
KẾT LUẬN ...............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................58


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt nam là một đất nước có những đặc điểm riêng về địa lí, dân cư, lịch sử,
văn hóa… đây là những điều kiện hình thành nên nhiều tín ngưỡng, tơn giáo độc
đáo mà các nước trên thế giới khơng có được. Bên cạnh các hình thức tơn giáo
ngoại nhập như Phật giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo… hay những tôn giáo nội
sinh như đạo Cao Đài, Hịa Hảo… thì hiện nay ở Việt nam vẫn tồn tại những hình
thức tơn giáo ngun thủy trong các vùng dân tộc thiểu số, hay tín ngưỡng dân gian
của người Việt như tín ngưỡng thờ cúng Tổ Tiên, thờ Thành Hồng Làng, tín
ngưỡng thờ Mẫu. Trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong những loại hình tín
ngưỡng đặc trưng và ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần của người Việt.
Nếu như Phật giáo khuyên con người từ bi, hỉ xả,… để sau khi qua đời sẽ
được hưởng cuộc sống tốt đẹp trên cõi Niết Bàn, hay nhiều tôn giáo khác cũng luôn
hướng con người đến cuộc sống khơng có thực thì tín ngưỡng thờ Mẫu lại luôn
hướng con người nhớ về cội nguồn dân tộc, đất nước, thể hiện một khía cạnh căn
bản trong đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt đó là biết ơn những người
phụ nữ có cơng giúp dân, giúp nước vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng quan trọng trong đời sống người việt,
nó có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời cùng với sự thịnh suy của xã hội việt
từ bao đời nay.
Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu đó là sự tơn vinh thờ phụng gắn với hiện
tượng tự nhiên, vũ trụ như trời, đất, mưa, gió…ngồi ra còn thờ phụng những vị nữ
anh hùng dân tộc. Tín ngưỡng thờ Mẫu ln gắn liền với hình thức Tam phủ, Tứ

phủ. Tam phủ, Tứ phủ tượng trưng cho các vùng khơng gian mà các Mẫu cai quản.
Tín ngưỡng này để lại những giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa
tổ chức cộng đồng hết sức đặc biệt trên nhiều phương diện. Tín ngưỡng Thờ Mẫu
hướng tới việc tôn vinh những giá trị của người phụ nữ. Trong cuộc sống cư dân
nông nghiệp trồng lúa nước thì người phụ nữ trong giữ một vai trị rất quan trọng
trong lịch sử phát triển của lồi người. Ngay từ thời nguyên thủy, họ là những người
truyền lửa, giữ nhiệt trong gia đình, hái lượm hoa quả, nuôi dạy con cái. Họ được
gọi là “Nội tướng” trong gia đình. Tín ngưỡng thờ Mẫu ngày càng phát triển trong
xã hội hiện đại với những giá trị văn hóa đặc sắc để lại trong nhiều cơng trình tơn
giáo, tín ngưỡng, các nghi thức lễ hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại những dấu ấn,
những giá trị văn hóa tốt đẹp góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Ở

1


Sơn Tây- Ba Vì tín ngưỡng thờ Mẫu để lại nhiều giá trị văn hóa đặc sắc mang đậm
dấu ấn bản địa. Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 60 km về phía tây Bắc, Ba Vì là
vùng đất địa linh, nhân kiệt, một vùng đất tối cổ, có truyền thống văn hoá lâu đời,
độc đáo, đặc trưng bởi 3 dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục, tập
quán, nét văn hoá riêng biệt.
Tuy nhiên ở huyện Ba Vì vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu. Phần lớn các cơng trình nghiên cứu chỉ nhắc đến hoặc khái quát
một vài nét về truyền thuyết, nhân vật thờ tự, văn hóa. Chính vì thế, trong bài khóa
luận của mình tơi sẽ đưa ra những nét khái quát nhất về tín ngưỡng thờ mẫu thông
qua đặc điểm sinh hoạt, lễ hội, không gian thờ phụng, thực trạng cùng với đó là
những ý kiến đề xuất để bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa bản địa của dân
tộc nên tơi chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chúng ta có thể tham khảo một số cơng trình sau:

Trước hết là việc nghiên cứu về đạo Mẫu
Vũ Ngọc Khánh với cuốn “Đạo Thánh ở Việt Nam” năm 2006 đã cung cấp
cho độc giả những tri thức về các vị Thánh Mẫu. Tác giả đã giải thích việc tôn sùng
bốn bà Mẫu cai quản những miền không gian khác nhau. Ngoài ra đối với mỗi đấng
tối cao quyền cai quản quyền cai quản các phủ, tác giả đều sưu tầm về truyền thuyết
của các vị Thánh Mẫu đó.
“Lên đồng, hành trình tâm linh và thân phận” ra đời năm 2010 của Ngơ Đức
Thịnh là cuốn sách nói về nhiều khía cạnh của tín ngưỡng thờ Mẫu: Từ việc giới
thiệu các vị Thánh Tam Phủ, Tứ Phủ tới việc nói đên những người có căn số. Trong
tài liệu này, Nghi lễ lên đồng được Ngô Đức Thịnh giới thiệu một cách cụ thể kết
hợp so sánh với các loại hình tương tự: Then của người Tày,...
Một cơng trình nữa liên quan đến thờ Mẫu được in năm 2012 là cuốn “36 giá
đồng”. Ở tài liệu này tác giả đã trình bày hệ thống thần linh Tam Phủ, Tứ phủ, không
gian thờ tự, nghi lễ lên đồng và những giá trị tinh tế mà hầu đồng đem lại.
Năm 2012, Ngô Đức Thịnh tiếp tục ra mắt độc giả cuốn “Tín ngưỡng và văn
hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” Ở đây, nhà nghiên cứu đã đặt thờ Mẫu trong một số
loại hình tín ngưỡng dân gian. Tác giả cũng đưa ra ba dạng thức thờ Mẫu của người
Việt ứng với ba miền: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.

2


Năm 2016, Vũ Thị Tú Anh ra mắt độc giả cuốn “Quyền lực mềm của người
phụ nữ trong văn hóa đạo Mẫu” Qua quá trình nghiên cứu về cuộc sống những
người phụ nữ trong văn hóa Đạo Mẫu, về mối quan hệ của cá nhân họ với tín
ngưỡng, tác giả đã thể hiện trong cuốn sách của mình những kiến giải mới về các
yếu tố của Đạo Mẫu: bao gồm chủ thể thực hành Đạo Mẫu (những người phụ nữ
Việt), các nghi lễ vừa huyền bí, vừa gần gũi, lơi cuốn, những không gian thiêng mà
rất đời trong hệ thống đền, điện, phủ thờ Đạo Mẫu. Có thể nói, đây là những vấn đề
khoa học thực sự có giá trị và giàu ý nghĩa.

Trong cuốn sách “Đạo mẫu ở việt nam” của Ngơ Đức Thịnh, xuất bản năm
2010. Đã nói về thờ Mẫu là hiện tượng khá phổ biến trên thế giới, nhưng ở Việt
Nam đã hình thành và định hình một thứ tín ngưỡng thờ Mẫu (nữ thần) của mình,
với những bản sắc riêng. Nói cách khác, Đạo Mẫu Việt Nam đã trở thành một khái
niệm khoa học thực sự.
Ở cuốn sách “Di tích lịch sử văn hóa Đền Đá Đen” của tác giả Phan Thị Bảo,
năm 2016, nhà xuất bản văn hóa dân tộc. Cuốn sách nói về nguồn gốc ra đời của
Đền Đá Đen, Văn hóa sinh hoạt của đền, các nghi lễ ở Đền Đá Đen. Tuy nhiên cuốn
sách chưa đi sâu phân tích nói rõ về tín ngưỡng thờ Mẫu và đặc biệt là Mẫu Thượng
Ngàn người mẹ của vùng sơn cước.
Tiếp theo là luận văn và nghiên cứu khoa học:
Trong luận văn: “Sự dung hợp của phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở việt
nam” của tác giả Phạm Thị Kim nghiên cứu năm 2016, cô đã nghiên cứu về mối
quan hệ giữa phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở việt nam cho thấy được bản sắc
văn hóa riêng của dân tộc việt nam tuy nhiên chưa đi sâu tìm hiểu về nguồn gốc,
đặc điểm, các giá trị mà tín ngưỡng thờ mẫu đem lại.
Với cơng trình nghiên cứu lịch sử “Tơn giáo và triết học trong Đạo Thánh
Mẫu Việt” của tác giả Lê Công Sự đã nêu lên nhiều vấn đề cần được suy ngẫm. Học
giả Lê Công Sự nhận định: “Triết học và tơn giáo là hai hình thái ý thức xã hội
mang tính đa dạng, phức tạp xét về mọi phương diện: nguồn gốc hình thành, nội
dung hàm chứa, đối tượng phản ánh, phương thức biểu đạt, phương pháp tiếp cận,
chức năng xã hội, hình thái biểu hiện và lịch sử phát triển.
Ngồi ra cịn nhiều cuộc hội thảo về tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút đơng đảo
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tham gia.
Ở hội thảo quốc tế Tín ngưỡng Mẫu và lễ hội Phủ Giầy tổ chức năm 2001 tại

3


Hà Nội. Kết thúc hội thảo đã ra kỷ yếu và xuấn bản cuốn Đạo Mẫu và các hình thức

Saman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004) do Ngô Đức Thịnh chủ biên.
Hội thảo khoa học Di tích lịch sử văn hoá Phủ Quảng Cung do Trung tâm
Nghiên cứu Bảo tồn Văn hố Tín ngưỡng Việt Nam tổ chức ngày 21/11/2009, tại xã
Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Hội thảo đã tập trung làm rõ nhiều vấn đề
về Mẫu Liễu Hạnh, Phủ Quảng Cung, ảnh hưởng của Mẫu Liễu Hạnh trong đời
sống cư dân ở khu vực.
Hội thảo khoa học quốc tế Văn hóa thờ Mẫu (nữ thần) ở Việt Nam và Châu
Á. Bản sắc và giá trị được tổ chức trong hai ngày 29 và 30 tháng 9 năm 2016 tại
Nam Định. Các học giả tham dự hội thảo đã cho rằng tục thờ Mẫu là thế giới quan,
nhân sinh quan của cư dân nông nghiệp châu Á, và là triết lý về tinh thần yêu nước,
về sức mạnh, đạo lý của dân tộc. Ở phương diện văn hoá, thờ Mẫu là bức tranh đa
dạng, phong phú về nghệ thuật diễn xướng dân gian, phản ánh nhiều giá trị văn hóa
được sáng tạo, tích tụ và truyền từ đời này sang đời khác, làm nên sức sống vĩnh
cửu của các Nữ thần và của Mẫu.
Một số người đã lựa chọn tín ngưỡng thờ Mẫu làm đối tượng nghiên cứu
chính trong các luận văn, luận án của mình: Phan Thị Kim với đề tài luận văn Thạc
sỹ Triết học đã Tìm hiểu về mối quan hệ giữa phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở
khu vực Đồng bằng bắc bộ (Đại học KHXHNV Hà Nội, năm 2011),.
Nhiều bài viết được cơng bố trên các tạp chí cũng đã đề cập đến tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Trên Tạp chí Văn học có các bài như: Đinh Gia Khánh với bài viết Tục thờ
Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam số 5/1992 đã tìm hiểu về tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt cũng như những truyền thống văn hóa dân gian của
người Việt.
Ở Tạp chí Văn hóa dân gian có một số bài như: Nguyễn Kim Hiền (2001),
Lên đồng một sinh hoạt tâm linh mang tính trị liệu, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4,
tr 69-78,...đã đem lại cho người đọc những suy nghĩ mới về tín ngưỡng dân gian của
người Việt.
Trong Tạp chí Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Ủy

ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO
diễn ra tại thủ đô Addis Ababa (Ethiopia), di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu

4


Tam phủ của người Việt đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại.
Nhìn chung, các cơng trình trên khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu đã
được các tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Các cơng trình đã cung cấp
một lượng thơng tin phong phú về sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống
thần linh cùng các thần tích của tín ngưỡng thờ Mẫu, các khơng gian thờ cúng của nó
trong quá khứ cũng như hiện tại, những giá trị về mặt văn học, nghệ thuật của tín
ngưỡng thờ Mẫu cũng như những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của người Việt
cả trong lịch sử cũng như ở hiện tại.
Từ việc đọc, tìm hiểu những cuốn sách, bài báo, đề tài nghiên cứu khoa học
và các hội hội thảo ở trên. Tôi đã kế thừa những thành qủa ở các cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trước kết hợp với những kiến thức do bản
thân tích lũy trong q trình học tập và công tác khảo sát thực tế về tín ngưỡng thờ
mẫu tại các đền, phủ nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đá Đen huyện Ba Vì nói
riêng. Vì vậy, trong bài khóa luận của mình tơi sẽ đưa ra những nét khái quát nhất
về tín ngưỡng thờ mẫu ở Đền Đá Đen thông qua đặc điểm sinh hoạt, lễ hội, không
gian thờ phụng, thực trạng cùng với đó là những phương hướng của Đảng và nhà
nước cũng như của huyện Ba vì để bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa bản
địa của dân tộc nên tơi chọn đề tài “Tín ngƣỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội hiện nay”.
3. Mụch đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mụch đích
Nghiên cứu làm rõ đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen, huyện

Ba Vì, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị của tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Đền Đá Đen nói riêng và Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được những mụch đích trên ta cần làm rõ những nhiệm vụ sau:
Đưa cái nhìn tổng quan về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, khái quát về
điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Ba Vì.
Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen, nghi thức thờ mẫu, phong
tục tập quán, sinh hoạt lễ hội ở đền, những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở

5


đền đá Đen đến nhân dân bản huyện.
Từ đó ta có phương hướng, giải pháp cụ thể thiết thực nhằm phát huy tín
ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ mẫu ở đền Đá Đen huyện Ba Vì
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Đá Đen, huyện Ba Vì từ năm 1990
đến nay.
5. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong ứng xử với tơn
giáo, tín ngưỡng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngồi ra, tác giả còn sử dụng: phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phân tích - so sánh, văn hóa vùng,...
6. Ý nghĩa

6.1. Ý nghĩa lí luận
Cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam nói chung và ở đền Đá Đen huyện Ba Vì nói riêng để hiểu thêm về kho tàng
phong phú của bản sắc văn hóa dân tộc việt nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc cung cấp những hiểu biết cơ bản về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đền Đá
Đen huyện Ba Vì giúp mọi người có cái nhìn sâu sắc, cụ thể hơn về tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam. Để từ đó có ý thức bảo vệ nét đẹp văn hóa của dân tộc đồng thời
chống lại những hành vi lợi dụng tín ngưỡng đề thực hiện những hành vi mê tín,
trục lợi cho bản thân. Khóa luận cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành và những ai quan tâm.

6


7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương và 6 tiết.

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở VIỆT NAM
VÀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI Ở HUYỆN BA VÌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
“Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành
khá sớm và tồn tại khá phổ biến ở việt nam, thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành của
con người về vị trí, vai trị của người phụ nữ trong gia đình, ngồi xã hội, trong

cuộc sống đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước” [14; 135].
“Danh xưng Mẫu có nghĩa là mẹ, Mẫu hay mẹ là người phụ nữ nói chung có
cơng sinh thành, ni dưỡng lên con người. Mẫu thường có nguồn gốc từ các vị
thần tự nhiên (nhiên thần) như Mẫu thiên, Mẫu thoải, Mẫu địa, Mẫu thượng
ngàn…và có nguồn gốc từ các nhân thần. Nhân thần có hai dạng, khơng có thực
như mẹ Âu cơ, mẫu Liễu Hạnh và có thực như Nguyên Phi Ỷ Lan, Thái Hậu Dương
Thanh Nga…Mẫu được tôn vinh ở ba cung bậc chính là: Thánh Mẫu, Quốc Mẫu,
Vương Mẫu” [14; 135].
Tín ngưỡng thờ mẫu có quan hệ mật thiết với tín ngưỡng thờ nữ thần song
không phải đồng nhất. Mọi Mẫu đều là nữ thần song không phải nữ thần nào cũng
là Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu được tập trung trong tín ngưỡng về Tam tịa thánh
Mẫu (Mẫu tam phủ), chỉ có trong tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ Mẫu mới được
tôn thờ làm thánh Mẫu như: Mẫu thiên, Mẫu địa, Mẫu thượng ngàn, mẫu thoải,…
Việc thờ thánh Mẫu cùng với sự thăng hoa của Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành
tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là niềm tin, sự ngưỡng mộ chân thành vào sự tồn tại và khả
năng cứu giúp của Mẫu đối với con người.
1.1.1. Quá trình hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
Cũng giống như các loại hình tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu là sự
phản ánh đời sống xã hội của con người. Đời sống xã hội là yếu tố mang tính khách
quan, có vai trị quyết định ảnh hưởng tới q trình hình thành, tồn tại và phát triển
của tí ngưỡng thờ Mẫu.
* Về điều kiện địa lí tự nhiên ảnh hưởng đến q trình hình thành tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Việt Nam:
“Điều kiện tự nhiên (bao gồm các điều kiện về đất, nước, khí hậu, khống
sản…) được hiểu là mơi trường sinh thái để con người tồn tại và phát triển” [14;

8


136]. Điều kiện tự nhiên chính là khơng gian cho con người lao động và sinh sống.

Con người luôn chịu những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực từ tự nhiên.
Tự nhiên mang lại sự sống cho con người, song cũng chính tự nhiên lấy đi sự
sống của con người, sẵn sàng lấy đi tất cả những gì đã mang lại cho họ. Tự nhiên
không chỉ ảnh hưởng đến đời sống vật chất mà cịn ảnh hưởng đến sự hình thành,
tồn tại và phát triển của văn hóa, ảnh hưởng tới đời sống, cách ứng xử, phong tục
tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.
“Việt nam là một quốc gia ở vùng Đơng Nam Á, có địa hình đồng bằng, rừng
núi, ven biển và hải đảo. Khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, nắng lắm và mưa
nhiều với bốn mùa xuân, hạ, thu, đơng trong đó có hai mùa rõ rệt là mùa khơ và
mùa mưa. Điều đó góp phần tạo nên sắc thái riêng biệt của nơi cư trú, các thiết chế
xã hội, thói quen, tâm lí và các hình thức tín ngưỡng, tơn giáo” [14; 136,137].
* Về điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Việt Nam:
“Cơ sở kinh tế xã hội của xã hội Việt Nam dựa trên nền sản xuất nơng
nghiệp là chính. Trong sản xuất nơng nghiệp con người bị phụ thuộc khá nhiều vào
tự nhiên” [14; 137]. Để sản xuất nông nghiệp con người phải:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm” [14; 137].
Nhiều khi không hiểu được những thuận lợi và khó khăn do tự nhiên mang
lại, con người thường thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên gắn cho chúng một
sức mạnh siêu nhiên, điều đó làm xuất hiện tín ngưỡng thờ các vị thần, trong đó có
việc thờ các nữ thần: Tín ngưỡng thờ thần mặt trời, mặt trăng, tín ngưỡng thờ tứ
pháp: Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp Lơi, Pháp Vũ.
Trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, vai trò của người
phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ tham gia hầu hết các công việc đồng áng, từ cấy
lúa, chăm sóc, bón phân đến gặt, đập lúa, say lúa… trong gia đình lại là “Nội
tướng” người tay hịm chìa khóa. Ơng cha ta đã dạy rằng “Của chồng cơng vợ”.
Trong dân gian cũng có những câu truyền tụng từ bao đời nay như “ Nhất vợ nhì
giời”, “Lệnh ơng khơng bằng cồng bà” hay “Ruộng sâu trâu nái khơng bằng con gái
đầu lịng”… ý muốn tơn vinh vai trị của người phụ nữ.


9


“Người phụ nữ cịn có vai trị quan trong trong việc ni dạy con cái cho nên
mới có câu “Phúc đức tại Mẫu”, “Con dại cái mang” [14; 137]. Như vậy, trong gia
đình người phụ nữ ln là người “Giữ lửa”, họ không chỉ đảm đang tháo vát trong
công việc nhà mà cịn giỏi giang trong cơng việc đồng áng và khéo léo trong việc
nuôi dạy con cái. Không chỉ có thế, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc có nhiều người phụ nữ có tài, có đức, anh hùng bất khuất, khi sống thì
thơng minh tuyệt đỉnh, khi thác xuống thì liêng thiêng ngàn đời được nhân dân khắp
nơi tôn thờ như: Hai Bà Trưng, Thái Hậu Dương Vân Nga, Nguyên Phi Ỷ Lan…
1.1.2. Q trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
Thờ Mẫu ở Việt Nam không phát triển theo các giai đoạn lịch sử nhất định,
mà từ khi hình thành đến nay hầu như nội dung và hình thức thờ Mẫu khơng có q
nhiều biến đổi.
“Ngay từ khi mới hình thành, tín ngưỡng thờ Mẫu đã chịu ảnh hưởng khá
mạnh của đạo giáo. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu ta thấy có nhiều yếu tố của đạo giáo,
con người có xu hướng vơ vi hịa đồng với tự nhiên, các vị thần của Đạo giáo được
thờ cúng trong phủ như: Ngọc Hoàng, Thái Thượng lão quân, Nam Tào, Bắc Đẩu,
cùng với vô số các vị thần tiên huyền ảo, các pháp thuật phù thủy, lên đồng” [14; 138].
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hoàn thiện dưới ảnh hưởng trực tiếp của hồn
cảnh kinh tế xã hội và văn hóa Việt Nam thế kỉ XVI – XVII [ 14; 138]. Vào thời kì
này xã hội phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng sâu sắc về mọi mặt. Các
cuộc chiến tranh xung đột tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến
Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn và thiên tai mất mùa liên tiếp xảy ra đã làm cho nền
kinh tế suy thối, đời sống các tầng lớp nhân dân vơ cùng khổ cực. Đạo đức phong
kiến khơng cịn được như trước. Nhân nghĩa của Nho giáo bị coi thường. Ý thức hệ
nho giáo tỏ ra bất lực trước thời cuộc. “Các nhà Nho có tâm, có tài như Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Dữ cũng tỏ ra mệt mỏi, buông xuôi, chủ trương xa lánh thời cuộc.

Nhân dân lao động có xu hướng tìm hướng giải thốt trong tín ngưỡng dân gian và
các tôn giáo. Song Phật cũng không thể giúp được họ lên cõi niết bàn, thần tiên
không thể giúp họ thoát khỏi nỗi khổ trần gian. Trong số các tầng lớp người trong xã
hội phong kiến thời kì này thì người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập nhiều nhất. Tâm lí
chán chường bi quan và bế tắc của họ được phản ánh qua các nhân vật trong các nhân
vật trong văn học như Thúy Vân, Thúy Kiều, Thị Kính, Ngọc Hoa” [14; 139].

10


Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ ra đời, một mặt là biểu hiện sự phản kháng của
các tầng lớp nhân dân nói chung và người phụ nữ nói riêng đối với chế độ phong
kiến thối nát, bất công, mặt khác cũng là sự phát triến kế thừa truyền thống trọng nữ
của người Việt Nam.
“Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu là tấm gương phản chiếu sự suy tàn của
chế độ phong kiến và ý thức hệ tư tưởng phong kiến. Nó nói lên ý thức đấu tranh
chống lại trật tự phong kiến - nguyên nhân làm cho con người nói chung và phụ nữ
nói riêng phải sống cuộc đời đau khổ, bất hạnh, phản ánh khát vọng về tự do hướng
thiện, về cuộc sống bình đẳng hạnh phúc của con người. Hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam trước đó được thể hiện tập chung trong Mẫu Liễu Hạnh. Trong hình
tượng Mẫu Liễu Hạnh có đầy đủ các đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: Yêu chồng,
thương con, đảm việc nhà, việc nước, kính trọng cha mẹ” [14; 139]
* Các dạng thức thờ Mẫu đang tồn tại ở Việt Nam:
Về phương diện đồng đại, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương
nam trong quá trình nam tiến. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa,
tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khmer, người Lào từ đó tạo
nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở ba miền Bắc
bộ, Trung bdộ và Nam bộ.
Thứ nhất, là thờ Mẫu ở Bắc bộ
Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời

phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu
thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của nhà nước
phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương
mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Âu Cơ, Ỷ Lan, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh
nương,... Đây là mơ hình mang tính nội tại và có sự phát triển tuần tự đó là từ thờ
Nữ thần, Mẫu thần đến Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Từ khoảng thế kỷ 15 trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định
hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật như Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Cô Đôi Thượng Ngàn,... với các nghi
thức ảnh hưởng từ Đạo giáo.
Thứ hai, là thờ Mẫu ở Trung bộ
Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực nam Trung bộ, đặc trưng cơ bản
của dạng thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu khơng có sự hiện diện của mẫu
11


Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ
thần như thờ Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Thánh Mẫu như
thờ Thiên Y A Na, Po Nagar.
Thứ ba, là Thờ Mẫu ở Nam bộ
So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với
biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự
phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được
giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào
đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu
ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong
văn hố mà cịn cả trong tín ngưỡng.
“Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh
nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,... và những Mẫu thần được thờ
phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu” [17; 48].

* Nội dung và nghi thức thờ Mẫu
Trong điện thần thờ Mẫu, ngoài Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cịn có các Mẫu
khác như: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải.
Ngồi ra trong điện thờ Mẫu cịn thờ Ngọc Hoàng, Ngũ vị vương quan (Từ
Đệ Nhất đến Đệ Ngũ), Tứ vị Chầu Bà, Ngũ vị Hoàng Tử, Thập nhị Vương Cơ, Thập
nhị Vương Cậu, Ngũ Hổ, Ơng Lốt (rắn) [17; 55].
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ là phổ biến nhất.
Các vị Thánh trong đạo Mẫu không chỉ phân thành các hàng mà còn phân thành các
Phủ. Phủ trong đạo Mẫu mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước hết, Phủ trong Tam
Phủ, Tứ Phủ mang nghĩa rộng và bao quát, tương ứng với các miền khác nhau trong
vũ trụ: Thiên phủ (miền Trời), Địa phủ (miền đất), Thoải phủ (thuỷ phủ, miền sông
biển), và Nhạc phủ (miền rừng núi). Đứng đầu mỗi Phủ như vậy là một vị Thánh
Mẫu: Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) cai
quản Địa phủ, Mẫu thoải cai quản Thoải phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc
phủ. Giúp việc cho bốn vị Thánh Mẫu cịn có nhiều vị thánh thuộc các hàng Quan,
Chầu, Ơng Hồng, Cơ, Cậu cũng phân theo 4 phủ như các vị thánh Mẫu kể trên.
Hiện nay trong điện thần Thờ Mẫu đều tồn tại quan niệm tam phủ và tứ phủ.
Tứ Phủ là gồm ba phủ trong Tam Phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm phủ Thượng
Ngàn (Nhạc Phủ). Hiện nay chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam Phủ và Tứ Phủ của
12


đạo Mẫu có từ bao giờ. Tuy nhiên, có thể tin rằng Tam Phủ có trước Tứ Phủ và việc
tồn tại phủ thứ tư là Nhạc Phủ là một nét đặc thù của Đạo giáo Việt Nam.
Có thể quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ
luận nguyên sơ là Âm và Dương, dần dần yếu tố Âm trong lưỡng cực Âm Dương
phân hóa thành Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ.
Tứ Phủ ứng với bốn phương, bốn miền của vũ trụ, trong đạo Mẫu biểu hiện
thành bốn màu cơ bản: Thiên Phủ ứng với màu đỏ, Thoải Phủ ứng với màu trắng,
Địa Phủ ứng với màu vàng và Nhạc Phủ ứng với màu xanh. Đó cũng là màu sắc của

trang phục các vị Thánh khi giáng đồng, là màu sắc của các đồ cúng lễ. Từ các màu
sắc này chúng ta có thể dễ dàng phân biệt mỗi vị thánh thuộc vào phủ nào trong hệ
thống Tam Phủ, Tứ Phủ.
* Không gian thờ Mẫu
“Không gian thờ Mẫu thường được gọi là Phủ. Hiện nay ở nước ta, Phủ Dầy
ở huyện Vụ Bản - Tỉnh Nam Định và Phủ Tây Hồ ở Hà Nội là hai trung tâm thờ
Mẫu lớn. Trong điện thần Tứ Phủ, quan niệm của con người về vũ trụ được thể hiện
rõ đó là bốn vùng khơng gian gắn với sự sinh tồn của con người” [14; 142].
“Vũ trụ được chia nhỏ gắn với bốn yếu tố chia làm hai cặp âm - dương:
Thiên - địa, sơn - thủy, trong có cặp thiên - địa (dương - âm, đực - cái) là cặp trụ cột
của hệ thống Tứ phủ. Trong Tứ phủ còn biểu hiện quan niệm về ngũ hành (bà Mộc,
bà Thủy, bà Hỏa, bà Kim, bà Thổ)” [14; 142].
“Mẫu Liễu Hạnh được hóa thân vào Mẫu Thiên là đấng sáng tạo ra vũ trụ. Ở
khía cạnh gia đình và xã hội, Tứ phủ được mô tả kiểu gia tộc được cung đình hóa
bởi phủ cao nhất là cha mẹ (Vua cha, Thánh Mẫu), dưới các quan, các chúa, các ơng
hồng, các cơ, các cậu. Cách bài trí trong phủ - điện thờ Mẫu chính là sự phản ánh
cách bài trí kiểu “Tam Tịa”, “Lục Viện” của đình phong kiến, phản ánh quyền lực
vô hạn của phủ chúa thời Lê - Trịnh” [14; 142]. Điều này cho thấy rằng, cũng giống
như các tơn giáo khác tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của con người và xã hội.
* Hệ thống nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống nghi lễ và lễ hội hết sức phong phú, đa
dạng. Điển hình và tập trung nhất là nghi lễ hầu bóng (hầu đồng) và lễ hội “Tháng
Tám giỗ cha, Tháng Ba giỗ mẹ”.

13


“Hầu bóng là nghi lễ nhập hồn vào của các vị thánh trong Tứ phủ vào thân
xác ông đồng, bà đồng, là sự tái hiện lại hình ảnh của các vị thánh nhằm phán bảo,
ban phúc lộc cho tín đồ” [14; 143].

“Từ “bóng”dùng để chỉ vị thần linh nào đó nhập cái “bóng” (hồn) của mình
vào các ơng đồng, bà đồng. Ông đồng, bà đồng là người hầu hạ cho cái bóng thần
linh ấy” [14; 143].
“Hầu bóng cịn được gọi là hầu đồng. Đồng là chỉ cậu con trai dưới 15 tuổi
cịn ngây thơ, trong trắng mà thần linh có thể nhập vào. Nói đến đồng là phải nói
đến cốt - đồng cốt” [14; 143].
Cốt là xương cốt bên trong, sự kín đáo bên trong khơng thể thấy được, có
nghĩa là cốt Thánh. Còn đồng là phần thể hiện bên ngồi để giao tiếp, do vậy con
cơng đệ tử theo đồng, nghe đồng tức là nghe Thánh, Mẫu dạy.
Nhưng cũng có người cho đồng là hịa đồng và theo kinh dịch hịa đồng là
ngun lý: Trời có ngũ hành “Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ”, người có năm hổ tướng
là Hồng hổ, Xích hổ, Hắc hổ, Thanh hổ và Bạch hổ, hịa hổ tướng để có ngũ hành
Thiên - nhân hợp nhất, mới có xã hội, thánh thần… Đây là khó giải thích, rất phức
tạp. Dân gian biết khó vậy nhưng đã làm, cứ làm và sẽ làm vì họ cho đây là “căn
mạng”, là khoảng trống trong tâm hồn, trong trí não và chỉ có ngồi đồng mới lấy lại
đươc trạng thái bình thường, mới siêu thốt. Và tất nhiên khơng phải ai cũng có
“căn mạng”, cũng là ghế đệm của Thánh, là đồng thực.
Ngồi đồng có nhiều giá như giá các Mẫu đệ Nhất, đệ Nhị, đệ Tam, giá vua
cha, giá các quan đệ Nhất, đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ, Quan lớn tuần chanh, giá các ơng
Hồng Bảy, ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bơ. Giá chầu Bà đệ Nhất, đệ Nhị, chầu
Bà Thác Bơ, Chầu Bà đệ Tứ, đệ ngũ, đệ Lục, đệ Thất, chầu bà Bát Nàn (Tướng
Trưng Vương), chầu Cửu Tỉnh, Chầu Mười - Đồng Mỏ, chầu Bà Bắc Lệ.
Lại có các giá chầu 12 Cơ trong đó có: Cơ Bơ, cơ chín, cơ Bé, và giá chầu các
Cậu: ơng Hồng Ba, cậu Hồng Quận, cậu Hồng Bé, rồi Văn Cơ Nhất Vân Đình, Cơ
nhất Thiên Thanh, Cơ Đệ Nhị Đại Hồng, Văn chầu Bắc Lệ, Lê Mại Chúa Tiên…
“Hầu đồng thường được thực hiện vào sau lễ thừa, lễ Thượng Nguyên, lễ
Lập Hạ (tháng tư), lễ Tán Hạ (tháng bảy), Lễ Tất Niên (tháng Chạp). Đặc biệt vào
dịp tháng ba giỗ Mẹ và tháng tám giỗ Cha thì hầu bóng được tổ chức to nhất. Trong
hầu đồng người ta thường sử dụng âm nhạc với nhiều hình thức diễn xướng đặc biệt
là lối hát chầu văn” [14; 143].


14


Trang phục cho mỗi giá đồng (là ông đồng, bà đồng) rất phong phú. “Khi
một vụ thần linh nào đó xuất hiện trên giá đồng thì phải có trang phục riêng. Vì vậy,
ơng đồng bà đồng định hầu bao nhiêu giá đồng thì phải có bấy nhiêu bộ trang phục,
thường thì có ba mươi sáu giá đồng. Người giúp việc ông đồng, bà đồng là hầu dâng
và cung văn. Người hầu dâng giúp việc thắp hương, dâng lễ vật, thay lễ phục khi
ông đồng, bà đồng chuyển giá” [14; 143].
“Cung văn là những người chơi nhạc cụ như đàn nguyệt, trống, thanh la và
hát. Một buổi hầu đồng thường được tiến hành theo các bước: thánh giáng, thay lễ
phục, thắp hương làm phép, múa đồng, ban lộc và nghe văn chầu thánh thăng. Để
thánh giáng, ông đồng, bà đồng thường trùm chăn phủ điện, hai tay chắp dâng ba
nén hương, đầu và thân lắc lư cho tới khi nào thánh giáng (nhập) thì bng hương,
rùng mình, tay báo hiệu Thánh giáng thuộc hàng bậc nào” [14; 143].
Lúc đó cung văn tấu nhạc và xướng văn chầu phù hợp với vị nào vừa giáng.
Sự nhập hồn của các thánh vào cơ thể các ông đồng, bà đồng biểu hiện sống động
qua các diễn xướng.
Như vậy, “tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bản địa, là một sản
phẩm tất yếu của một thời đại lịch sử đang trên đà suy thối, mặt khác cũng là sự
phản ánh trình độ tư duy và tình cảm, nguyện vọng của đơng đảo các tầng lớp người
trong xã hội, và sự tiếp nối truyền thống trọng âm, trọng phụ nữ của người Việt Nam
trong lịch sử, là ước nguyện về một cuộc sống bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc
của con người nói chung và của người phụ nữ việt nam nói riêng. Do tính phổ biến
của nó trong lịch sử cũng như trong xã hội hiện tại, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
đây là một tôn giáo (Đạo Mẫu)” [14; 144]. Song thực ra trong tín ngưỡng thờ Mẫu,
các yếu tố đặc trưng cấu thành một tôn giáo chưa phải điển hình. Hoạt động thờ cúng
mang tính tự phát, tính tổ chức và hệ thống cịn lỏng lẻo. Tín đồ chủ yếu là tin và theo
trên cơ sở cảm tính, thói quen chứ ít dựa trên cơ sở giáo lí.

Bên cạnh những biểu hiện như gieo giắc những yếu tố mê tín, làm thui chột
tính năng tự động, tích cực sáng tạo của con người… thì ở tín ngưỡng thờ Mẫu cũng
có những yếu tố tích cực nhất định. Nó giúp con người hướng thiện, tránh cái ác, tạo
thêm niềm tin vào cuộc sống, nâng tiếp sức mạnh của con người. Đặc biệt khi gắn
liền với các lễ hội dân gian truyền thống nó đề cao những người có cơng với dân, với
nước, tôn vinh người mẹ, khơi dậy đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Cũng như Tam
giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa rất Việt Nam.

15


* Cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu
Mẫu gọi theo tiếng Hán, tiếng việt nam là Mạ, Mệ, Mẹ, tại sao lại có tín
ngưỡng thờ mẹ. Đó là thời ngun thủy con người đã ý thức sâu sắc về sự sinh sản,
sự sinh sôi nảy nở, ý thức ấy thường được biện lí từ cái cụ thể. Mà ý thức cụ thể về
sự sinh sơi nảy nở ấy khơng gì khác ngoài người mẹ ngoài người mẹ mang nặng đẻ
đau, sinh ra nuôi dưỡng che chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên tai và thú
dữ ấy đều được gọi là người mẹ.
Theo ý nghĩa trên người mẹ biểu tượng đầu tiên nuôi sống che chở cho con
người ấy là người mẹ cây. Cây cho mầm, cho dễ, cho quả để con người ăn, sinh
sống ban đầu, cây cho vỏ để người mặc, cây cho cành, cho những rễ phụ để cho con
người kết lại thành võng treo mình trên võng qua đêm và tránh thú dữ sát hại.
F.Engles trong sách “Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước” đã viết là: ít
nhất con người cịn sống ở trên cây một phần thì mới có thể giải thích được rằng họ
có thể sinh tồn cùng với thú dữ.
Ở nước ta cây cho dễ phụ nhiều nhất là cây đa, cây si. Hiện nay ở xã Tiên
nông (Khởi thủy của nghề nông), bên bờ sông Lô, thị xã Tuyên Quang còn thờ Mẫu
Ỷ La. Nay đền đã quang đãng, trước đây không lâu bao quanh đền là cả một rừng
cây đa cổ thụ, rễ phụ đan nhau chằng chịt. Cũng một đền thờ khác ở thị xã Tuyên
quang thờ bà chúa Thượng ngàn, cũng trồng rất nhiều cây si và cây đa cổ thụ được

gọi là cây thiêng, cây bất tử tỏa bóng mát cho khách thập phương. Ỷ là dựa, La là
lưới. Lưới của những cây đa, cây si được kết thành lưới, thành võng như những cái
nôi đưa con người nguyên thủy vào trong giấc ngủ qua đêm tránh thú dữ. Bởi thế, Ỷ
la trở thành những biểu tượng đầu tiên về mẹ thiêng liêng. Việc thờ Mẫu mang tính
chất là thờ mẹ cây, mẹ rừng ta thấy rất rõ nét ở nhiều nơi. Như ở đền Hai Bà Trưng
- Đồng Nhân, Hà Nội, trên bàn thờ Mẫu ta thấy treo bức tranh hoành phi đề “Tam
mộc sơn đình” hay ở đầu bàn thờ Mẫu thấy bức tranh hoành phi là Mẫu Sơn Lâm.
“Tam mộc sơn đình” là ba cây làm nên rừng lớn. Dân ta có câu :
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hịn núi cao”
Đó là hình ảnh nói về sức mạnh đoàn kết cộng đồng bắt nguồn từ tục thờ
Mẫu “Tam mộc sơn đình”.
Mẫu Ỷ La mang tính chất là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm được nhân
cách hóa thành huyền thoại như sau:

16


“Vua Hùng Định Vương có bà hồng hậu thứ ba, tên là An nương, mang thai
khá lâu, bà đi chơi giữa rừng núi xanh, trở dạ đẻ, bà vịn vào gốc cây quế cổ thụ, đau
đớn vất vả lắm mới sinh ra được con gái nhưng bà kiệt sức mất ngay sau khi sinh con
ra. Con gái được vua Hùng đăt tên là Mị Nương Quế Hoa. Lớn lên Quế Hoa rất xinh
đẹp, nhiều hoàng tử xin kết duyên nhưng nàng khơng đồng ý chỉ một lịng tìm mẹ với
nỗi nhớ nhung da diết Nàng cùng 12 thị nữ đi khắp rừng xanh tìm mẹ. Trên đường đi
nàng gặp rất nhiều dân tình đói khổ vào rừng đào củ mài kiếm ăn, nàng rất xót xa
thương dân tình đói khổ. Với lịng nhất mực hiếu thảo tìm mẹ và lịng bác ái thương
dân, nàng đã được tiên ông hiện xuống ban sách q có phép màu, làm núi sơng
thơng thương trở lại, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, cuộc sống dân lành ấm no,
yên vui trở lại… Đám mây ngũ sắc hạ xuống đón Bà và 12 thị nữ về trời” [17; 61].
Nhân dân thương nhớ tôn nàng là Thượng Ngàn Thánh Mẫu, lập đền thờ nay

là đền suối Mỡ ở Hữu Lũng, Lạng Sơn.
Câu chuyện trên đây là nguồn gốc hình thành các câu chuyện sau này như
câu chuyện tấm cám xuất hiện ơng tiên có phép lạ, nhưng cốt lõi ở đây là mẹ rừng
xanh và thánh tản viên. “Đó là cơng chúa La Bình con của Sơn Tinh và Mỵ Nương,
cháu ngoại của Vua Hùng, nàng là cơ gái tuyệt sắc, có nhiều tài nghệ thường theo
cha chu khắp núi rừng, hang động. Đi đến đâu nàng cũng quyến luyến phong cảnh
làm bạn với cây cỏ, chim thú. Các vị sơn thần ở các núi non đều rất quý nàng và
được bảo ban giúp đỡ, dân lành trong vùng vì thế cũng được sống yên ổn, ấm no.
Hay tin đó Ngọc Hồng rất khen ngợi tản viên sơn Thánh và La Bình, phong nàng
là bà chúa Thượng Ngàn, cai quản 81 cửa rừng” [17; 62].
Câu truyện về Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu đệ nhất, là một cô gái người giao
ở Động Cuông, Yên Bái. Khi cô sinh ra bố mẹ đã già yếu, từ nhỏ đến lớn cô chỉ làm
việc thiện không lấy chồng, khi chết bà hiển linh giúp đỡ dân làng được nhiều điều
tốt đẹp, nên bà được thờ ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái và Bà
cũng báo mộng cho ông Lê Lợi và ông Nguyễn Trãi biết được tiến công của giặc
minh để thắng chúng ở Lạng Sơn, nên cũng được thờ ở Đền Bắc Lệ, Đồng Đăng.
Như vậy, ta có thể khẳng định rằng: “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người việt,
khởi nguồn gắn với những con người còn cư trú trên các miền rừng núi”.
Có thể hiểu là tín ngưỡng thờ Mẫu từ miền rừng núi thờ mẹ cây (sau này gọi
là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm), rồi theo dòng lich sử đi xuống vùng trung du
đồng bằng và bổ sung thêm các Mẫu khác.

17


Khi con người xuống trung du, đồng bằng sống bằng nghề nông nghiệp lúa
nước, cây lúa hạt gạo là yếu tố quan trọng hàng đầu nuôi sống con người, rồi các
cây hoa màu, cây ăn quả. Mẹ cây vẫn gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Và
con người làm nơng nghiệp lúa nước thì đất và nước là hai yếu tố tiếp theo đươc tôn
thờ. Đất và nước được tôn vinh thành mẹ đất, mẹ nước (Mẫu Địa, Mẫu Thoải) gia

nhập vào hàng ngũ mẫu được tôn thờ.
Thế nhưng quyết định có nước lại do mưa từ trên trời rơi xuống, con người
chưa thể hiểu được quy luật của mưa là nước bốc hơi lên thành mây mưa, do đó là
trời quyết đinh, mẹ trời được tơn vinh, Mẫu Thiên gia nhập hàng ngũ Mẫu. Tín
ngưỡng là thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng để tôn vinh tôn thờ
phù hợp với cuộc sống của con người là thế. Mẹ cây, mẹ rừng (sau này gọi là Mẫu
Thượng Ngàn hay Mẫu Sơn Lâm), Mẹ đất, mẹ nước, mẹ trời (thời tiết, khí hậu), hay
gọi theo tiếng hán là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thoải,Mẫu Thiên là hệ
thống Mẫu cơ bản ban đầu của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong các Mẫu trên thì Mẫu Thượng Ngàn được nhân cách hóa như trên, cịn
Mẫu Thoải (Mẫu Thủy) được nhân cách hóa như sau:
“Dụ bản từ làng A Lữ kể rằng, thuở trời đất mới mở mang, rừng núi sông hồ
hoang vu. Kinh Dương Vương thường đi chu du khắp nơi, một hơm đến hồ Động
Đình gặp người con gái sắc đẹp tuyệt trần, con vua Long Vương hồ Động Đình.
Kinh Dương Vương lấy về làm vợ, sinh ra Sùng Sản, chính là Lạc Long Quân, Lạc
Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở trăm con, tổ tiên Lạc việt từ
Rồng, từ Nước” [17; 63].
Có truyền thuyết kể rằng Mẫu Thoải khơng phải một bà mà là nhiều bà. Các
bà đều là con của Lac Long Quân, trong đó chọn được ba người giao cho quản lĩnh
sơng biển nước Nam, đóng dinh ở sơng Nguyệt Đức. Một bà có hiệu là Thủy Trinh
Động Đình Ngọc Nữ cơng chúa. Bà thứ hai có hiệu là Hoàng Hà Đan Khiết phu
nhân. Bà thứ ba là Tam Giang công chúa. Tam Giang này là ngã ba Sà Yên Phong,
Bắc Ninh.
“Một truyền thuyết khác, do người pháp là Durant sưu tầm, kể rằng ở vùng
Tuyên Quang có một hoàng tử con vua Đất là Kinh Xuyên, lấy vợ là con gái Long
Vương ở Hồ Động Đình, bà rất yêu chồng. Nhưng Kinh Xuyên lại lấy vợ hai tên là
Thảo Mai. Thảo Mai ghen ghét với vợ cả, vu cáo vợ cả không yêu chồng. Bực tức,
Kinh Xuyên nhốt vợ vào cũi, đem bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt. Ở trong rừng, bà vợ

18



cả không những không bị thú dữ ăn thịt mà chúng cong mang hoa quả đến nuôi sống
bà. Một hôm một có một nho sĩ đi qua, bà nhờ nho sĩ viết cho một bức thư gửi cho
cha là Long Vương, bà được cứu thoát, Long Vương,muốn gả bà cho nho sĩ, nhưng
ông từ chối chỉ nhận là người bạn chân thành của bà. Đề cao đạo đức của bà, người
đời tôn thờ bà là Mẫu Thoải (Mẹ Nước) lập đền thờ ở Tuyên Quang” [17; 63,64].
Qua những câu chuyện nhân cách hóa viết về mẹ nước (Mẫu Thủy) trên đây,
ta thấy nho giáo ban đầu chưa hội nhập vào tín ngưỡng thờ thần. Và Mẫu Thoải vẫn
khơng thốt khỏi những yếu tố ban đầu của nó, lấy chồng và là con gái vua Đất mẹ,
mẹ Nước bị bỏ vào trong rừng (Mẹ Cây). Ba yếu tố Đất, Nước, Cây vẫn được nhấn
mạnh trong ý niệm ban đầu của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Đến mẹ Đất, mẹ Trời thì được nhân cách hóa khi Phật giáo du nhập. Qua câu
chuyện của bà Man Nương làm thủy hộ ở chùa Luy Lâu (Chùa Dâu) ngày nay), do
nhà sư Khâu Đà La (Người Ấn Độ) vơ tình bước qua người bà, khi bà nằm ngủ
thiếp đi ở hiên cửa trai phòng, bà động thai, sinh bé gái. Bà đem con trả cho nhà sư,
nhà sư mang bé gái đọc thần chú gửi vào trong gốc cây dương thụ. Về sau, do mưa
to gió lớn cây dương thụ bị đổ trôi về bên sông Dâu. Em bé gái trước đây nằm trong
gốc cây dương thụ biến thành Thạch Quang Phật, cây dương thụ được tạc thành bốn
pho tượng, tôn làm bà Pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp Điện (bốn yếu tố gắn
liền với thời tiết, khí hậu: Mây, mưa, sấm, chớp, hình thành nên hệ thống chùa tứ
pháp được thờ nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ).
Ở đây ta thấy, mẹ Trời (Mẫu Thiên) được triển khai thành Mây, Mưa, Sấm,
Chớp, cho kết hợp với Phật giáo thành các bà, vẫn là yếu tố mẹ. Và đặc biệt sự nhân
cách hóa này, mẹ Trời (Mẫu Thiên) vẫn hòa quyện với ba yếu tố ban đầu là đất
(Thạch Quang Phật, Thạch là đá - Đất cứng), cây (Cây dung thụ) và nước (Cây
dung thụ theo dịng nước chảy về bến sơng Dâu).
Việc thờ mẹ Cây, mẹ Đất, mẹ Nước xưa kia phổ biến ở các làng quê trung du
đồng bằng bắc bộ. Với bộ ba luôn đi liền với nhau và giếng làng, cây đa, cây si, cây
đại với bệ bên gốc đa, đặt các bình vơi đã nứt vỡ từ trong các gi đình đưa vơi ra

(vơi, đá, đất cứng). Đến đây, một vấn đề đặt ra là tại sao người Việt (Kinh) lại sâu
sắc tôn thờ những đối tượng Cây, Đất, Nước và Trời (thời tiết, khí hậu) thành các
mẹ, đó là do nằm trong bản chất văn hoá Việt Nam, mang tính chất Triết học biểu
hiện ra như sau:

19


Thứ nhất là ý thức sâu nặng nhớ về cội nguồn. Qua tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, tín ngưỡng thờ thần là những người có cơng dựng làng, giữ nước.
Đối với người Mẹ, người mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng nên những đứa con, thì
cơng lao sinh thành dưỡng dục của mẹ thật sự là sâu nặng vô cùng. “Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra” nước trong nguồn chảy ra khơng bao giờ hết, khơng bao
giờ cạn thì nghĩa cả ơn mẹ cũng chẳng bao giờ nguôi. Từ ý thức ấy, mở ra tầm nhìn
văn hóa, thì những cái gì là yếu tố quyết mang ý nghĩa quyết định sinh sôi ra của cải
hạt gạo bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nơng nghiệp
lúa nước, thì cũng có thể ví như cơng ơn nghĩa mẹ. Vì thế Cây, Đất, Nước (Thời
tiết, khí hậu) được tơn vinh như những bà Mẹ văn hóa.
Thứ hai là văn hóa của Việt Nam mang nặng triết lí âm sinh dương thành. Nó
được biểu hiện ở văn hóa nơng nghiệp lúa nước, nên rất đề cao yếu tố n tĩnh hịa
bình (âm) rất coi trọng tình nghĩa (âm) xóm làng để đồn kết tạo sức mạnh chống
thiên tai địch họa, làm thủy lợi. Và trong ứng xử bang giao thì hiếu hịa (âm) hơn
hiếu thắng (dương) và biết “cúi đầu để giữ nước” cũng là âm tính. Nhưng âm lại
phải vận hành trong sinh sôi phát triển, vì thế “Dĩ bất biến (âm) ứng vạn biến
(dương)”, “Giặc đến nhà đàn bà (âm) cũng đánh (dương)”. Bởi thế văn hóa Việt
Nam, mọi trách nhiệm và vinh quang đều quy về người Mẹ (cái), “Con dại cái
mang”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”.
Từ những dẫn giải trên đây có thể kết luận: Cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam đó là tơn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước, Trời (Thời tiết, khí hậu),
những yếu tố cơ bản (qua sức lưc của con người) sản sinh ra của cải vật chất, hạt

gạo, bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nông nghiệp lúa
nước, thành các bà mẹ gọi chung là tín ngưỡng thờ Mẫu.
Các Mẫu trong xã hội phong kiến được tơn lên như những bà Chúa. Mà chúa
thì ở Phủ (Phủ chúa Trịnh, Phủ chúa Nguyễn), vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu với bốn đối
tượng trên đây được gọi là Tín ngưỡng Tứ Phủ Đó là Mẫu Thiên là Thiên Phủ, Mẫu
Địa gọi là Địa phủ, Mẫu Thoải gọi là Thoải phủ, Mẫu Sơn Lâm gọi là Nhạc Phủ.
* Một số nhận xét về tín ngưỡng thờ Mẫu:
Thứ nhất, tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian bản địa,
mang đặc trưng của cư dân vùng nơng nghiệp, được hình thành trên tín ngưỡng thờ
Nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu đề cao yếu tố tính nữ thơng qua hình tượng người
phụ nữ có sức mạnh và quyền năng sinh sôi, nảy nở, phát triển, tạo ra vạn vật, muôn

20


×